Về phủ Dương Xuân của Chúa Nguyễn
Chúng ta được biết thời các chúa Nguyễn, ngoài đô thành Phú Xuân ở bắc
Sông Hương, còn có xây dựng ở thượng lưu bờ nam Sông Hương một cái phủ có
tên là phủ Dương Xuân, và sử triều Nguyễn chép như sau: “Gò Dương Xuân: Ở
phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm; thế gò bằng phẳng rộng rãi, chỗ cao
chỗ thấp, la liệt dài dặc độ vài dặm; phía nam gò có đàn Nam Giao, phía tây có
nhiều danh lam cổ sát, cũng xưng là nơi giai thắng. Cẩn án: Lúc đầu bản triều khai
quốc có dựng phủ ở gò Dương Xuân nầy. Đời vua Hiển Tôn năm Canh Thìn thứ
9 (1700) trùng tu, cơ Tả Thủy đào đất được 1 cái ấn đồng có khắc chữ "Trấn Lỗ
tướng quân chi ấn"., nhân đó đặt tên phủ là Ấn phủ. Từ sau khi bị binh hỏa đến
nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.(1)
Bạn đang xem tài liệu "Về phủ Dương Xuân của Chúa Nguyễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Về phủ Dương Xuân của Chúa Nguyễn
50 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 * Thành phố Huế. VỀ PHỦ DƯƠNG XUÂN CỦA CHÚA NGUYỄN Nguyễn Anh Huy* Chúng ta được biết thời các chúa Nguyễn, ngoài đô thành Phú Xuân ở bắc Sông Hương, còn có xây dựng ở thượng lưu bờ nam Sông Hương một cái phủ có tên là phủ Dương Xuân, và sử triều Nguyễn chép như sau: “Gò Dương Xuân: Ở phía tây bắc huyện (Hương Thủy) 15 dặm; thế gò bằng phẳng rộng rãi, chỗ cao chỗ thấp, la liệt dài dặc độ vài dặm; phía nam gò có đàn Nam Giao, phía tây có nhiều danh lam cổ sát, cũng xưng là nơi giai thắng. Cẩn án: Lúc đầu bản triều khai quốc có dựng phủ ở gò Dương Xuân nầy. Đời vua Hiển Tôn năm Canh Thìn thứ 9 (1700) trùng tu, cơ Tả Thủy đào đất được 1 cái ấn đồng có khắc chữ "Trấn Lỗ tướng quân chi ấn"..., nhân đó đặt tên phủ là Ấn phủ. Từ sau khi bị binh hỏa đến nay, chỗ ấy mất tích không biết ở vào chỗ nào”.(1) Năm 1925, Linh mục Léopold Michel Cadière (1869-1955)(2) dựa vào các tài liệu cổ như nhật ký năm 1749 của Pierre Poivre , Lê Quý Đôn... để tìm cách chứng minh rằng phủ Dương Xuân ở khu vực đình Dương Xuân Hạ ở cánh đồng Bàu Vá, đường Bùi Thị Xuân, Phường Đúc, Huế ngày nay. Sau này, các nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan, Trần Viết Điền, Trần Đại Vinh(3) cũng đã theo hướng này, bỏ nhiều tâm huyết, công sức thực địa để tìm các chứng cứ bổ sung cho nhận định của Cadière... Riêng nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từ năm 1992, đã đưa ra giả thuyết mới là phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, Huế; sau đó cho ra mắt công trình Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương (Sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung)(4) với nội dung cho rằng phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm chính là nơi chôn cất thi thể vua Quang Trung. Tất nhiên rằng trong 2 vị trí trên, chắc chắn sẽ có 1 vị trí sai với sự thật lịch sử. Do vậy, để tìm ra vị trí của phủ Dương Xuân một cách tương đối chính xác, tôi thấy cần phải đi khảo sát thực tế cả 2 nơi, sau đó so sánh đối chiếu với các sử liệu hiện có. Từ đó tìm ra vị trí nào có số điểm giống với sự mô tả trong tài liệu cổ nhiều hơn thì nghiêng về giả thuyết ấy... I. Những sử liệu hiện có 1. Mô tả của Thích Đại Sán (TĐS)(5) năm 1695 về phủ của chúa Nguyễn “...Sắp đến vương phủ, mênh mông không có thành quách, chung quanh trồng tre gai làm rào; trong tre cất một hàng trại lợp bằng cỏ tranh; mỗi trại đều 51Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 có đặt súng đồng... Sau trại súng lại có hàng rào tre gai, phía trong có vòng tường thấp, rộng chừng một hai dặm, vương phủ ở trong ấy. Đi chẳng xa, phu đò báo cáo nước cạn, Quốc sư đứng dậy bạch rằng: 'Từ đây xin lên bộ'. Lúc ấy quan dân trai gái tụ họp chen lấn đứng xem, võng không đi tới được. Đi quanh hai ba lớp núi, nghe trong rừng tre có tiếng trống chuông; Quốc sư rước vào ngồi trong một ngôi đền... Đương bàn với Quốc sư tính nghỉ ngơi vài ngày rồi sẽ ra mắt Quốc vương... Sứ giả đi lại liên tiếp, Quốc sư ép ta qua yết kiến một lần cho thỏa lòng Quốc vương. Võng lọng từ cửa giữa đi thẳng vào đền, vua đứng đón ở thềm phía đông... dắt vào trong cung... Qua nửa đêm, còn lưu luyến chưa cho từ biệt... Về đến chùa Thiền Lâm, canh ba đã điểm trống... Sáng sớm ngày mồng một tháng hai, nhà vua khiến Nội giám đem thuyền đến mời ta vào ra mắt. Gần đúng ngọ, đến phủ, nhà vua chờ đón ở cửa phía tây, lần này người mặc đạo bào, không xiêm mão như lần trước...”. 2. Mô tả của giáo sĩ P. Koffler(6) đến Đàng Trong từ năm 1740, ở triều đình Huế cho đến 1755 “Outre cette demeure royale (c’est-à-dire le grand palais), il y a encore trois autres palais Le second, qui sert au roi de résidence d’hiver, est contruit sur la rive opposée du fleuve” (Tạm dịch: Ngoài chính dinh chúa ngự ấy ra (tức cung điện lớn nhất), còn có 3 cung điện khác nữa Cung điện thứ hai dùng làm cung điện mùa đông của nhà vua thì được xây dựng ở bờ đối diện của con sông). 3. Mô tả của Pierre Poivre(7) năm 1749-1750 - “Le 22. (septembre 1749) - A trois heures nous arrivons à Hué, vis-à-vis du Toïta ou palais d'été construit dans l'eau, et du grand palais nommé Phu hing” (Tạm dịch: Ngày 22/9/1749... vào lúc 3 giờ, chúng tôi đến Huế, trước mặt Toïta(8) hay là cung điện mùa hè, xây trên mặt nước, và cung điện lớn tên là Phủ Chính). - “Le 29. (septembre 1749) - Hué, capitale de la Cochinchine, est divisée en douze quartiers tous situés sur les bords d'une grande rivière et d'une infinité de canaux qui en sortent. Les quatre principaux ont pris le nom des quatre palais du Roy, dont le plus grand est celui qu'ils nomment Phu kinh ou palais secret, le second Phu tlen, ou palais supérieur, le troisième Phu cam, palais deffendu, le quatrième Phu aô, palais du marais” (Tạm dịch: Ngày 29/9/1749. Huế, thủ phủ xứ Đàng Trong, gồm có 12 khu vực(9) đều nằm bên bờ một con sông lớn và những con kênh nhỏ tách ra dài vô tận. Bốn phủ chính mang tên 4 cung điện của nhà vua, cái lớn nhất tên là Phủ Chính hay là mật điện,(10) cung điện thứ hai là Phủ Trên, cung điện thứ ba là Phủ Cam, cung điện thứ tư là Phủ Ao). 52 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 -“ Le 25. (novembre 1749) Le Roy a quitté le grand palais nommé Phou king et a transporté la cour au palais d'hiver nommé Phou tlen... Ce palais d'hiver est construit sur le modèle du grand; il est environné de canons comme les autres et bâti sur le bord du fleuve” (Tạm dịch: Ngày 25/11/1749... Nhà vua rời cung điện lớn tên là Phủ Chính và đến cung điện mùa đông còn có tên là Phủ Trên...(11) Cung điện mùa đông này mô thức cũng giống Chính Dinh, cũng có súng thần công bao quanh như những cung điện khác, và được xây ở bờ sông). - “Le 29. (novembre 1749) - Je suis allé au palais supérieur pour tâcher d'avoir audience du Roy Pour me recevoir le Roy étoit descendu dans une petite salle bâtie pour les audiences à la porte du palais Le Roy ayant reçu ma requête avec un air de bonne volonté, me prit par la main et me conduisit sur une terrasse élevée à l'extrémité du palais vis à vis un grand étang où il faisait alors jeter le filet Tandis que j'étois sur la terrasse du palais avec le Roy, des pauvres misérables se sont prosternés de l'autre côté de l'étang, et après s'estre plusieurs fois prosternés, se sont mis à crier de toutes leurs forces : à l'injustice, à l'injustice” (Tạm dịch: Ngày 29/11/1749. Tôi đi lên Phủ Trên để yết kiến nhà vua... Để gặp tôi, nhà vua bước xuống một cái phòng nhỏ xây để tiếp khách ngay tại cửa cung điện. Ông chấp nhận mọi thỉnh cầu của tôi bằng một tinh thần thoải mái và dắt tôi lên một sân thượng ở một đầu cung phủ, đối diện một cái hồ mà ông đang giăng lưới chận cá... Trong lúc tôi đang ở trên sân thượng với nhà vua, thì ở phía bên kia bờ hồ, một đám dân nghèo đang quỳ lạy Ngài, rồi kêu lên: Bất công! Bất công!). -“Le 2. (janvier 1750) - Le Roy est descendu du petit palais de Toudouc au grand Palais” (Tạm dịch: Ngày 02/01/1750. Nhà vua rời cung điện nhỏ ở vùng Thợ Đúc để về cung điện lớn(12)). - “Le 5. (janvier 1750) - Le Roy s'est donné le spectacle du combat des tigres avec les éléphants. On a transporté les premiers dans des cages sur une isle située au milieu de la grande rivière de Hué vis-à-vis l'un des palais” (Tạm dịch: Ngày 05/01/1750. Nhà vua tổ chức một buổi đấu giữa cọp và voi. Người ta đem đến những con vật đầu tiên trong chuồng trên một hòn đảo giữa con sông lớn ở Huế, mà hòn đảo ấy đối diện với một cung điện). - “Le roy a trois palais dont deux sont au bord de la rivière, le plus grand est celui où il passe l'automne... Le second palais, qui est plus petit, est bâti sur une élévation un peu éloignée de la rivière et n'a qu'une aile qui regarde du côté de l'eau. Le roy y passe l'hiver ou la saison des pluies qui dure quatre mois. Le troisième palais est celui qu'on appelle le palais d'eau. C'est le séjour du roy pendant l'été...”(13) (Tạm dịch: Nhà vua có 3 cung điện, mà 2 cái đều nằm ở bờ sông, cái lớn nhất để ở vào mùa thu... Cung điện thứ hai nhỏ hơn, được xây trên 53Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 một cái gò hơi xa sông một chút và nó có một cánh nhìn ra phía sông. Vua thường ngự ở đó vào mùa đông hay mùa mưa kéo dài đến bốn tháng. Cung điện thứ 3 được gọi là cung điện nước,(14) là nơi vua ở mùa hè). 4. Ghi chép của Đức cha Lefèbvre(15) năm 1750 - “M. Le Poivre répondit qu’il allait partir pour retourner à la Cour. Il y arriva, en effet, le jour de Noel 1749; il alla loger chez M. l'évèque de Noélène qui le reçut du meilleur coeur du monde. Il y était à portée du roi, lequel demeurait alors dans un palais qu'il a auprès du lieu de la résidence de ce prélat”. (Tạm dịch: Ông Poivre cho biết ông sẽ quay trở lại triều đình. Ông đã đến triều đình một cách dễ dàng vào ngày Giáng sinh năm 1749 ; (vì) ông đã ở lại chỗ ông giám mục Noélène, người đã cho ở với một tấm lòng tốt nhất trần gian. Chỗ ở này của Poivre trong tầm gần với nhà vua, vì khi đó vua đang sống trong một cung điện gần nơi cư trú của vị giám mục). - Cadière bình luận thêm: “Or, nous le verrons dans la suite de ces notes sur le quartier des Arènes, Mgr. Lefèbvre résidait à l'ancienne église des missionnaires français à Thợ Đúc, à l'emplacement actuel de la maison commune du village de Dương Xuân, près du mur cham, c'est-à-dire à un kilomètre à peine du palais de Võ Vương”. (Tạm dịch: Thế mà, ở đoạn tiếp theo của hồi ký về khu vực Trường Súng này, chúng ta lại thấy Đức cha Lefèbvre sống trong nhà thờ của các nhà truyền giáo Pháp ở vùng Thợ Đúc, nơi vị trí hiện tại là ngôi đình làng Dương Xuân, gần Thành Lồi của Chàm, có nghĩa là, nó chỉ cách cung điện của Võ Vương một cây số). 5. Mô tả của James Bean(16) ngày 01/01/1765 về cung điện mùa đông “Chúng tôi khởi hành bằng đường thủy xuống bờ sông, cũng với con đường chúng tôi đã đến, và phía dưới chiếc cầu gỗ nhỏ trên một hòn đảo, bên hữu ngạn đã có một sứ giả chực sẵn để báo cho nhà vua biết chúng tôi đã đến nơi Đi bộ trên một con đường mới hoàn thành để đến một cung môn Ở một phía bên kia là tàu tượng, nơi voi của vua ở, đối diện là tàu ngựa. Những bức tường cao 3 bộ đối nhau. Bên phải là một sảnh khá rộng giống như chỗ ngồi của quan tòa, cuối nơi này nhìn ra con kênh lớn và lù lù vài khẩu trong số những đại thần công đẹp nhất tôi từng thấy chúng tôi tiến vào một cung điện lộng lẫy Chúng tôi xin phép được quan chiêm cung điện của vua. Ngài trả lời rằng đây không phải là cung điện nguy nga mà chỉ là “phủ mùa đông”; ở đây cũng có cung phi mỹ nữ Cuộc tấu nhạc bắt đầu... Quân sĩ trong vương phủ là 1.000”. 6. Mô tả của các sử thần Lê-Trịnh và Lê Quý Đôn (LQĐ) năm 1776 về phủ Dương Xuân Trong Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789)(17) do các sử thần thời Lê-Trịnh ghi chép, có nhiều đoạn về chúa Nguyễn và phủ Dương Xuân đại khái giống nhau, 54 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 nên tôi chỉ trích theo sự ghi chép của LQĐ là người do chúa Trịnh cử trực tiếp vào làm việc ở Thuận Hóa: - “Đất Phú Xuân huyện Hương Trà xưa là xã Thụy Lôi, Nguyễn Phúc Trăn xưng là Hoằng Quốc công bắt đầu đặt dinh trấn ở đấy... Từ năm Đinh Mão Chính Hòa thứ 8 [1687] đến nay chỉ 90 năm, mà ở trên thì các phủ thờ ở Kim Long, giữa thì cung phủ hành lang, dưới thì nhà cửa ở phủ Ao. Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi tên đề biển, có hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, có các nhà Tựu Lạc, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên, đài Sướng Xuân, các Dao Trì, các Triêu Dương, các Quang Thiên, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương, công đường, trường học và trường súng. Ở thượng lưu về bờ nam có phủ Dương Xuân và phủ Cam. Ở trên nữa có phủ Tập Tượng; lại dựng điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ, mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát nền bằng đá, trên lát ván kiền kiền, những máng xối đều làm bằng kẽm để hứng nước; trồng xen cây cối...”.(18) - “Nhà cửa, lầu gác, thuyền bè họ Nguyễn đều dùng gỗ kiền kiền... Họ Nguyễn có xây dựng thì phần nhiều lấy gỗ ở các phủ Quy Nhơn, Quảng Ngãi và Gia Định. Như năm Canh Thân làm phủ Dương Xuân cùng cửa Nghi Môn... hạ lệnh... lấy gỗ... Phủ Gia Định sản nhiều gỗ tốt... có nhiều gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng hương... Dinh Phú Xuân của họ Nguyễn có nhà quan và nhà lính tới mấy vạn nhà. Từ tháng giêng năm Ất Mùi [1775], quan quân đóng đồn, tướng sĩ và binh lính theo làm việc có hơn 3 vạn người, mặc ý đi lấy củi, lâu ngày phá rỡ, dân gian nhân đó mà lấy trộm cũng không ngăn cấm, mấy năm đốt cháy, không những gỗ kiền kiền, gỗ sao, đến cả gỗ trắc và gỗ giáng hương chứa đầy một gian để làm củi. Mùa xuân năm Bính Thân [1776] mở trường đúc tiền, lại lấy làm than. Lập dinh trấn thủ, lại lấy để làm phòng ốc cho các cơ đội các quân, dùng hãy còn thừa. Đến tháng 5 mới sai các quân đi lấy củi ở núi Hòn Chén, cấm không được dỡ nhà quan nữa. Nhưng trường tiền đốt than một lần đã dỡ đến bốn năm chục gian chưa thôi. Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể tính xiết”.(19) - “Khi Hiểu Quốc công xưng vương hiệu, đổi phủ Tập Tượng làm điện Trường Lạc ở bên hữu sông phía thượng lưu thành Phú Xuân. Năm Giáp Tuất [1754], bầy tôi là Trần Thiên Lộc làm bài phú... viết thành chữ nổi... nay điện đã hỏng mà chữ vách hãy còn...”.(20) 7. Mô tả của Phan Huy Chú (PHC) viết vào các năm 1809-1819 - “...Về thượng lưu, bên bờ phía nam lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Vũ; nhà lớn nguy nga, mái đao rực rỡ, tường xây và hành lang bao bọc chung quanh, cửa thông bốn mặt, những chỗ chạm vẽ rất tinh xảo. Các 55Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 nhà đều lát nền bằng gạch đá bằng phẳng, trên lát ván bằng thứ gỗ kiền kiền, dưới mái làm máng hứng nước...”.(21) 8. Mô tả của Quốc Sử Quán triều Nguyễn (QSQTN) về phủ Dương Xuân - “(1691)... Mùa hạ, tháng 4, dựng phủ mới. Hạ lệnh rằng xây dựng cung thất điện vũ, hết thảy đều theo quy chế cũ của Thái Tông, không được làm to lớn lộng lẫy”.(22) - “Giáp Tuất, năm thứ 3 (1694)Tháng 2 Thao diễn trận voi”.(23) - “Bính Tý, năm thứ 5 (1696)... Tháng 3, dựng trường pháo ở phủ sau. Triệu các quan văn võ cùng các đội trưởng, văn chức và tam ty họp nhau diễn tập...”.(24) - “Canh Thìn, năm thứ 9 (1700), mùa xuân, tháng giêng, mở trường diễn ngựa... Mùa hè, tháng 4 Lập phép diễn trận voi, chúa ra thăm diễn trường ở xã Thọ Khang Tháng 8, sửa phủ cũ ở Dương Xuân, cơ Tả Thủy đào đất được ấn đồng, có khắc chữ “Trấn Lỗ tướng quân chi ấn”. Chúa cả mừng, gọi tên phủ này là Phủ Ấn”.(25) - “Giáp Tý, năm thứ 6 (1744)... chúa lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân... khiến gọi nơi phủ ở là điện...”.(26) - “Đinh Mão (1747), tháng 9, lập trường súng”.(27) - “Giáp Tuất, năm thứ 16 (1754)... chúa đã lên ngôi vương, bắt đầu sửa sang đô ấp, dựng hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, ba gác Dao Trì, Triêu Dương, Quang Thiên, và các đường (nhà) Tựu Lạo, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên, cùng là các đài Sướng Xuân, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương. Ở thượng lưu sông Hương lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ. Đều chạm vẽ hết sức tinh xảo... Ph ... Dương Xuân Hạ không có một vị trí nào khác hơn đủ các điều kiện thỏa mãn các mô tả của những người đã từng chứng kiến phủ này! Như vậy, qua tư liệu và qua dấu tích còn lại, cũng đủ cơ sở để khẳng định khu vực đình Dương Xuân Hạ tọa lạc chính là phủ Dương Xuân cũ của chúa Nguyễn. Qua đó, tôi kính đề nghị các cơ quan chức năng, sớm có phương án khai quật khảo cổ học khu vực này để xác định thêm các chứng cứ, đồng thời lập hồ sơ di tích để khoanh vùng, bảo vệ, công nhận... IV. Những vấn đề liên quan Đoạn sử của QSQTN viết về gò Dương Xuân đã dẫn từ đầu bài, ngoại trừ đã tìm ra vị trí phủ Dương Xuân, thì có 2 vấn đề cần làm rõ trong câu “Tự kinh binh loạn kim thất kỳ xứ”: - Về mặt thời gian, "binh loạn" là thời nào? - Về nguyên nhân, vì sao phủ Dương Xuân mất tích? 1. Quan điểm của QSQTN về chữ “loạn” như sau Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho rằng QSQTN gọi Tây Sơn là “loạn”! Tôi đã mở Đại Nam thực lục để xem triều Nguyễn gọi Tây Sơn bằng từ ngữ gì thì kết quả cụ thể như sau: Tính từ lúc nhân vật Nguyễn Văn Nhạc xuất hiện, đến lúc Tây Sơn bị triều Nguyễn tiêu diệt vào năm 1802, thì sử triều Nguyễn có 679 lần(46) gọi là “(偽) ngụy/ (賊) tặc Tây Sơn”, “ngụy/ tặc Nhạc”, “ngụy/ tặc Huệ”, và xem Đại Nam liệt truyện... cũng có cách sử dụng từ ngữ tương tự. Ngược lại, gọi là “(亂) loạn Tây Sơn”, “loạn Nhạc”, “loạn Huệ”... không có lần nào! Vậy thì “loạn” được tính từ thời điểm nào? Sử cho biết: “(1801)... Tháng 9... Ngày Đinh Hợi, nước Sông Hương trong. Nguyên là từ cuộc LOẠN NĂM GIÁP NGỌ(47) thì nước sông lại thành đục, tới nay kinh đô cũ đã lấy lại được, nước sông lại trong hơn mọi khi. Người ta đều biết là triệu chứng thái bình”.(48) Như thế, chúng ta đã thấy rõ mốc thời gian gọi là thời “loạn” (trái với thời “thái bình”) được kể bắt đầu từ năm Giáp Ngọ 1774, làm chúa Nguyễn phải bỏ Phú Xuân vào Nam lánh nạn. 63Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 2. Nguyên nhân phủ Dương Xuân mất tích Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân giải thích rằng “chúa Trịnh đánh chiếm Phú Xuân 1774, phủ Dương Xuân lọt vào tay quân Trịnh. Hơn 10 năm sau (1786) Phú Xuân và phủ Dương Xuân lại chuyển qua tay phong trào Tây Sơn",(49) phủ Dương Xuân mất tích vì đã bị Nguyễn Văn Huệ chiếm làm nơi ở và đổi tên thành cung điện Đan Dương. Tuy nhiên cho đến nay, chúng tôi không tìm thấy một sử liệu nào nói về Nguyễn Văn Huệ đã chiếm phủ Dương Xuân làm nơi ở.(50) Đoạn tóm tắt của LQĐ mà tôi đã dẫn ở trên, cho thấy rất rõ là “Từ tháng giêng năm Ất Mùi (1775), quan quân đóng đồn, tướng sĩ và binh lính theo làm việc có hơn 3 vạn người, mặc ý đi lấy củi, lâu ngày phá rỡ...”, tức phủ Dương Xuân có thể đã bị quân Trịnh phá để lấy gỗ làm củi đúc tiền mà ngày nay vẫn còn địa danh “Trường Tiền”. 2.1. Có ý kiến cho rằng “Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể tính xiết”, ngói đá gạch còn đó thì làm sao phủ Dương Xuân mất tích được? Năm 1776, Lê Quý Đôn chứng kiến quân Trịnh phá các phủ đệ, cung điện ở Phú Xuân, đã cho biết: “dân gian nhân đó mà lấy trộm cũng không ngăn cấm”... Cho dù lúc đó, có “Ngói đá gạch chum thì kể có hàng vạn, không thể tính xiết”, nhưng mãi đến năm 1865, Quốc Sử Quán triều Nguyễn mới bắt đầu đi nghiên cứu lại, tức sau đến 90 năm bị “lấy trộm”, các “ngói đá gạch chum” ấy làm sao còn nữa? Do vậy, đến thời Quốc Sử Quán triều Nguyễn không tìm ra dấu vết, nên ghi phủ Dương Xuân bị “mất tích” là đúng! 2.2. Lại có ý kiến cho rằng LQĐ ghi là “dỡ nhà QUAN”, chứ không phải là dinh thự chúa Nguyễn! Chúng ta nên hiểu như thế này: - Thứ nhất, chúa Nguyễn cũng chỉ là "quan" của vua Lê: “Họ Nguyễn trước kia đời đời làm công thần, tuy các đời vẫn khiến thần dân gọi là chúa, nhưng... thần hạ mới suy tôn Thái phó quốc công... Đến bấy giờ Phúc Khoát tiếm xưng vương... cũng không lập phi cùng thế tửnhưng sau khi chết chỉ tặng thiêm sự và tham chính, cũng theo lệ cũ”.(51) Và vì cũng là quan của vua Lê, nên Lê Quý Đôn với tư cách là quan chính thống của vua Lê, gọi chúa Nguyễn cũng chỉ bằng tên húy, hoặc bằng tước công của vua Lê ban là “Đỉnh Quốc công Nguyễn Phúc Trú, Hiểu Quốc công Nguyễn Phúc Khoát...”,(52) chứ không hề gọi bằng tước vương tiếm xưng. Do vậy, chữ “quan” ở đây của Lê Quý Đôn, cũng chính là chỉ chúa Nguyễn. - Thứ hai, quân Trịnh chỉ phá dinh thự chúa Nguyễn, chứ không phá nhà quan và dân của chúa Nguyễn: “Việp Quận công (Hoàng Ngũ Phúc) kiêm lĩnh chức trấn thủ Thuận Hóa... cấm đoán cướp bóc... tạm lấy người Thuận Hóa làm huyện lệnh. Người họ Nguyễn cùng các hàng tướng hàng thần thì đều ủy lạo, khiến ở yên”.(53) 64 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 Như vậy, quân Trịnh chỉ phá những nhà bỏ trống để lấy củi, chứ không phá nhà có người ở. Vậy nhà bỏ trống là nhà của ai? Khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân đầu năm 1775, chúa Nguyễn đã bỏ vào Nam, nên các dinh thự đều để trống. Mà dinh của chúa Nguyễn thì gồm 2 cụm: cụm phía bắc là đô thành Phú Xuân, đã bị quân Trịnh sử dụng làm trấn dinh, vậy thì còn cụm phía nam là phủ Dương Xuân, tất bỏ trống thì quân Trịnh lại phá để lấy gỗ, không hề sai! - Thứ ba, thêm nữa, độc giả hãy so sánh các loại gỗ mà chúa Nguyễn sai chở trong Nam ra để làm phủ Dương Xuân là “gỗ kiền kiền, gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng hương”; trong khi các loại gỗ mà quân Trịnh lấy làm củi cũng chính là “gỗ kiền kiền, gỗ sao, gỗ trắc, gỗ giáng hương”, có phải là gỗ của phủ Dương Xuân không? Thử hỏi: có hạng quan nào có đủ tiền, đủ quyền... để chở các loại gỗ quý từ Gia Định ra Huế để làm nhà ở không? 2.3. Và chúng ta cũng nên thử đặt thêm câu hỏi: Chỉ mới 1 năm từ khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân năm 1775, qua năm 1776, mà LQĐ chứng kiến điện Trường Lạc “đã hỏng”, vì sao? Chắc chắn phải có bàn tay con người phá thì cung điện này mới bị như vậy, chứ nếu nó bị bỏ hoang và tàn lụi thì không thể trong thời gian chỉ 1 năm mà hư hỏng như vậy được! Vậy ai dám phá phủ của chúa Nguyễn? Những chứng cứ trên, cho thấy phủ Dương Xuân đã bị quân Trịnh phá lấy gỗ làm củi từ năm 1776. V. Niên biểu về phủ Dương Xuân - Năm 1691: Minh Vương mới lên ngôi, dựng phủ Dương Xuân ở gò Dương Xuân với mục đích mùa đông tránh lụt lội, nên sau này phủ này được gọi là phủ (cung điện) mùa đông. - Năm 1695, Thích Đại Sán đến Thuận Hóa, được tiếp kiến đầu tiên tại phủ này và viết lại nhật ký cho biết thời ấy khuôn viên phủ rộng hơn 1,5km. - Năm 1696, dựng trường pháo ở phủ này để huấn luyện bắn thần công. - Năm 1700, Minh Vương cho sửa chữa lại phủ Dương Xuân, tình cờ đào được ấn “Trấn Lỗ tướng quân” bằng đồng nên cho gọi tên là “Phủ Ấn”. - Năm 1740: Võ Vương trùng tu phủ Dương Xuân to đẹp hơn, làm cửa Nghi Môn, sai lấy gỗ ở miền Nam chở ra. Cũng năm này, giáo sĩ P. Koffler đến Huế để chữa bệnh cho chúa Nguyễn, và có ghi chép về phủ này. - Năm 1749: thương gia người Pháp là Pierre Poivre đến gặp chúa Nguyễn để xin thông thương, chúa tiếp ở phủ Dương Xuân. Pierre Poivre có ghi nhật ký kể rõ và mô tả về phủ Dương Xuân. 65Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 - Năm 1750: Đức cha Lefebvre ở Phường Đúc, trong hồi ký của mình ghi chép rằng Noel năm 1749 đã gặp Pierre Poivre ở đây. - Năm 1754: lấy phủ Tập Tượng phía trên thượng lưu phủ Dương Xuân để làm điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ. - Năm 1765: James Bean đến gặp Võ Vương tại phủ Dương Xuân và có nhật ký, nhiều dòng ghi chép về phủ này. - Năm 1774 (Giáp Ngọ): quân Trịnh bắt đầu vượt Sông Gianh để tiến vào chiếm Phú Xuân. Sử triều Nguyễn gọi thời điểm này là bắt đầu của thời kỳ “loạn” (loạn năm Giáp Ngọ). - Năm 1775: quân Trịnh chiếm Phú Xuân, chúa Nguyễn lánh vào Nam, phủ Dương Xuân và điện Trường Lạc bị bỏ trống, quân Trịnh phá lấy gỗ làm củi. Sự việc này được Lê Quý Đôn chứng kiến và ghi lại. - Năm 1809: Phan Huy Chú dựa vào các sử liệu cũ để tổng hợp ghi chép về phủ Dương Xuân. - Năm 1821: QSQTN bắt đầu sưu tập tài liệu để viết Đại Nam thực lục, trong đó có nhiều dòng ghi chép về phủ Dương Xuân. - Năm 1865: QSQTN bắt đầu nghiên cứu địa chí để viết Đại Nam nhất thống chí, tìm lại địa điểm phủ Dương Xuân nhưng không biết ở đâu, nên ghi là “tự kinh binh loạn, kim thất kỳ xứ (kể từ khi binh loạn, mất tích không rõ chỗ nào)” ! - Năm 1925: Cadière tìm ra dấu vết phủ Dương Xuân ở khu vực đình Dương Xuân Hạ, tại cánh đồng Bàu Vá (nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế) và công bố trên BAVH. Thư Hương các, Phật đản 2016 NAH CHÚ THÍCH (1) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (Tu Trai Nguyễn Tạo dịch), Đại Nam nhất thống chí (quyển thứ hai: Thừa Thiên Phủ), Nha Văn hóa Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 56. (2) Cadière, “Le quartier des arènes”, BAVH, No 3/1925. (3) Trần Đại Vinh, “Phủ Dương Xuân thời chúa Nguyễn qua đối chiếu tư liệu và thực địa”, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Số 1 (127), 2016. (4) Nguyễn Đắc Xuân, Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương (Sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung), Nxb Thuận Hóa, Huế, 2007, Tái bản năm 2015. (5) Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, 1963, tóm tắt các trang 33-40. (6) P. Koffler, "Description historique de la Cochinchine"; Bài đã dẫn của Cadière, pp. 136-137. (7) Henri Cordier, “Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine”, Revue de l’Extrême-Orient, 1887, t 3, pp. 81-121, 364-510. (8) Chúng tôi chưa xác định được địa danh này. 66 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 (9) Theo chúng tôi, ý tác giả muốn chỉ các phủ. (10) Có lẽ Pierre Poivre đã nhầm từ âm /chính/ (Phủ Chính, Chính Dinh) thành âm / kín/ tức kín đáo, bí mật, nên dịch sang tiếng Pháp là “palais secret” (mật điện) là một sự giải thích không đúng. (11) Chữ “trên” ở đây chúng tôi hiểu là thượng nguồn Sông Hương, và qua đây, cho thấy phủ này có 2 tên tiếng Pháp khác là “palais supérieur” và “palais d'hiver”. (12) Tức là Phủ Chính, Chính Dinh, đô thành Phú Xuân. (13) Henri Cordier, Bài đã dẫn, phần “Des Palais du Roy”. (14) Đây chính là Phủ Ao, còn có tên tiếng Pháp khác là "palais du marais". Sở dĩ có thể suy luận ra cung điện mùa hè chính là Phủ Ao, vì theo mô tả ngày 22/9/1749 của Pierre Poivre đi bằng thuyền ngoài biển vào Huế thì thấy cung điện mùa hè trước, sau đó mới thấy đô thành Phú Xuân sau, đối chiếu với vị trí địa lý hiện nay cho thấy cung điện mùa hè chính là Phủ Ao. (15) Dẫn lại theo Cadière, Bài đã dẫn, tr. 135. (16) Nguyễn Sinh Duy, “Nhật ký du hành gặp vua xứ Đàng Trong của James Bean”, Nghiên cứu Huế, Tập 2, Trung tâm Nghiên cứu Huế, 2001, tr. 156-157. (17) Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Nxb Hồng Bàng, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2012, tr. 194. (18) Lê Quý Đôn, Phủ Biên tạp lục, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 112. (19) Lê Quý Đôn, Sđd, tóm tắt từ các trang 319-321. (20) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 302. (21) Phan Huy Chú (Tổ phiên dịch Viện Sử học dịch và chú giải), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, Tập 1, tr. 159. (22) Quốc Sử Quán triều Nguyễn (Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch), Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, Tập 1, tr. 106. (23) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 108. (24) Đại Nam thực lục, Sđd, tr.110. (25) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 112-113. (26) Đại Nam thực lục, Sđd, tóm tắt từ các trang 150-151. (27) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 154. (28) Đại Nam thực lục, Sđd, tóm tắt từ các trang 158. (29) Mỗi dặm là 1,6km. (30) Xem giải thích ở phần II, mục 7.1. (31) Pierre Poivre cũng cho biết là các phủ nằm ở ven bờ Sông Hương, và nhiều con kênh bắt nguồn từ sông Hương, mà Phủ Cam thì nằm ở bờ con kênh “An Cựu”, nên tiền thân sông An Cựu đã có từ trước, mãi đến thời Gia Long mới khơi rộng mà uốn nắn lại. (32) Trước năm 1744, thì gọi là “phủ”; sau năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương, đổi “gọi nơi phủ ở là điện”. (33) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 81. (34) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 103. (35) Xem phần IV, mục 2, ở cuối bài này. (36) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 881. Nguyên văn: "(1814) Tháng 3, ... Vét sông An Cựu... Vua đến Thanh Tuyền... trải xem hình thế, vời các phụ lão đến dụ bảo về công việc vét sông. Phụ lão thưa rằng : 'Đời xưa có ngòi lạch để phòng nắng lụt mà chứa lại hay tháo đi. Nay khai sông này, thực lợi cho nông dân lắm'. Bèn sai dinh thần Quảng Đức xem đo đường sông mà khai vét..."; như vậy trước đó đã có con lạch sẵn, nay chỉ khơi vét và làm rộng ra theo ý muốn. 67Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129) . 2016 (37) Chúng ta lưu ý rằng, Pierre Poivre nói ở Huế có hơn 400 ngôi chùa (Ce qu'il y a de plus remarquable ensuite ce sont les pagodes qui sont en très grand nombre. On en compte plus de quatre cents à Hué), nhưng những mô tả về cung điện mùa đông không thấy nhắc gần đó có chùa nào cả! (38) Bộ sưu tập gạch thời chúa Nguyễn để nghiên cứu, đã được nhà nghiên cứu Trần Viết Điền tặng cho Nhà Bảo tàng Huế (nay là Bảo tàng Văn hóa Huế). (39) Ở đây, tôi mô tả theo hướng nhìn từ trong đình nhìn ra. (40) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có sát bờ sông không? (41) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì chỉ đáp ứng duy nhất 1 tiêu chí này, còn các tiêu chí khác thì không đáp ứng được! (42) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có gần Phường Đúc hơn ở Bàu Vá không ? (43) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì vị trí đó có đối diện với một hòn đảo không? (44) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì bên phải ở đó có con “kênh” không ? (45) Nếu phủ Dương Xuân ở khu vực chùa Thiền Lâm, thì ở đó có một mặt bằng rộng lớn để cả ngàn binh sĩ “Duyệt Võ” được không? (46) Con số thực tế còn cao hơn, vì tôi có thể đếm sót. (47) Ở đây, ta cần hiểu rõ: sử ghi là năm Giáp Ngọ (1774), nhưng quân Trịnh chiếm Phú Xuân cuối năm âm lịch Giáp Ngọ tức đã chuyển sang đầu năm 1775 (Ất Mùi). (48) Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 467. Một chứng cứ khác tương tự là sách này, trang 207 đã viết: “Kỷ Hợi năm thứ 2 (1799) Đầu là trong CUỘC BIẾN NĂM GIÁP NGỌ, xa giá Từ cung đến”. (49) Nguyễn Đắc Xuân, Sđd, tr. 82. (50) Đây là câu hỏi phản biện 1, tôi đã đưa ra trong Hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” do UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 30/10/2015, nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa nhận được câu trả lời nào của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân! (51) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 67-68. (52) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 221. (53) Lê Quý Đôn, Sđd, tr. 75. TÓM TẮT Dựa vào 8 tài liệu hồi ký, ghi chép của những người đương thời chứng kiến phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn, tác giả phân tích các tiêu chí nhận dạng về phủ này. Và dựa vào các tiêu chí đó, tác giả tìm kiếm thực địa nơi Cadière chỉ dẫn, để một lần nữa chứng minh khu vực đình Dương Xuân Hạ ở cánh đồng Bàu Vá chính là phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn. ABSTRACT ON DUONG XUAN RESIDENCE OF THE NGUYEN LORDS Based on eight memoirs and records of the contemporaries who witnessed Duong Xuan Residence of the Nguyen Lords, the author analyzes the criterias for recognition of this residence. Based on those criterias, the author carried out the surveys in the place where Cadière had instructed to reaffirm that the area of Duong Xuan Ha communal house in Bàu Vá fields was Duong Xuan Residence of the Nguyen Lords.
File đính kèm:
- ve_phu_duong_xuan_cua_chua_nguyen.pdf