Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và

tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày

23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến

lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7

tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và

21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử

thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ

lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67%

(2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình

Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài

chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công

cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững

ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các

nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo

này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại

các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học

cho Việt Nam

pdf 15 trang yennguyen 8640
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam

Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
65
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 204- Tháng 5. 2019
Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm 
một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
Trần Thị Xuân Anh
Nguyễn Thị Lâm Anh
Ngô Thị Hằng
Trần Anh Tuấn
Ngày nhận: 02/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và 
tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 
23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến 
lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7 
tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và 
21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử 
thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ 
lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67% 
(2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình 
Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài 
chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công 
cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững 
ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các 
nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo 
này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại 
các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học 
cho Việt Nam.
Từ khoá: Kinh tế xanh, Tài chính xanh, phát triển bền vững, Hệ 
thống Tài chính xanh
1. Cơ sở luận
ài chính xanh (Green 
finance) là thuật ngữ 
ra đời gắn với sự phát 
triển của xu hướng Kinh tế 
xanh (Green Economy) trên 
thế giới trong những thập kỷ 
gần đây. Các nhà nghiên cứu 
quan niệm TCX sẽ là sự kết 
hợp các công nghệ mới, sản 
phẩm và dịch vụ tài chính với 
nâng cao hiệu quả năng lượng, 
giảm phát thải chất ô nhiễm 
để hỗ trợ tăng trưởng Kinh tế 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
xanh theo hướng carbon thấp 
(Rakić và Mitić, 2012).
Để hiểu rõ về TCX và phạm 
vi của TCX, các nhà nghiên 
cứu cũng đã làm rõ sự khác 
biệt giữa Tài chính bền 
vững (Sustainable finance); 
Tài chính môi trường 
(Environmental finance); Tài 
chính carbon (Carbon finance) 
và Tài chính biến đổi khí hậu 
(climate finance) với TCX 
(Noh, Hee Jin. 2018). 
Cụ thể, Tài chính bền vững 
nhằm mục tiêu tạo ra giá trị 
kinh tế và xã hội thông qua 
các mô hình tài chính, sản 
phẩm và thị trường bền vững 
theo thời gian. Tài chính bền 
vững tính đến các khoản đầu 
tư mở rộng hơn và toàn diện 
hơn, xem xét không chỉ khía 
cạnh môi trường, mà cả khía 
cạnh xã hội và các vấn đề 
quản trị.
Tài chính môi trường là tài 
chính và đầu tư liên quan đến 
môi trường sinh thái (không 
khí, nước, đất,). Tài chính 
môi trường coi thiệt hại môi 
trường là rủi ro tài chính, theo 
đó, các dự án gây tổn hại hoặc 
có khả năng gây hại cho môi 
trường đều bị cấm tài trợ hoặc 
không được nhận tài trợ. Khái 
niệm này rộng hơn TCX ở chỗ 
nó tập trung vào bảo vệ môi 
trường, có thể không đóng 
góp cho tăng trưởng kinh tế.
Tài chính carbon cung cấp 
tài chính cho một dự án nhằm 
giảm lượng khí thải carbon 
dioxide và khí thải nhà kính 
(GHG) khác. Thông qua thị 
trường giao dịch khí thải, Tài 
chính carbon có thể được thiết 
kế theo những cách linh hoạt 
trong thị trường giao ngay và 
phái sinh. Ngoài ra, thông qua 
một quỹ carbon, đầu tư cho thị 
trường giao dịch phát thải có 
thể được thực hiện.
Tài chính biến đổi khí hậu 
được xem là một khía cạnh 
của TCX, tập trung vào các 
nguồn tài chính đầu tư vào các 
chương trình hành động nhằm 
giảm thiểu và thích ứng với 
các tác động của biến đổi khí 
hậu. Tuy nhiên, Tài chính biến 
đổi khí hậu không hoàn toàn 
giống với TCX, vì nó không 
tính đến các rủi ro môi trường 
hoặc các mục tiêu phát triển. 
Theo đó, TCX bao trùm nhiều 
chủ đề liên quan đến các hoạt 
động phát triển môi trường 
bền vững hơn so với Tài chính 
biến đổi khí hậu.
Như vậy, TCX có thể được 
hiểu là tài chính phục vụ cho 
sự phát triển bền vững của 
toàn xã hội. TCX bao gồm các 
dịch vụ tài chính, thể chế, các 
sáng kiến và chính sách quốc 
gia, và các sản phẩm tài chính 
(nợ, vốn chủ sở hữu, bảo 
hiểm, và tài sản đảm bảo); 
được thiết kế để thúc đẩy các 
hoạt động bảo vệ môi trường, 
giảm thiểu và thích ứng với 
biến đổi khí hậu, nâng cao 
hiệu quả trong bảo tồn nguồn 
vốn tự nhiên và huy động các 
nguồn lực. 
Nghiên cứu của Volz (2018) 
đã gợi ý hệ thống tài chính 
cho phát triển Kinh tế xanh 
bao gồm các trụ cột chính: 
Các sản phẩm TCX; Các định 
chế TCX; Thị trường TCX và 
Quỹ khí hậu xanh. Đây cũng 
chính là khung tài chính được 
khuyến nghị để các nước căn 
cứ vào đó xây dựng chiến 
lược và đề xuất giải pháp huy 
động các nguồn tài chính cho 
mục tiêu phát triển Kinh tế 
xanh.
(1) Các sản phẩm Tài chính 
xanh (Green financial 
products)
Các công cụ huy động tài 
chính cho phát triển Kinh tế 
xanh, hay các kênh Tài chính 
xanh chính chủ yếu gồm có: 
(i) Công cụ vốn: Quỹ đầu tư 
vốn mạo hiểm, Gọi vốn cộng 
đồng, ETF...; (ii) công cụ 
nợ: Tín dụng xanh, trái phiếu 
xanh, trái phiếu chính quyền 
địa phương, nợ chuyển đổi; 
(iii) công cụ phái sinh: sản 
phẩm phái sinh giảm thiểu 
rủi ro, bảo hiểm, công cụ 
hoán đổi; và (iv) Quỹ tài 
trợ xanh: hỗ trợ kỹ thuật, quỹ 
khí hậu, trợ cấp hoặc các quỹ 
chìm.
(2) Các định chế Tài chính 
xanh (Green financial 
institutions)
Để cung ứng hiệu quả các sản 
phẩm TCX nêu trên không thể 
không nói đến vai trò của các 
định chế tài chính. Theo Volz 
(2018), các định chế tài chính 
tham gia vào lĩnh vực TCX 
có thể chia thành hai nhóm: 
nhóm thứ nhất là các định chế 
tài chính truyền thống phát 
triển và mở rộng sang các 
sản phẩm TCX; nhóm thứ hai 
là các định chế TCX thuần 
tuý (“Green-only” financial 
institutions). Định chế TCX 
thuần tuý được biết đến đầu 
tiên là Ngân hàng Đầu tư 
Xanh (GIB- Green Investment 
Bank) được thành lập tại Anh 
nhằm hỗ trợ vốn đầu tư xanh 
cho Chính phủ. Mục tiêu của 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
GIB là tăng hiệu quả của mô 
hình đầu tư công và tư nhân, 
giảm thiểu những thất bại của 
thị trường trong việc điều tiết 
luồng vốn cho tăng trưởng 
xanh. GIB huy động vốn 
thông qua các chiến lược thu 
hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo 
hiểm, sau đó hỗ trợ vốn đầu 
tư vào các dự án, chương trình 
phát triển Kinh tế xanh của 
cả tư nhân và Chính phủ. Đặc 
biệt, GIB cố gắng hỗ trợ các 
doanh nghiệp vừa và nhỏ cải 
thiện chất lượng công nghệ 
sạch, xanh hướng tới thân 
thiện với môi trường (Noh, 
Hee Jin. 2018).
(3) Thị trường Tài chính xanh 
(Green financial market)
Thông qua các thị trường 
TCX, nguồn vốn được huy 
động cho các doanh nghiệp 
đầu tư xanh, thúc đẩy ngành 
kinh tế chuyển dịch theo 
hướng xanh hóa và hướng tới 
sự phát triển bền vững của 
nền kinh tế. Cơ bản hiện nay, 
thị trường TCX phát triển 
gồm: (i) Thị trường carbon: 
Mua bán phát thải carbon hay 
giới hạn và giao dịch carbon 
là một dạng của mua bán phát 
thải, nhằm vào lượng phát thải 
carbon (tính theo đơn vị tấn 
hay đơn vị tương đương lượng 
khí thải CO
2
). (ii) Thị trường 
chứng khoán xanh: gồm thị 
trường cổ phiếu, trái phiếu và 
chỉ số chứng khoán xanh. Thị 
trường chứng khoán Nasdaq 
là thị trường tiên phong trong 
việc xây dựng và công bố cổ 
phiếu xanh và bộ chỉ số chứng 
khoán xanh trong lĩnh vực 
năng lượng sạch được biết đến 
như các “chỉ số xanh”. “Chỉ 
số xanh” gồm những cổ phiếu 
của các doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực phát triển 
kinh tế trên nền tảng giảm 
phát thải carbon.
(4) Các Quỹ khí hậu xanh 
(GCF- Green Climate Fund)
Biến đổi khí hậu đe dọa sự 
bền vững của trái đất và gây 
ra thiệt hại kinh tế lớn, và do 
tính cấp bách và nghiêm trọng 
của biến đổi khí hậu, mục đích 
của GCF là đóng góp đáng kể 
vào các nỗ lực toàn cầu nhằm 
đạt được các mục tiêu mà 
cộng đồng quốc tế đặt ra để 
đối phó với biến đổi khí hậu. 
So với các chương trình tài 
chính khí hậu khác, GCF có 
tiềm năng phát triển thành một 
cơ chế có thể vận hành toàn 
diện và có hệ thống quỹ biến 
đổi khí hậu lớn nhất thế giới, 
và nếu thành công, quy mô 
của quỹ sẽ rất đáng kể (Noh, 
Hee Jin. 2018).
Để xây dựng được hệ thống 
TCX nói trên, nghiên cứu 
của Hee Jin Noh (2014a) cho 
rằng Chính phủ cần đóng vai 
trò quan trọng trong việc hỗ 
trợ tài chính cho ngành công 
nghiệp xanh ở giai đoạn đầu 
kinh doanh. Tuy nhiên, các 
Chính phủ có những hạn chế 
về ngân sách và hệ thống làm 
việc không hiệu quả, do đó 
việc tài trợ liên tục và hiệu 
quả từ các Chính phủ là khó 
khả thi. Chính vì vậy, các 
Chính phủ nên giới thiệu và 
khuyến khích đầu tư quỹ tư 
nhân vào các ngành công 
nghiệp xanh. Hơn nữa, từ góc 
độ tài chính tư nhân, tài trợ 
nợ từ ngân hàng không phải là 
một hình thức đầu tư tư nhân 
thích hợp. Điều này là do các 
ngân hàng chịu trách nhiệm 
thanh toán cho các khoản tiền 
gửi tiết kiệm của người dân, 
có nghĩa là họ không thể đầu 
tư vào các dự án, công cụ đầu 
tư có rủi ro cao. Do đó, hệ 
thống TCX đòi hỏi nhiều loại 
công cụ tài chính và Chính 
phủ nên tạo ra môi trường và 
hệ thống thị trường vốn để hỗ 
trợ TCX. Có hai cách tiếp cận 
để phát triển đầu tư tư nhân 
vào Kinh tế xanh:
Một là, thiết lập một thị 
trường đầu tư xanh thông qua 
đầu tư tư nhân. Ở giai đoạn 
ban đầu, đầu tư công là cần 
thiết bởi vì ở giai đoạn này, 
đầu tư tư nhân không khả thi 
do có rủi ro cao. Sau khi hình 
thành và thương mại hóa thị 
trường xanh, đầu tư tư nhân 
có động lực để tự phát triển 
trên thị trường xanh.
Hai là, tìm kiếm sự hợp tác 
công tư, chẳng hạn như mô 
hình Quỹ của Quỹ (Fund of 
fund của Hàn Quốc) và mô 
hình Yozma (Israel).
2. Nghiên cứu kinh nghiệm 
một số nước trên thế giới
2.1. Hàn Quốc
Chính phủ Hàn Quốc chính 
thức đưa ra Kế hoạch 5 năm 
lần thứ nhất về Tăng trưởng 
xanh vào năm 2009- một 
chương trình mang tính hệ 
thống và hiệu quả hướng tới 
Chiến lược Tăng trưởng xanh 
của Quốc gia, và Chính phủ 
sau đó cũng đã công bố kế 
hoạch 4 năm lần thứ 2 vào 
năm 2014. Chương trình 
hành động gần đây nhất là 
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
Kế hoạch chủ động chuẩn bị 
trước biến đổi khí hậu, được 
công bố vào tháng 12/2016. 
Để hỗ trợ thực hiện và đạt 
được mục tiêu của các chương 
trình hành động phòng, chống 
biến đổi khí hậu ở trên, hệ 
thống TCX tại Hàn Quốc đã 
và đang được khuyến khích, 
thúc đẩy và phát triển theo các 
trụ cột chính sau:
(1) Các quỹ tài trợ bảo vệ môi 
trường
Quỹ Khí hậu xanh hay quỹ 
Bảo vệ môi trường được 
biết đến với tên gọi Quỹ môi 
trường Nhà nước (State-
owned enviromental fund) tại 
Hàn Quốc. Thông qua quỹ 
này, Bộ Môi trường Hàn Quốc 
sẽ thực hiện cấp các khoản tín 
dụng cho ngành công nghiệp 
môi trường gồm năng lượng 
mới và năng lượng tái tạo. 
Khoản vay, kỳ hạn vay, hạn 
mức vay cho từng công ty 
thay đổi theo mục đích của 
khoản vay. Kênh tín dụng này 
được xem như một kênh huy 
động vốn hấp dẫn đối với các 
công ty bởi lãi suất vay thấp 
hơn so với lãi suất vay từ các 
khoản tín dụng thông thường. 
Quy trình đánh giá tín dụng 
được thực hiện cẩn trọng sau 
khi kiểm tra tính hợp lệ của 
hồ sơ vay, sau đó các công ty 
đủ điều kiện sẽ được vay từ 
quỹ. Tuy nhiên, hỗ trợ từ phía 
Chính phủ chỉ dưới hình thức 
cho vay, không phải là đầu tư. 
Do đó, Bộ Môi trường có thể 
nên cân nhắc hình thức hỗ trợ 
thông qua đầu tư để chủ động 
khuyến khích, tăng cường 
công tác quản lý môi trường 
của các doanh nghiệp (Oh, 
2018). 
Ngoài ra, Chính phủ cung cấp 
các khoản hỗ trợ tài chính, 
khoản vay không từ nguồn 
Quỹ môi trường nhà nước, 
cho các đơn vị sẵn sàng lắp 
đặt và sử dụng các thiết bị tạo 
ra năng lượng tái tạo và các 
đơn vị sản xuất các thiết bị 
năng lượng tái tạo. Chính phủ 
cung cấp các khoản vay lãi 
suất thấp cho việc lắp đặt thiết 
bị, sản xuất, và vận hành. Quy 
mô của khoản hỗ trợ tài chính 
này là 100 tỷ won vào năm 
2016, trong đó 92,2 tỷ won 
dành cho việc lắp đặt các thiết 
bị và 7,8 tỷ won trong việc 
sản xuất xanh và vận hành. 
Tổng quy mô của các khoản 
trợ cấp Chính phủ cho ngành 
năng lượng tái tạo đã lên tới 
1,8 nghìn tỷ won (55.084 dự 
án) (KEA, 2017; Oh, 2018). 
Chính phủ cũng hỗ trợ tài 
chính cho các công trình nhà 
ở và nhà cao tầng xanh. Nhà 
ở xanh là những ngôi nhà 
thân thiện với môi trường, sử 
dụng ít năng lượng, tối thiểu 
hoá nhu cầu sử dụng nhiên 
liệu hoá thạch cũng như tối 
thiểu hoá việc tạo ra GHGs 
và các nguyên, nhiên liệu gây 
ô nhiễm môi trường, thông 
qua việc tăng cường sử dụng 
các nguồn năng lượng mới 
và nguồn năng lượng tái tạo 
như điện năng lượng mặt trời 
Bảng 1. Các khoản vay từ Quỹ môi trường nhà nước
Nội dung cho vay Lãi suất vay Kỳ hạn khoản vay Hạn mức vay/ công ty (Tỷ won)
Tài trợ phát triển 
ngành công nghiệp 
môi trường
Cố định
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 4 năm
- Kỳ hạn trả chậm: 2 năm 
- Kỳ hạn thanh toán: 3 năm
3
1
0,5
0,5
Quỹ cải thiện vấn đề 
môi trường Cố định
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 4 năm
5
Tài trợ phát triển 
ngành công nghiệp tái 
chế
Linh hoạt, thay 
đổi theo quý
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 7 năm
- Kỳ hạn trả chậm: 2 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 3 năm
2,5
1
0,5
0,5
Tài trợ lắp đặt thiết bị 
tạo khí gas tự nhiên
Linh hoạt, thay 
đổi theo quý
- Kỳ hạn trả chậm: 5 năm 
- Kỳ hạn thanh toán: 10 năm
3
Lưu ý: Kỳ hạn trả chậm (deferment period)- giai đoạn mà bên đi vay không phải trả lãi và hoàn trả bất kỳ 
phần gốc nào cho bên cho vay
Nguồn: Oh (2018) và loan.keiti.re.kr (truy cập ngày 12/12/2017)
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
(solar photovoltaic), nhiệt 
năng lượng mặt trời (solar 
thermal), năng lượng địa nhiệt 
(geothermal),(Oh, 2018). 
(2) Định chế Tài chính xanh
Bên cạnh việc xây dựng các 
quỹ tài trợ môi trường, Hàn 
Quốc cũng khuyến khích các 
tổ chức, định chế tài chính 
trong và ngoài nước tham gia 
vào lĩnh vực TCX. Ngay từ 
khi kế hoạch 5 năm lần thứ 
nhất về Tăng trưởng xanh 
được ban hành, đã có 8 định 
chế tài chính tham gia cung 
cấp sản phẩm tín dụng xanh, 
trong đó có các ngân hàng 
chính như Woori Bank, KB, 
Korea EXIM bank và con số 
này vẫn tiếp tục gia tăng qua 
các năm (Noh 2009, 2010). 
Các định chế tài chính khác, 
đặc biệt là các công ty tài 
chính trong nước như Tập 
đoàn Tài chính Shinhan, Tập 
đoàn Tài chính KB và Công 
ty Quản lý tài sản KDB, đã 
nỗ lực thành lập các quỹ đầu 
tư để tài trợ cho các dự án 
về nguồn năng lượng mới và 
năng lượng tái tạo, đặc biệt là 
khi Chính phủ đang cố gắng 
gia tăng thị phần của nguồn 
năng lượng mới và năng lượng 
tái tạo (tới 20%) trong tổng 
nguồn năng lượng quốc gia, 
đồng thời hạn chế và giảm 
thiểu việc sử dụng nguồn năng 
lượng hạt nhân. Ngoà ... ỏi 
kinh nghiệm từ các quốc gia 
khác ■
Tài liệu tham khảo
1. Acharya (2018), Building a Green Finance Market for India, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.livemint.com/Opinion/
hvPVP2xHjqBlp0joSaYdSJ/Opinion--Building-a-green-finance-market-for-India.html
2. Ferris và Spence, 2018, MAS Green Bond Grant Scheme, Debt Capital Market- Global Insights 2018, truy cập ngày 
29/12/2018, https://www.hoganlovells.com/~/media/hogan-lovells/pdf/new-mas-green-bond-grant-scheme.pdf?la=en
3. GIZ (2016), Cải cách khu vực Tài chính xanh tại Việt Nam, Chương trình hợp tác Đức- Deutsche Zusammenarbett, truy cập 
ngày 29/12/2018, 
Reform%20in%20Vietnam.pdf
4. Hill (2017), New Finance Instruments Will Help Fund India’s Green Infrastructure Targets, truy cập ngày 29/12/2018, 
https://cleantechnica.com/2017/11/21/new-finance-instruments-will-help-fund-indias-green-infrastructure-targets/
5. Kim & Shim (2017), Diagnosis and improvements of Korean Emission Trading Scheme. Irregular Research Report 17-04. 
Korea Energy Economics Institute.
6. Korea Energy Agency- KEA (2017), Korea Energy Agency Handbook
7. Kumar và cộng sự (2018), Innovate Pathways to Sustainable Finance in India, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.
yesbank.in/pdf/innovative_pathways_finance_india_pdf
8. Ministry of environment, Korean. Truy cập ngày 12/12/2017, 
MasterId=522&boardId=353793
9. Mohd & Kaushal (2018), Green Finance: A Step towards Sustainable Development, Journal of Finance and Accounting 
Volume 5, Issue 1, Pg: 59 – 74
10. Noh, Hee Jin (2010). Financial Strategy to Accelerate Innovation for Green Growth. Retrieved on Dec 25, 2018 from: https://
www.oecd.org/sti/ind/45008807.pdf
11. Noh, Hee Jin (2014a). Financial Strategies to Activate Green Company Eco Systems. Seoul: KCMI. 
12. Noh, Hee Jin (2018), Financial strategy to accelerate green growth, ADBI Working paper series, truy cập ngày 29/12/2018 
https://www.adb.org/sites/default/files/publication/452656/adbi-wp866.pdf
13. Noh, Hee-Jin (2009). Developing Green Finance in Korea. Retrieved on Dec 25, 2018 from: 
KMFileDir/128885690596726250_KCMI%20Developing%20Green%20Finance%20in%20Korea.pdf
14. Oh (2018), Green Finance in the Republic of Korea: Barriers and Solutions, ADBI Working paper series, truy cập ngày 
29/12/2018, https://www.adb.org/sites/default/files/publication/469261/adbi-wp897.pdf
15. Patzdorf (2018), India: Green Securitisation, the next wave in financing of green assets- New Briefing Paper, truy cập ngày 
29/12/2018, https://www.climatebonds.net/2018/05/india-green-securitisation-next-wave-financing-green-assets-new-briefing-
paper
 THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 
78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
16. Quỹ năng lượng bền vững Shakti và EY (2018), Discussion Paper on Carbon Tax Structure for India, truy cập ngày 
29/12/2018, https://shaktifoundation.in/wp-content/uploads/2018/07/Discussion-Paper-on-Carbon-Tax-Structure-for-India-Full-
Report.pdf
17. Rakić và Mitić (2012), Green Banking: Green Financial Products with Special Emphasis on Retail Banking Products. 
Sremska Kamenica: Educons University, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.researchgate.net/publication/262635208_
Green_Banking_-Green_Financial_Products_with_Special_Emphasis_on_Retail_Banking_Products
18. Sáng kiến trái phiếu khí hậu (2018), Korea Climate Bond Market- Overview and Opportunities, truy cập ngày 29/12/2018, 
https://www.climatebonds.net/files/reports/cbi-korea_market-final-01a.pdf
19. Trái phiếu biến đổi khí hậu (2018), Climate Bonds State of the Market Report Points to Huge India Green Growth Potential, 
truy cập ngày 29/12/2018, https://www.climatebonds.net/files/releases/media_release-delhi_launch-climate_bonds_state_of_the_
market_report_020918_final.pdf
20. Trái phiếu và biến đổi khí hậu (2017), Bonds and Climate Change, The State of the Market, truy cập ngày 29/12/2018, https://
www.climatebonds.net/files/files/CB-HSBC-2017-India-Final-01.pdf
21. Viện các vấn đề quốc tế Singapore và Tổ chức môi trường Liên Hợp Quốc (2017), Collaborative initiative for Green Finance 
in Singapore, Báo cáo tháng 11/2017, truy cập ngày 29/12/2018, 
Collaborative-Initiative-for-Green-Finance-in-Singapore.pdf
22. Volz. U(2018), Fostering green finance for sustainable development in Asia, ADBI Working paper series, truy cập ngày 
29/12/2018 https://www.adb.org/sites/default/files/publication/403926/adbi-wp814.pdf
Thông tin tác giả
Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ
Email: anhttx@hvnh.edu.vn
Nguyễn Thị Lâm Anh, Tiến sĩ
Email: nguyenlamanh@hvnh.edu.vn
Ngô Thị Hằng, Thạc sĩ
Email: ngothihang.taichinh@gmail.com
Trần Anh Tuấn, Thạc sĩ
Email: trantuan@hvnh.edu.vn
Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng
Summary
Building a green financial system - Experience of some countries in the world and lessons for Vietnam
The “National strategy on green growth for the period 2011-2020 with the vision to 2050” was approved by 
the Prime Minister according to Decision No. 1393/QD-TTg on 23/9/2012. To provide finance for this strategy, 
according to GIZ (2015), Vietnam needs at least 30.7 billion USD by 2020, which is equivalent to 15% of GDP in 
2015, and 21.2 billion USSD for the period from 2012 to 2030. This presents big challenges for the Vietnamese 
economy and financial system due to the country’s significant budget deficit rates, e.g. 6.1% of GDP in 2015, 
and 3.67% of GDP in 2018. Therefore, one of the main objectives of the Macroeconomic Reform Program/Green 
Growth Program is to reform the green financial sector, which specifically aims at establishing a green financial 
system, create financial instruments and products to mobilize capital for sustainable development in Vietnam. To 
achieve these objectives, it is very important for Vietnam to learn from the experiences of other countries in the 
region and around the world. Thus, this article focuses on studying experiences in several countries (including 
India, Singapore, and Korea) in order to draw valuable lessons for Vietnam.
Key words: Green economy; Green finance; Sustainable development; Green financial system
Anh Thi Xuan Tran, PhD.
Anh Thi Lam Nguyen, PhD.
Hang Thi Ngo, Ma.
Tuan Anh Tran, Ma.
Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy
TỔNG HỢP TIN TỨC
79Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 
và 4 tháng đầu năm
Tổng hợp từ Trí thức trẻ, VOV
Số liệu của Tổng cục Thống 
kê ngày 29/4 cho biết Chỉ 
số giá tiêu dùng (CPI) tháng 
4/2019 tăng 0,31% so với 
tháng trước, CPI bình quân 
4 tháng đầu năm 2019 tăng 
2,71% so với cùng kỳ năm 
2018, CPI tháng 4/2019 tăng 
1% so với tháng 12/2018 và 
tăng 2,93% so với cùng kỳ 
năm trước. Lạm phát cơ bản 
tháng 4/2019 tăng 0,09% so 
với tháng trước và tăng 1,88% 
so với cùng kỳ năm trước. 
Lạm phát cơ bản bình quân 
4 tháng đầu năm nay tăng 
1,84% so với bình quân cùng 
kỳ năm 2018.
Tháng 4/2019, Sở Giao dịch 
Chứng khoán Hà Nội (HNX) 
đã tổ chức 16 phiên đấu thầu, 
huy động được tổng cộng 
12.576 tỷ đồng trái phiếu 
Chính phủ (TPCP), giảm 
11,9% so với tháng 3/2019, 
trong đó, tất cả trái phiếu huy 
động được là do Kho bạc 
Nhà nước phát hành. Theo 
Bộ Tài chính, ước giải ngân 
thanh toán nguồn vốn đầu tư 
công 4 tháng đầu năm 2019 
là 68.548,497 tỷ đồng, đạt 
16,45% so với kế hoạch Quốc 
hội giao và đạt 18,67% so kế 
hoạch Thủ tướng Chính phủ 
giao. Đặc biệt giải ngân vốn 
ngoài nước chỉ là 1.186,565 
tỷ đồng, đạt 2,5% kế hoạch 
Quốc hội giao và đạt 4,14% 
kế hoạch Thủ tướng Chính 
phủ giao.
Fitch nâng triển vọng tín 
nhiệm quốc gia Việt Nam lên 
mức ‘tích cực’
Theo NĐH
Ngày 9/5, tổ chức xếp hạng 
tín nhiệm Fitch Ratings thông 
báo nâng triển vọng tín nhiệm 
quốc gia Việt Nam từ mức “ổn 
định” lên “tích cực”. Mức xếp 
hạng của Việt Nam vẫn duy 
trì ở “BB”. Lý do để Fitch nâng 
tín nhiệm đến từ ghi nhận Việt 
Nam có sự cải thiện về quản 
lý kinh tế. Điều này thể hiện 
trong việc củng cố bộ đệm 
bên ngoài từ thặng dư tài 
khoản vãng lai, mức nợ chính 
phủ giảm, tốc độ tăng trưởng 
kinh tế cao và lạm phát ổn 
định. Theo đánh giá của Fitch, 
Chính phủ Việt Nam đã thành 
công trong việc đưa nợ Chính 
phủ từ mức 53% GDP năm 
2016 xuống khoảng 50,5% 
GDP vào cuối năm 2018. Tổ 
chức này kỳ vọng nợ Chính 
phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục 
giảm xuống còn khoảng 46% 
GDP vào năm 2020. Nợ công 
của Việt Nam theo tính toán 
của Fitch cũng giảm xuống 
còn khoảng 58% GDP vào 
cuối năm 2018 (trong bối cảnh 
chỉ tiêu nợ công tiệm cận mức 
trần 65% GDP được Quốc hội 
cho phép vào cuối năm 2016).
Đây là lần đầu tiên kể từ năm 
2010, S&P nâng xếp hạng tín 
nhiệm quốc gia cho Việt Nam. 
Đầu tháng 4, Standard & 
Poor›s (S&P) cũng nâng xếp 
hạng quốc gia dài hạn của 
Việt Nam từ BB- lên BB, với 
triển vọng ổn định. Xếp hạng 
tín nhiệm ngắn hạn được giữ 
nguyên ở B.
Chính phủ ban hành Kế 
hoạch hành động giải quyết 
những rủi ro rửa tiền, tài trợ 
khủng bố
Tổng hợp từ Trí thức trẻ/ VGP
Ngày 02/5, Phó Thủ tướng 
Chính phủ Vương Đình Huệ 
vừa ký Quyết định số 474/QĐ-
TTg ban hành Kế hoạch hành 
động giải quyết những rủi ro 
rửa tiền, tài trợ khủng bố giai 
đoạn 2019- 2020. Mục tiêu 
của Kế hoạch là hoàn thiện cơ 
chế phòng, chống rửa tiền và 
tài trợ khủng bố ở Việt Nam; 
kiểm soát, giảm thiểu rủi ro 
rửa tiền, tài trợ khủng bố được 
xác định từ kết quả đánh giá 
rủi ro quốc gia về rửa tiền 
và tài trợ khủng bố giai đoạn 
2012- 2017; đáp ứng các 
chuẩn mực quốc tế về phòng, 
chống rửa tiền và tài trợ khủng 
bố; đồng thời phục vụ đánh 
giá đa phương của nhóm 
Châu Á- Thái Bình Dương về 
chống rửa tiền (APG) về cơ 
chế phòng, chống rửa tiền và 
tài trợ khủng bố đối với Việt 
Nam trong năm 2019.
Theo đó, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam (NHNN) có 
nhiệm vụ rà soát, nghiên cứu 
việc chỉnh sửa Luật phòng 
chống rửa tiền đối với các quy 
định về nhận biết, cập nhật 
thông tin khách hàng, phân 
loại rủi ro khách hàng; nghiên 
cứu, bổ sung các quy định 
của pháp luật liên quan đến 
cấp phép hoạt động, mở chi 
nhánh, thu hồi giấy phép hoạt 
động nhằm giảm thiểu mức độ 
dễ bị tổn thương trước hoạt 
động rửa tiền đối với các tổ 
chức tín dụng (TCTD), các tổ 
chức tài chính...
Rủi ro với tỷ giá đang tăng 
lên
Tổng hợp từ Trí thức trẻ, 
Vneconomy
Những ngày qua, tỷ giá đồng 
USD/VND liên tục được 
NHNN điều chỉnh và tỏ rõ ý 
định (chấp nhận) để VND yếu 
đi trong một chừng mực nhất 
định trong năm so với USD 
như được thể hiện qua động 
thái nâng giá mua vào USD 
và thiết lập tỷ giá mua USD 
forward cao hơn tỷ giá spot 
mấy tháng trước đây, cũng 
như điều chỉnh tăng liên tục 
tỷ giá trung tâm mặc dù không 
có mấy áp lực điều chỉnh.
4 trong số 8 đồng tiền tham 
chiếu để xác định tỷ giá VND/
USD gồm CNY, SGD (đô la 
Singapore), KRW (đồng Won 
Hàn Quốc) và TWD (Đài tệ) 
đã suy yếu trong cùng kỳ 
so với USD. Thậm chí ngay 
cả USD cũng bị chiến tranh 
thương mại làm suy yếu đi so 
với nhiều đồng tiền chủ chốt 
khác trên thế giới, với chỉ số 
đô la suy giảm từ 97,69 điểm 
xuống còn 97,52 trong hơn 
nửa tháng qua. Ngược lại, 
các đồng tiền còn lại trong rổ 
tham chiếu cho tỷ giá VND/
USD gồm JPY (yên Nhật), 
Baht (bạt Thái Lan) và EUR lại 
mạnh lên so với USD. Chuyên 
gia kinh tế tài chính Phan 
Minh Ngọc dự báo, trong dài 
hạn hơn (tính đến, ví dụ, cuối 
năm nay) VND sẽ tiếp tục yếu 
đi ở mức độ vừa phải so với 
USD (một cách có chủ ý của 
NHNN). Luỹ kế từ đầu năm 
đến 17/4/2019, NHNN đã 
mua được 8,35 tỷ USD từ các 
TCTD nâng dự trữ ngoại hối 
nhà nước lên khoảng 67 tỷ 
USD.
Vốn điều lệ toàn hệ thống 
ngân hàng tăng hơn 63% 
sau 7 năm
Theo BizLIVE
NHNN vừa có báo cáo gửi 
Quốc hội về việc thực hiện 
Nghị quyết số 113/2015/QH13 
của Quốc hội khóa XIII và các 
Nghị quyết của Quốc hội về 
hoạt động chất vấn tại Kỳ họp 
thứ 2, 3, 4, 5, Quốc hội khóa 
XIV. Theo đó, công tác cơ 
cấu lại các TCTD đã đạt được 
những kết quả quan trọng 
theo đúng mục tiêu, lộ trình đề 
ra tại ề án, tạo sự ổn định, an 
toàn của hệ thống các TCTD, 
thể hiện ở nhiều mặt. Đến 
cuối tháng 3/2019, vốn điều lệ 
của toàn hệ thống đạt 578,9 
nghìn tỷ đồng, tăng 0,45% 
so với cuối năm 2018 và tăng 
63,5% so với cuối năm 2011.
Vốn chủ sở hữu của toàn hệ 
thống đạt 792,6 nghìn tỷ đồng, 
tăng 4,2% so với cuối năm 
2018 và 20,1% so với cuối 
năm 2017. Đến nay, đã có 
07 NHTM được NHNN công 
nhận đạt chuẩn Basel II, gồm: 
Vietcombank, VIB, OCB, MB, 
VPBank, TPBank, ACB.
NHNN đã hoàn thành việc phê 
duyệt phương án cơ cấu lại 
gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 
2017-2020 của 4/4 NHTM 
Nhà nước; đang tích cực phối 
hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài 
chính, Bộ Kế hoạch đầu tư để 
xử lý vấn đề tăng vốn cho các 
ngân hàng này theo chỉ đạo 
của Thủ tướng Chính phủ.
Ngân hàng Việt tiếp tục 
lên kế hoạch mở tầm “xuất 
ngoại”
Theo BizLIVE
Tại đại hội đồng cổ đông 
thường niên 2019, ông 
Nghiêm Xuân Thành, Chủ 
tịch Hội đồng Quản trị Ngân 
hàng Ngoại thương Việt Nam 
(Vietcombank) cho biết, năm 
nay Vietcombank chính thức 
lên kế hoạch mở chi nhánh tại 
Úc. Trước đó, Vietcombank 
đã khai trương ngân hàng con 
100% vốn tại Lào trong năm 
2018. Và sau khi đã được Cục 
Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) 
chấp thuận hồ sơ, dự kiến vào 
tháng 7 tới Vietcombank sẽ 
trở thành NHTM đầu tiên của 
Việt Nam được lập văn phòng 
đại diện tại Mỹ. Cũng tại phiên 
họp đại hội đồng cổ đông 
thường niên 2019 vừa qua, 
Ngân hàng Sài Gòn- Hà Nội 
(SHB) đã trình cổ đông thông 
qua kế hoạch thành lập ngân 
hàng con 100% vốn đầu tư 
của SHB, hoặc góp vốn đầu 
tư vào một TCTD tại Bờ Biển 
Ngà, để mở rộng sự hiện diện 
vào thị trường Châu Phi.
Nếu những kế hoạch mới 
nói trên được các cơ quan 
có thẩm quyền phê duyệt và 
được triển khai, phạm vi thị 
trường của các ngân hàng 
thương mại Việt Nam sẽ bắt 
đầu được mở rộng, thay vì 
chủ yếu tập trung ở khu vực 
Đông Dương những năm qua.
Hệ số an toàn vốn (CAR) 
của hệ thống ngân hàng 
chưa đáng tin
Theo Trí thức trẻ
Đây là đánh giá của Kiển toán 
Nhà nước trong báo cáo gửi 
Quốc hội mới đây Kiểm toán 
cho rằng hệ số an toàn vốn 
(CAR) toàn hệ thống chưa 
đáng tin cây. Loại trừ các 
ngân hàng yếu kém và các 
ngân hàng được NHNN mua 
0 đồng; một số NHTM đầu tư 
trái phiếu chéo lẫn nhau, làm 
«cải thiện ảo» hệ số CAR; 
nhiều NHTM phân loại nợ 
không đúng làm ảnh hưởng 
đến lợi nhuận, tác động giảm 
hệ số CAR. 
Kiểm toán Nhà nước còn chỉ 
ra những tồn tại của ngành 
ngân hàng (đến cuối năm 
2017) như một số TCTD tăng 
trưởng tín dụng vượt mức 
cho phép của NHNN, còn 
các TCTD vi phạm quy định 
về giới hạn góp vốn, mua cổ 
phần nắm giữ cổ phần của 
hơn 02 TCTD khác. Kiểm 
toán cũng chỉ ra rằng VAMC 
chưa thực hiện vai trò trong 
việc mua nợ và xử lý nợ xấu. 
VAMC đã không thẩm định giá 
mua (giá mua bằng dư nợ trừ 
(-) dự phòng rủi ro do TCTD 
tự xác định); không kiểm tra, 
đánh giá khách hàng vay, tính 
trung thực, chính xác của hồ 
sơ, tài liệu và tài sản đảm bảo 
của khoản nợ...VAMC cũng 
xử lý nợ xấu sau khi mua chủ 
yếu thông qua việc ủy quyền 
lại cho các TCTD bán nợ.

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_he_thong_tai_chinh_xanh_kinh_nghiem_mot_so_nuoc_tre.pdf