Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và
tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến
lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7
tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và
21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử
thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ
lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67%
(2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình
Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài
chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công
cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững
ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo
này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại
các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học
cho Việt Nam
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
65 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Trần Thị Xuân Anh Nguyễn Thị Lâm Anh Ngô Thị Hằng Trần Anh Tuấn Ngày nhận: 02/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019 Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7 tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và 21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67% (2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học cho Việt Nam. Từ khoá: Kinh tế xanh, Tài chính xanh, phát triển bền vững, Hệ thống Tài chính xanh 1. Cơ sở luận ài chính xanh (Green finance) là thuật ngữ ra đời gắn với sự phát triển của xu hướng Kinh tế xanh (Green Economy) trên thế giới trong những thập kỷ gần đây. Các nhà nghiên cứu quan niệm TCX sẽ là sự kết hợp các công nghệ mới, sản phẩm và dịch vụ tài chính với nâng cao hiệu quả năng lượng, giảm phát thải chất ô nhiễm để hỗ trợ tăng trưởng Kinh tế THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 xanh theo hướng carbon thấp (Rakić và Mitić, 2012). Để hiểu rõ về TCX và phạm vi của TCX, các nhà nghiên cứu cũng đã làm rõ sự khác biệt giữa Tài chính bền vững (Sustainable finance); Tài chính môi trường (Environmental finance); Tài chính carbon (Carbon finance) và Tài chính biến đổi khí hậu (climate finance) với TCX (Noh, Hee Jin. 2018). Cụ thể, Tài chính bền vững nhằm mục tiêu tạo ra giá trị kinh tế và xã hội thông qua các mô hình tài chính, sản phẩm và thị trường bền vững theo thời gian. Tài chính bền vững tính đến các khoản đầu tư mở rộng hơn và toàn diện hơn, xem xét không chỉ khía cạnh môi trường, mà cả khía cạnh xã hội và các vấn đề quản trị. Tài chính môi trường là tài chính và đầu tư liên quan đến môi trường sinh thái (không khí, nước, đất,). Tài chính môi trường coi thiệt hại môi trường là rủi ro tài chính, theo đó, các dự án gây tổn hại hoặc có khả năng gây hại cho môi trường đều bị cấm tài trợ hoặc không được nhận tài trợ. Khái niệm này rộng hơn TCX ở chỗ nó tập trung vào bảo vệ môi trường, có thể không đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Tài chính carbon cung cấp tài chính cho một dự án nhằm giảm lượng khí thải carbon dioxide và khí thải nhà kính (GHG) khác. Thông qua thị trường giao dịch khí thải, Tài chính carbon có thể được thiết kế theo những cách linh hoạt trong thị trường giao ngay và phái sinh. Ngoài ra, thông qua một quỹ carbon, đầu tư cho thị trường giao dịch phát thải có thể được thực hiện. Tài chính biến đổi khí hậu được xem là một khía cạnh của TCX, tập trung vào các nguồn tài chính đầu tư vào các chương trình hành động nhằm giảm thiểu và thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, Tài chính biến đổi khí hậu không hoàn toàn giống với TCX, vì nó không tính đến các rủi ro môi trường hoặc các mục tiêu phát triển. Theo đó, TCX bao trùm nhiều chủ đề liên quan đến các hoạt động phát triển môi trường bền vững hơn so với Tài chính biến đổi khí hậu. Như vậy, TCX có thể được hiểu là tài chính phục vụ cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội. TCX bao gồm các dịch vụ tài chính, thể chế, các sáng kiến và chính sách quốc gia, và các sản phẩm tài chính (nợ, vốn chủ sở hữu, bảo hiểm, và tài sản đảm bảo); được thiết kế để thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao hiệu quả trong bảo tồn nguồn vốn tự nhiên và huy động các nguồn lực. Nghiên cứu của Volz (2018) đã gợi ý hệ thống tài chính cho phát triển Kinh tế xanh bao gồm các trụ cột chính: Các sản phẩm TCX; Các định chế TCX; Thị trường TCX và Quỹ khí hậu xanh. Đây cũng chính là khung tài chính được khuyến nghị để các nước căn cứ vào đó xây dựng chiến lược và đề xuất giải pháp huy động các nguồn tài chính cho mục tiêu phát triển Kinh tế xanh. (1) Các sản phẩm Tài chính xanh (Green financial products) Các công cụ huy động tài chính cho phát triển Kinh tế xanh, hay các kênh Tài chính xanh chính chủ yếu gồm có: (i) Công cụ vốn: Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm, Gọi vốn cộng đồng, ETF...; (ii) công cụ nợ: Tín dụng xanh, trái phiếu xanh, trái phiếu chính quyền địa phương, nợ chuyển đổi; (iii) công cụ phái sinh: sản phẩm phái sinh giảm thiểu rủi ro, bảo hiểm, công cụ hoán đổi; và (iv) Quỹ tài trợ xanh: hỗ trợ kỹ thuật, quỹ khí hậu, trợ cấp hoặc các quỹ chìm. (2) Các định chế Tài chính xanh (Green financial institutions) Để cung ứng hiệu quả các sản phẩm TCX nêu trên không thể không nói đến vai trò của các định chế tài chính. Theo Volz (2018), các định chế tài chính tham gia vào lĩnh vực TCX có thể chia thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là các định chế tài chính truyền thống phát triển và mở rộng sang các sản phẩm TCX; nhóm thứ hai là các định chế TCX thuần tuý (“Green-only” financial institutions). Định chế TCX thuần tuý được biết đến đầu tiên là Ngân hàng Đầu tư Xanh (GIB- Green Investment Bank) được thành lập tại Anh nhằm hỗ trợ vốn đầu tư xanh cho Chính phủ. Mục tiêu của THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 GIB là tăng hiệu quả của mô hình đầu tư công và tư nhân, giảm thiểu những thất bại của thị trường trong việc điều tiết luồng vốn cho tăng trưởng xanh. GIB huy động vốn thông qua các chiến lược thu hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm, sau đó hỗ trợ vốn đầu tư vào các dự án, chương trình phát triển Kinh tế xanh của cả tư nhân và Chính phủ. Đặc biệt, GIB cố gắng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ cải thiện chất lượng công nghệ sạch, xanh hướng tới thân thiện với môi trường (Noh, Hee Jin. 2018). (3) Thị trường Tài chính xanh (Green financial market) Thông qua các thị trường TCX, nguồn vốn được huy động cho các doanh nghiệp đầu tư xanh, thúc đẩy ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng xanh hóa và hướng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Cơ bản hiện nay, thị trường TCX phát triển gồm: (i) Thị trường carbon: Mua bán phát thải carbon hay giới hạn và giao dịch carbon là một dạng của mua bán phát thải, nhằm vào lượng phát thải carbon (tính theo đơn vị tấn hay đơn vị tương đương lượng khí thải CO 2 ). (ii) Thị trường chứng khoán xanh: gồm thị trường cổ phiếu, trái phiếu và chỉ số chứng khoán xanh. Thị trường chứng khoán Nasdaq là thị trường tiên phong trong việc xây dựng và công bố cổ phiếu xanh và bộ chỉ số chứng khoán xanh trong lĩnh vực năng lượng sạch được biết đến như các “chỉ số xanh”. “Chỉ số xanh” gồm những cổ phiếu của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phát triển kinh tế trên nền tảng giảm phát thải carbon. (4) Các Quỹ khí hậu xanh (GCF- Green Climate Fund) Biến đổi khí hậu đe dọa sự bền vững của trái đất và gây ra thiệt hại kinh tế lớn, và do tính cấp bách và nghiêm trọng của biến đổi khí hậu, mục đích của GCF là đóng góp đáng kể vào các nỗ lực toàn cầu nhằm đạt được các mục tiêu mà cộng đồng quốc tế đặt ra để đối phó với biến đổi khí hậu. So với các chương trình tài chính khí hậu khác, GCF có tiềm năng phát triển thành một cơ chế có thể vận hành toàn diện và có hệ thống quỹ biến đổi khí hậu lớn nhất thế giới, và nếu thành công, quy mô của quỹ sẽ rất đáng kể (Noh, Hee Jin. 2018). Để xây dựng được hệ thống TCX nói trên, nghiên cứu của Hee Jin Noh (2014a) cho rằng Chính phủ cần đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính cho ngành công nghiệp xanh ở giai đoạn đầu kinh doanh. Tuy nhiên, các Chính phủ có những hạn chế về ngân sách và hệ thống làm việc không hiệu quả, do đó việc tài trợ liên tục và hiệu quả từ các Chính phủ là khó khả thi. Chính vì vậy, các Chính phủ nên giới thiệu và khuyến khích đầu tư quỹ tư nhân vào các ngành công nghiệp xanh. Hơn nữa, từ góc độ tài chính tư nhân, tài trợ nợ từ ngân hàng không phải là một hình thức đầu tư tư nhân thích hợp. Điều này là do các ngân hàng chịu trách nhiệm thanh toán cho các khoản tiền gửi tiết kiệm của người dân, có nghĩa là họ không thể đầu tư vào các dự án, công cụ đầu tư có rủi ro cao. Do đó, hệ thống TCX đòi hỏi nhiều loại công cụ tài chính và Chính phủ nên tạo ra môi trường và hệ thống thị trường vốn để hỗ trợ TCX. Có hai cách tiếp cận để phát triển đầu tư tư nhân vào Kinh tế xanh: Một là, thiết lập một thị trường đầu tư xanh thông qua đầu tư tư nhân. Ở giai đoạn ban đầu, đầu tư công là cần thiết bởi vì ở giai đoạn này, đầu tư tư nhân không khả thi do có rủi ro cao. Sau khi hình thành và thương mại hóa thị trường xanh, đầu tư tư nhân có động lực để tự phát triển trên thị trường xanh. Hai là, tìm kiếm sự hợp tác công tư, chẳng hạn như mô hình Quỹ của Quỹ (Fund of fund của Hàn Quốc) và mô hình Yozma (Israel). 2. Nghiên cứu kinh nghiệm một số nước trên thế giới 2.1. Hàn Quốc Chính phủ Hàn Quốc chính thức đưa ra Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về Tăng trưởng xanh vào năm 2009- một chương trình mang tính hệ thống và hiệu quả hướng tới Chiến lược Tăng trưởng xanh của Quốc gia, và Chính phủ sau đó cũng đã công bố kế hoạch 4 năm lần thứ 2 vào năm 2014. Chương trình hành động gần đây nhất là THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 Kế hoạch chủ động chuẩn bị trước biến đổi khí hậu, được công bố vào tháng 12/2016. Để hỗ trợ thực hiện và đạt được mục tiêu của các chương trình hành động phòng, chống biến đổi khí hậu ở trên, hệ thống TCX tại Hàn Quốc đã và đang được khuyến khích, thúc đẩy và phát triển theo các trụ cột chính sau: (1) Các quỹ tài trợ bảo vệ môi trường Quỹ Khí hậu xanh hay quỹ Bảo vệ môi trường được biết đến với tên gọi Quỹ môi trường Nhà nước (State- owned enviromental fund) tại Hàn Quốc. Thông qua quỹ này, Bộ Môi trường Hàn Quốc sẽ thực hiện cấp các khoản tín dụng cho ngành công nghiệp môi trường gồm năng lượng mới và năng lượng tái tạo. Khoản vay, kỳ hạn vay, hạn mức vay cho từng công ty thay đổi theo mục đích của khoản vay. Kênh tín dụng này được xem như một kênh huy động vốn hấp dẫn đối với các công ty bởi lãi suất vay thấp hơn so với lãi suất vay từ các khoản tín dụng thông thường. Quy trình đánh giá tín dụng được thực hiện cẩn trọng sau khi kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ vay, sau đó các công ty đủ điều kiện sẽ được vay từ quỹ. Tuy nhiên, hỗ trợ từ phía Chính phủ chỉ dưới hình thức cho vay, không phải là đầu tư. Do đó, Bộ Môi trường có thể nên cân nhắc hình thức hỗ trợ thông qua đầu tư để chủ động khuyến khích, tăng cường công tác quản lý môi trường của các doanh nghiệp (Oh, 2018). Ngoài ra, Chính phủ cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính, khoản vay không từ nguồn Quỹ môi trường nhà nước, cho các đơn vị sẵn sàng lắp đặt và sử dụng các thiết bị tạo ra năng lượng tái tạo và các đơn vị sản xuất các thiết bị năng lượng tái tạo. Chính phủ cung cấp các khoản vay lãi suất thấp cho việc lắp đặt thiết bị, sản xuất, và vận hành. Quy mô của khoản hỗ trợ tài chính này là 100 tỷ won vào năm 2016, trong đó 92,2 tỷ won dành cho việc lắp đặt các thiết bị và 7,8 tỷ won trong việc sản xuất xanh và vận hành. Tổng quy mô của các khoản trợ cấp Chính phủ cho ngành năng lượng tái tạo đã lên tới 1,8 nghìn tỷ won (55.084 dự án) (KEA, 2017; Oh, 2018). Chính phủ cũng hỗ trợ tài chính cho các công trình nhà ở và nhà cao tầng xanh. Nhà ở xanh là những ngôi nhà thân thiện với môi trường, sử dụng ít năng lượng, tối thiểu hoá nhu cầu sử dụng nhiên liệu hoá thạch cũng như tối thiểu hoá việc tạo ra GHGs và các nguyên, nhiên liệu gây ô nhiễm môi trường, thông qua việc tăng cường sử dụng các nguồn năng lượng mới và nguồn năng lượng tái tạo như điện năng lượng mặt trời Bảng 1. Các khoản vay từ Quỹ môi trường nhà nước Nội dung cho vay Lãi suất vay Kỳ hạn khoản vay Hạn mức vay/ công ty (Tỷ won) Tài trợ phát triển ngành công nghiệp môi trường Cố định - Kỳ hạn trả chậm: 3 năm - Kỳ hạn thanh toán: 4 năm - Kỳ hạn trả chậm: 2 năm - Kỳ hạn thanh toán: 3 năm 3 1 0,5 0,5 Quỹ cải thiện vấn đề môi trường Cố định - Kỳ hạn trả chậm: 3 năm - Kỳ hạn thanh toán: 4 năm 5 Tài trợ phát triển ngành công nghiệp tái chế Linh hoạt, thay đổi theo quý - Kỳ hạn trả chậm: 3 năm - Kỳ hạn thanh toán: 7 năm - Kỳ hạn trả chậm: 2 năm - Kỳ hạn thanh toán: 3 năm 2,5 1 0,5 0,5 Tài trợ lắp đặt thiết bị tạo khí gas tự nhiên Linh hoạt, thay đổi theo quý - Kỳ hạn trả chậm: 5 năm - Kỳ hạn thanh toán: 10 năm 3 Lưu ý: Kỳ hạn trả chậm (deferment period)- giai đoạn mà bên đi vay không phải trả lãi và hoàn trả bất kỳ phần gốc nào cho bên cho vay Nguồn: Oh (2018) và loan.keiti.re.kr (truy cập ngày 12/12/2017) THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 (solar photovoltaic), nhiệt năng lượng mặt trời (solar thermal), năng lượng địa nhiệt (geothermal),(Oh, 2018). (2) Định chế Tài chính xanh Bên cạnh việc xây dựng các quỹ tài trợ môi trường, Hàn Quốc cũng khuyến khích các tổ chức, định chế tài chính trong và ngoài nước tham gia vào lĩnh vực TCX. Ngay từ khi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về Tăng trưởng xanh được ban hành, đã có 8 định chế tài chính tham gia cung cấp sản phẩm tín dụng xanh, trong đó có các ngân hàng chính như Woori Bank, KB, Korea EXIM bank và con số này vẫn tiếp tục gia tăng qua các năm (Noh 2009, 2010). Các định chế tài chính khác, đặc biệt là các công ty tài chính trong nước như Tập đoàn Tài chính Shinhan, Tập đoàn Tài chính KB và Công ty Quản lý tài sản KDB, đã nỗ lực thành lập các quỹ đầu tư để tài trợ cho các dự án về nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo, đặc biệt là khi Chính phủ đang cố gắng gia tăng thị phần của nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo (tới 20%) trong tổng nguồn năng lượng quốc gia, đồng thời hạn chế và giảm thiểu việc sử dụng nguồn năng lượng hạt nhân. Ngoà ... ỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác ■ Tài liệu tham khảo 1. Acharya (2018), Building a Green Finance Market for India, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.livemint.com/Opinion/ hvPVP2xHjqBlp0joSaYdSJ/Opinion--Building-a-green-finance-market-for-India.html 2. Ferris và Spence, 2018, MAS Green Bond Grant Scheme, Debt Capital Market- Global Insights 2018, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.hoganlovells.com/~/media/hogan-lovells/pdf/new-mas-green-bond-grant-scheme.pdf?la=en 3. GIZ (2016), Cải cách khu vực Tài chính xanh tại Việt Nam, Chương trình hợp tác Đức- Deutsche Zusammenarbett, truy cập ngày 29/12/2018, Reform%20in%20Vietnam.pdf 4. Hill (2017), New Finance Instruments Will Help Fund India’s Green Infrastructure Targets, truy cập ngày 29/12/2018, https://cleantechnica.com/2017/11/21/new-finance-instruments-will-help-fund-indias-green-infrastructure-targets/ 5. Kim & Shim (2017), Diagnosis and improvements of Korean Emission Trading Scheme. Irregular Research Report 17-04. Korea Energy Economics Institute. 6. Korea Energy Agency- KEA (2017), Korea Energy Agency Handbook 7. Kumar và cộng sự (2018), Innovate Pathways to Sustainable Finance in India, truy cập ngày 29/12/2018, https://www. yesbank.in/pdf/innovative_pathways_finance_india_pdf 8. Ministry of environment, Korean. Truy cập ngày 12/12/2017, MasterId=522&boardId=353793 9. Mohd & Kaushal (2018), Green Finance: A Step towards Sustainable Development, Journal of Finance and Accounting Volume 5, Issue 1, Pg: 59 – 74 10. Noh, Hee Jin (2010). Financial Strategy to Accelerate Innovation for Green Growth. Retrieved on Dec 25, 2018 from: https:// www.oecd.org/sti/ind/45008807.pdf 11. Noh, Hee Jin (2014a). Financial Strategies to Activate Green Company Eco Systems. Seoul: KCMI. 12. Noh, Hee Jin (2018), Financial strategy to accelerate green growth, ADBI Working paper series, truy cập ngày 29/12/2018 https://www.adb.org/sites/default/files/publication/452656/adbi-wp866.pdf 13. Noh, Hee-Jin (2009). Developing Green Finance in Korea. Retrieved on Dec 25, 2018 from: KMFileDir/128885690596726250_KCMI%20Developing%20Green%20Finance%20in%20Korea.pdf 14. Oh (2018), Green Finance in the Republic of Korea: Barriers and Solutions, ADBI Working paper series, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.adb.org/sites/default/files/publication/469261/adbi-wp897.pdf 15. Patzdorf (2018), India: Green Securitisation, the next wave in financing of green assets- New Briefing Paper, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.climatebonds.net/2018/05/india-green-securitisation-next-wave-financing-green-assets-new-briefing- paper THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019 16. Quỹ năng lượng bền vững Shakti và EY (2018), Discussion Paper on Carbon Tax Structure for India, truy cập ngày 29/12/2018, https://shaktifoundation.in/wp-content/uploads/2018/07/Discussion-Paper-on-Carbon-Tax-Structure-for-India-Full- Report.pdf 17. Rakić và Mitić (2012), Green Banking: Green Financial Products with Special Emphasis on Retail Banking Products. Sremska Kamenica: Educons University, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.researchgate.net/publication/262635208_ Green_Banking_-Green_Financial_Products_with_Special_Emphasis_on_Retail_Banking_Products 18. Sáng kiến trái phiếu khí hậu (2018), Korea Climate Bond Market- Overview and Opportunities, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.climatebonds.net/files/reports/cbi-korea_market-final-01a.pdf 19. Trái phiếu biến đổi khí hậu (2018), Climate Bonds State of the Market Report Points to Huge India Green Growth Potential, truy cập ngày 29/12/2018, https://www.climatebonds.net/files/releases/media_release-delhi_launch-climate_bonds_state_of_the_ market_report_020918_final.pdf 20. Trái phiếu và biến đổi khí hậu (2017), Bonds and Climate Change, The State of the Market, truy cập ngày 29/12/2018, https:// www.climatebonds.net/files/files/CB-HSBC-2017-India-Final-01.pdf 21. Viện các vấn đề quốc tế Singapore và Tổ chức môi trường Liên Hợp Quốc (2017), Collaborative initiative for Green Finance in Singapore, Báo cáo tháng 11/2017, truy cập ngày 29/12/2018, Collaborative-Initiative-for-Green-Finance-in-Singapore.pdf 22. Volz. U(2018), Fostering green finance for sustainable development in Asia, ADBI Working paper series, truy cập ngày 29/12/2018 https://www.adb.org/sites/default/files/publication/403926/adbi-wp814.pdf Thông tin tác giả Trần Thị Xuân Anh, Tiến sĩ Email: anhttx@hvnh.edu.vn Nguyễn Thị Lâm Anh, Tiến sĩ Email: nguyenlamanh@hvnh.edu.vn Ngô Thị Hằng, Thạc sĩ Email: ngothihang.taichinh@gmail.com Trần Anh Tuấn, Thạc sĩ Email: trantuan@hvnh.edu.vn Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Summary Building a green financial system - Experience of some countries in the world and lessons for Vietnam The “National strategy on green growth for the period 2011-2020 with the vision to 2050” was approved by the Prime Minister according to Decision No. 1393/QD-TTg on 23/9/2012. To provide finance for this strategy, according to GIZ (2015), Vietnam needs at least 30.7 billion USD by 2020, which is equivalent to 15% of GDP in 2015, and 21.2 billion USSD for the period from 2012 to 2030. This presents big challenges for the Vietnamese economy and financial system due to the country’s significant budget deficit rates, e.g. 6.1% of GDP in 2015, and 3.67% of GDP in 2018. Therefore, one of the main objectives of the Macroeconomic Reform Program/Green Growth Program is to reform the green financial sector, which specifically aims at establishing a green financial system, create financial instruments and products to mobilize capital for sustainable development in Vietnam. To achieve these objectives, it is very important for Vietnam to learn from the experiences of other countries in the region and around the world. Thus, this article focuses on studying experiences in several countries (including India, Singapore, and Korea) in order to draw valuable lessons for Vietnam. Key words: Green economy; Green finance; Sustainable development; Green financial system Anh Thi Xuan Tran, PhD. Anh Thi Lam Nguyen, PhD. Hang Thi Ngo, Ma. Tuan Anh Tran, Ma. Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy TỔNG HỢP TIN TỨC 79Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019 Chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 và 4 tháng đầu năm Tổng hợp từ Trí thức trẻ, VOV Số liệu của Tổng cục Thống kê ngày 29/4 cho biết Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4/2019 tăng 0,31% so với tháng trước, CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2019 tăng 2,71% so với cùng kỳ năm 2018, CPI tháng 4/2019 tăng 1% so với tháng 12/2018 và tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản tháng 4/2019 tăng 0,09% so với tháng trước và tăng 1,88% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm nay tăng 1,84% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Tháng 4/2019, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã tổ chức 16 phiên đấu thầu, huy động được tổng cộng 12.576 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ (TPCP), giảm 11,9% so với tháng 3/2019, trong đó, tất cả trái phiếu huy động được là do Kho bạc Nhà nước phát hành. Theo Bộ Tài chính, ước giải ngân thanh toán nguồn vốn đầu tư công 4 tháng đầu năm 2019 là 68.548,497 tỷ đồng, đạt 16,45% so với kế hoạch Quốc hội giao và đạt 18,67% so kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Đặc biệt giải ngân vốn ngoài nước chỉ là 1.186,565 tỷ đồng, đạt 2,5% kế hoạch Quốc hội giao và đạt 4,14% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Fitch nâng triển vọng tín nhiệm quốc gia Việt Nam lên mức ‘tích cực’ Theo NĐH Ngày 9/5, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings thông báo nâng triển vọng tín nhiệm quốc gia Việt Nam từ mức “ổn định” lên “tích cực”. Mức xếp hạng của Việt Nam vẫn duy trì ở “BB”. Lý do để Fitch nâng tín nhiệm đến từ ghi nhận Việt Nam có sự cải thiện về quản lý kinh tế. Điều này thể hiện trong việc củng cố bộ đệm bên ngoài từ thặng dư tài khoản vãng lai, mức nợ chính phủ giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát ổn định. Theo đánh giá của Fitch, Chính phủ Việt Nam đã thành công trong việc đưa nợ Chính phủ từ mức 53% GDP năm 2016 xuống khoảng 50,5% GDP vào cuối năm 2018. Tổ chức này kỳ vọng nợ Chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm xuống còn khoảng 46% GDP vào năm 2020. Nợ công của Việt Nam theo tính toán của Fitch cũng giảm xuống còn khoảng 58% GDP vào cuối năm 2018 (trong bối cảnh chỉ tiêu nợ công tiệm cận mức trần 65% GDP được Quốc hội cho phép vào cuối năm 2016). Đây là lần đầu tiên kể từ năm 2010, S&P nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam. Đầu tháng 4, Standard & Poor›s (S&P) cũng nâng xếp hạng quốc gia dài hạn của Việt Nam từ BB- lên BB, với triển vọng ổn định. Xếp hạng tín nhiệm ngắn hạn được giữ nguyên ở B. Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố Tổng hợp từ Trí thức trẻ/ VGP Ngày 02/5, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ vừa ký Quyết định số 474/QĐ- TTg ban hành Kế hoạch hành động giải quyết những rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2019- 2020. Mục tiêu của Kế hoạch là hoàn thiện cơ chế phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố ở Việt Nam; kiểm soát, giảm thiểu rủi ro rửa tiền, tài trợ khủng bố được xác định từ kết quả đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền và tài trợ khủng bố giai đoạn 2012- 2017; đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; đồng thời phục vụ đánh giá đa phương của nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) về cơ chế phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố đối với Việt Nam trong năm 2019. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có nhiệm vụ rà soát, nghiên cứu việc chỉnh sửa Luật phòng chống rửa tiền đối với các quy định về nhận biết, cập nhật thông tin khách hàng, phân loại rủi ro khách hàng; nghiên cứu, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến cấp phép hoạt động, mở chi nhánh, thu hồi giấy phép hoạt động nhằm giảm thiểu mức độ dễ bị tổn thương trước hoạt động rửa tiền đối với các tổ chức tín dụng (TCTD), các tổ chức tài chính... Rủi ro với tỷ giá đang tăng lên Tổng hợp từ Trí thức trẻ, Vneconomy Những ngày qua, tỷ giá đồng USD/VND liên tục được NHNN điều chỉnh và tỏ rõ ý định (chấp nhận) để VND yếu đi trong một chừng mực nhất định trong năm so với USD như được thể hiện qua động thái nâng giá mua vào USD và thiết lập tỷ giá mua USD forward cao hơn tỷ giá spot mấy tháng trước đây, cũng như điều chỉnh tăng liên tục tỷ giá trung tâm mặc dù không có mấy áp lực điều chỉnh. 4 trong số 8 đồng tiền tham chiếu để xác định tỷ giá VND/ USD gồm CNY, SGD (đô la Singapore), KRW (đồng Won Hàn Quốc) và TWD (Đài tệ) đã suy yếu trong cùng kỳ so với USD. Thậm chí ngay cả USD cũng bị chiến tranh thương mại làm suy yếu đi so với nhiều đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới, với chỉ số đô la suy giảm từ 97,69 điểm xuống còn 97,52 trong hơn nửa tháng qua. Ngược lại, các đồng tiền còn lại trong rổ tham chiếu cho tỷ giá VND/ USD gồm JPY (yên Nhật), Baht (bạt Thái Lan) và EUR lại mạnh lên so với USD. Chuyên gia kinh tế tài chính Phan Minh Ngọc dự báo, trong dài hạn hơn (tính đến, ví dụ, cuối năm nay) VND sẽ tiếp tục yếu đi ở mức độ vừa phải so với USD (một cách có chủ ý của NHNN). Luỹ kế từ đầu năm đến 17/4/2019, NHNN đã mua được 8,35 tỷ USD từ các TCTD nâng dự trữ ngoại hối nhà nước lên khoảng 67 tỷ USD. Vốn điều lệ toàn hệ thống ngân hàng tăng hơn 63% sau 7 năm Theo BizLIVE NHNN vừa có báo cáo gửi Quốc hội về việc thực hiện Nghị quyết số 113/2015/QH13 của Quốc hội khóa XIII và các Nghị quyết của Quốc hội về hoạt động chất vấn tại Kỳ họp thứ 2, 3, 4, 5, Quốc hội khóa XIV. Theo đó, công tác cơ cấu lại các TCTD đã đạt được những kết quả quan trọng theo đúng mục tiêu, lộ trình đề ra tại ề án, tạo sự ổn định, an toàn của hệ thống các TCTD, thể hiện ở nhiều mặt. Đến cuối tháng 3/2019, vốn điều lệ của toàn hệ thống đạt 578,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,45% so với cuối năm 2018 và tăng 63,5% so với cuối năm 2011. Vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống đạt 792,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với cuối năm 2018 và 20,1% so với cuối năm 2017. Đến nay, đã có 07 NHTM được NHNN công nhận đạt chuẩn Basel II, gồm: Vietcombank, VIB, OCB, MB, VPBank, TPBank, ACB. NHNN đã hoàn thành việc phê duyệt phương án cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2017-2020 của 4/4 NHTM Nhà nước; đang tích cực phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư để xử lý vấn đề tăng vốn cho các ngân hàng này theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Ngân hàng Việt tiếp tục lên kế hoạch mở tầm “xuất ngoại” Theo BizLIVE Tại đại hội đồng cổ đông thường niên 2019, ông Nghiêm Xuân Thành, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho biết, năm nay Vietcombank chính thức lên kế hoạch mở chi nhánh tại Úc. Trước đó, Vietcombank đã khai trương ngân hàng con 100% vốn tại Lào trong năm 2018. Và sau khi đã được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) chấp thuận hồ sơ, dự kiến vào tháng 7 tới Vietcombank sẽ trở thành NHTM đầu tiên của Việt Nam được lập văn phòng đại diện tại Mỹ. Cũng tại phiên họp đại hội đồng cổ đông thường niên 2019 vừa qua, Ngân hàng Sài Gòn- Hà Nội (SHB) đã trình cổ đông thông qua kế hoạch thành lập ngân hàng con 100% vốn đầu tư của SHB, hoặc góp vốn đầu tư vào một TCTD tại Bờ Biển Ngà, để mở rộng sự hiện diện vào thị trường Châu Phi. Nếu những kế hoạch mới nói trên được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và được triển khai, phạm vi thị trường của các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ bắt đầu được mở rộng, thay vì chủ yếu tập trung ở khu vực Đông Dương những năm qua. Hệ số an toàn vốn (CAR) của hệ thống ngân hàng chưa đáng tin Theo Trí thức trẻ Đây là đánh giá của Kiển toán Nhà nước trong báo cáo gửi Quốc hội mới đây Kiểm toán cho rằng hệ số an toàn vốn (CAR) toàn hệ thống chưa đáng tin cây. Loại trừ các ngân hàng yếu kém và các ngân hàng được NHNN mua 0 đồng; một số NHTM đầu tư trái phiếu chéo lẫn nhau, làm «cải thiện ảo» hệ số CAR; nhiều NHTM phân loại nợ không đúng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận, tác động giảm hệ số CAR. Kiểm toán Nhà nước còn chỉ ra những tồn tại của ngành ngân hàng (đến cuối năm 2017) như một số TCTD tăng trưởng tín dụng vượt mức cho phép của NHNN, còn các TCTD vi phạm quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần nắm giữ cổ phần của hơn 02 TCTD khác. Kiểm toán cũng chỉ ra rằng VAMC chưa thực hiện vai trò trong việc mua nợ và xử lý nợ xấu. VAMC đã không thẩm định giá mua (giá mua bằng dư nợ trừ (-) dự phòng rủi ro do TCTD tự xác định); không kiểm tra, đánh giá khách hàng vay, tính trung thực, chính xác của hồ sơ, tài liệu và tài sản đảm bảo của khoản nợ...VAMC cũng xử lý nợ xấu sau khi mua chủ yếu thông qua việc ủy quyền lại cho các TCTD bán nợ.
File đính kèm:
- xay_dung_he_thong_tai_chinh_xanh_kinh_nghiem_mot_so_nuoc_tre.pdf