Xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong trường học đáp ứng nhu cầu xã hội
Tóm tắt: Mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội (CTXH) cho cộng đồng, trong đó có
dịch vụ CTXH trong trường học là một trong những định hướng quan trọng trong Đề án
phát triển nghề CTXH giai đoạn 2 (2016-2020). Nhu cầu dịch vụ CTXH hiện nay ở nước
ta là rất lớn, song trong điều kiện khả năng đáp ứng của các cơ sở xã hội của Nhà nước
với nguồn biên chế cán bộ và ngân sách Nhà nước chi cho các hoạt động CTXH hạn chế
thì việc xây dựng một cơ chế hoạt động dịch vụ linh hoạt sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bài viết đề cập đến những vấn đề sau: i) Một số vấn đề chung về CTXH; ii). Thực trạng
xây dựng mô hình CTXH trường học ở nước ta hiện nay; iii). Một số biện pháp xây dựng
mô hình dịch vụ CTXH trường học nhằm đem lại sự hỗ trợ tốt nhất và giúp bảo vệ cho trẻ
em trong hoàn cảnh đặc biệt; góp phần vào nền an sinh của trẻ và gia đình trẻ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong trường học đáp ứng nhu cầu xã hội
170 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI XÂY DỰNG MÔ HÌNH CUNG CẤP DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG TRƯỜNG HỌC ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÃ HỘI Đặng Lộc Thọ Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt: Mô hình cung cấp dịch vụ công tác xã hội (CTXH) cho cộng đồng, trong đó có dịch vụ CTXH trong trường học là một trong những định hướng quan trọng trong Đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2 (2016-2020). Nhu cầu dịch vụ CTXH hiện nay ở nước ta là rất lớn, song trong điều kiện khả năng đáp ứng của các cơ sở xã hội của Nhà nước với nguồn biên chế cán bộ và ngân sách Nhà nước chi cho các hoạt động CTXH hạn chế thì việc xây dựng một cơ chế hoạt động dịch vụ linh hoạt sẽ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bài viết đề cập đến những vấn đề sau: i) Một số vấn đề chung về CTXH; ii). Thực trạng xây dựng mô hình CTXH trường học ở nước ta hiện nay; iii). Một số biện pháp xây dựng mô hình dịch vụ CTXH trường học nhằm đem lại sự hỗ trợ tốt nhất và giúp bảo vệ cho trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt; góp phần vào nền an sinh của trẻ và gia đình trẻ. Từ khóa: công tác xã hội, cung cấp dịch vụ, giáo dục, mô hình giáo dục, trẻ em. Nhận bài ngày 19.9.2019; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 22.10.2019 Liên hệ tác giả: Đặng Lộc Thọ; Email: dltho@hnmu.edu.vn 1. MỞ ĐẦU Công tác xã hội (CTXH) trong trường học là một bộ phận trong ngành CTXH nhằm đem lại sự hỗ trợ tốt nhất, giúp bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt, góp phần vào nền an sinh của trẻ và gia đình trẻ. CTXH trong trường học đã ra đời cách đây hàng trăm năm, nhưng ở Việt Nam mới chỉ thực sự bắt đầu triển khai những mô hình mang tính thử nghiệm và còn mơ hồ với đa số mọi người. Với tư cách là một nghề, CTXH đã và đang nhận được sự quan tâm của xã hội, phát triển thành một ngành khoa học và một nghề chuyên môn không thể thiếu trong xã hội hiện đại; góp phần quan trọng tăng cường an sinh xã hội, hỗ trợ cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vấn đề CTXH trường học đã được nhiều nhà nghiên cứu ở các nước Mĩ, Úc, Trung Quốc, Malaisia, Singapor quan tâm như: Nghiên cứu về tình trạng và sự phát triển CTXH trường học của Kelly, M. S., Berzin, S. C., Frey, A., Alvarez, M., Shaffer, G., & O’Brien, K. (2010) [14], Levine, K.A., & Zhu, K. (2010) [17], Raines, J, C., Stone, S., & Frey, A. (2010) [19], Lee, J. S. (2012) [16]; thực hành CTXH và các dịch vụ CTXH trong TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 34/2019 171 trường học của Alen-Meares, P. (2010) [7], Kelly, M. S., Raines, J.C., Stone, S., & Frey, A (2010) [15], Students Care Service (SCS), Singapor (2010) [21], National Associaltion of Social Works, NASW (2012) [18], Australian Association of Social Workers, AASW (2013) [8]; vai trò và thách thức của CTXH ở trường học của Yamano, N. (2011) [22]; năng lực và giá trị trong thực tiễn của nhóm CTXH của Joseph Lassner, Kathleen Powell, Elaine Finnegan (2013) [13]; nội dung và quy trình CTXH với gia đình của Robert Constable, Daniel B. Lee (2015) [20]; bảo vệ trẻ bị trầm cảm và sử dụng chất gây nghiện của Guibord M., Bell T., Romano E., Rouillard L. (2011); các rối loạn tâm thần ở trẻ em và thanh thiếu niên của Jozefiak T., Kayed N. S., Rimehaug T., Wormdal A. K., Brubakk A. M., Wichsstrom L. (2016) [12], Bronsard G., Alessandrini M., Fond G., Loundou A., Auquier P., Tordjman S., Boyer L. (2016) [9] Những năm gần đây ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này như: Nhu cầu khách quan của việc nâng cao tính chuyên nghiệp trong đào tạo nghề CTXH Việt Nam của Vũ Thị Kim Dung (2013) [4]; Hiệu quả đạt được từ những mô hình dịch vụ Công tác xã hội của Như Nguyệt (2016) [5] Tuy nhiên, CTXH trường học ở Việt Nam chưa được công nhận vị trí, vai trò trong trường học theo đúng nghĩa; năng lực cung cấp dịch vụ CTXH cho cộng đồng chưa cao, nhân viên CTXH chưa có cơ chế để hành nghề thực sự. Vì vậy, việc xây dựng mô hình CTXH trong trường học nhằm tham gia có hiệu quả để bảo vệ quyền trẻ em, hỗ trợ các em trong học tập và hoà nhập cộng đồng là cần thiết. Bài viết đề cập khái quát mô hình CTXH trong trường học ở các nước, thực trạng mô hình CTXH trong trường học của Việt Nam và đề xuất một số biện pháp để xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ CTXH trong trường học phù hợp với thực tiễn điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam, đáp ứng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 2. NỘI DUNG 2.1. Một số vấn đề chung 2.1.1. Sự cần thiết xây dựng mô hình cung cấp dịch vụ CTXH trong trường học CTXH là khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho mọi người. Trên một thế kỷ qua, khoa học và nghề chuyên môn CTXH đã hình thành và phát triển đem lại những lợi ích đáng kể thông qua việc cung cấp các dịch vụ hữu ích cho con người. Đến nay, CTXH có mặt tại 80 nước trên thế giới, đã và đang hỗ trợ cho những người yếu thế, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết các vấn đề xã hội, mang lại bình đẳng và công bằng xã hội. Với ý nghĩa quan trọng đó, CTXH đã được đưa vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau, như: Chăm sóc hỗ trợ những đối tượng thiệt thòi, yếu thế trong xã hội, trong bệnh viện, toà 172 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI án và đặc biệt là trong trường học (người nghèo, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người khuyết tật). Với sứ mệnh của mình, CTXH đã, đang và sẽ phấn đấu, đóng góp vào mục tiêu xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng và phát triển. CTXH trường học là nền tảng thiết yếu của việc giảng dạy và giáo dục trong trường học, nó còn là một dịch vụ đặc biệt trong trường học hỗ trợ tất cả những ai tham gia vào cuộc sống trường học: học sinh/sinh viên, phụ huynh, giáo viên, cán bộ nhà trường và những nhà quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học. Hiệp hội CTXH trường học Mỹ đã khẳng định: CTXH trường học là một trong những chuyên ngành quan trọng của CTXH. Với kiến thức và kỹ năng chuyên môn của mình, các nhân viên CTXH trường học tác động đến nhóm học sinh và cả hệ thống trường học. Nhân viên CTXH trường học được coi là công cụ để thúc đẩy nhà trường đạt được các mục tiêu học tập và giảng dạy. Nhân viên CTXH trường học cũng giúp cho học sinh nâng cao khả năng đáp ứng các nhiệm vụ học tập của mình thông qua sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng. Như vậy, việc xây dựng mô hình dịch vụ CTXH trong trường học thực sự là một nhu cầu bức thiết. CTXH trường học sẽ là một lĩnh vực chuyên biệt của CTXH, qua đó nhân viên CTXH làm việc trực tiếp với các đối tượng có các vấn đề xã hội như trẻ và cha mẹ trẻ, cán bộ quản lý và giáo viên nhằm cải thiện môi trường sống, học tập và làm việc trong trường học, từ đó hình thành môi trường học tập trong lành và an toàn cho sự phát triển của trẻ. 2.1.2. Mô hình dịch vụ công tác xã hội trong trường học trên thế giới CTXH trong trường học đã xuất hiện từ rất sớm, bắt đầu ở các nước phương Tây có nền an sinh xã hội phát triển rồi lan rộng sang các nước châu Á, châu Úc. Theo các tài liệu đã được công bố năm 1871, Vương quốc Anh là nước đầu tiên trên thế giới triển khai các dịch vụ CTXH vào trong hệ thống các trường học, trong đó các nhân viên CTXH học đường có nhiệm vụ giúp đỡ học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý xã hội, phát huy tối đa tiềm năng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. CTXH trường học ở Mỹ bắt đầu vào năm 1906 (tại New York, Boston và Hartfort) với nỗ lực hỗ trợ chương trình xóa mù chữ trong các gia đình ở Mỹ. Tiếp đó là sự phát triển CTXH vào trong hệ thống các trường học với mô hình triển khai các dịch vụ CTXH nhằm giúp đỡ học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý xã hội, phát huy tối đa tiềm năng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập ở các nước Canada, Autralia (vào những năm 1940); ở Thụy Điển (năm 1950), ở các nước châu Âu) như Phần Lan, Đức) vào những năm 1960 Tại châu Á, CTXH trường học đã được phát triển ở các nước New Zeland, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kong (từ thập kỉ 70 của thế kỉ 20); Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ, Ả Rập Xê út (từ những năm 1980 và 1990) Nhật Bản đã có những đánh giá về vai trò và thách thức của CTXH ở trường học để xây dựng mô hình với những chính sách phù hợp [22]; TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 34/2019 173 Singapore đã có các tiêu chuẩn cho dịch vụ chăm sóc học sinh cực trước các vấn đề mới nổi lên đối với thực tiễn CTXH trường học [21]... Cho đến nay, ngành CTXH học đường phát triển hơn cả vẫn là ở Mỹ, có thể coi là nền móng vững chắc để phát triển mô hình CTXH học đường nói chung. Mô hình CTXH học đường ở Mỹ ban đầu chủ yếu là hỗ trợ học sinh cần bảo hộ để các em thích nghi với trường học và nâng cao thành tích học tập; cung cấp dịch vụ liên kết gia đình, trường học, cộng đồng địa phương (liên kết và quản lý các nguồn lực đa dạng trong cộng đồng), hỗ trợ để trường học có thể thực hiện chính sách giáo dục theo sự biến đổi của môi trường xã hội tùy theo sự biến đổi của môi trường xã hội, điều chỉnh chính sách trường học có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em và hỗ trợ chương trình xóa mù chữ trong các gia đình ở Mỹ; sau đó có thêm vai trò của chuyên gia sức khỏe tinh thần (phòng ngừa, điều trị sức khỏe tinh thần)... Từ sau thập niên 1980, nhân viên CTXH học đường được nhấn mạnh ở vai trò người quản lý tình huống cụ thể, không chỉ cung cấp trực tiếp các dịch vụ CTXH học đường cho học sinh mà còn liên kết liên kết và điểu chỉnh gia đình, trường học và cộng đồng địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của học sinh như: Quản lý các nguồn lực đa dạng trong cộng đồng, can thiệp tích cực vào các dịch vụ đối với trẻ khuyết tật, giải quyết triệt để đói nghèo, lạm dụng chất độc hại, bạo lực học đường... Hiệp hội CTXH trường học Mỹ đã khẳng định: CTXH trường học là một trong những chuyên ngành quan trọng của CTXH, là công cụ để thúc đẩy nhà trường đạt được các mục tiêu học tập, giảng dạy; các nhân viên CTXH trường học với kiến thức và kỹ năng chuyên môn của mình, tác động đến nhóm trẻ và cả hệ thống trường học, giúp trẻ nâng cao khả năng đáp ứng các nhiệm vụ học tập của mình thông qua sự phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng [18]. 2.2. Thực trạng CTXH trường học ở nước ta hiện nay 2.2.1. Cơ sở pháp lý phát triển CTXH trường Luật Giáo dục quy định hệ thống giáo dục quốc dân xác định rõ mục tiêu giáo dục tại Điều 2, trong đó hướng tới đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện. Điều này phù hợp với Khoản 2, Điều 61, Hiến pháp 2013: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục...”. Đây cũng là mục tiêu mà CTXH hướng tới trong thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, các quy định khác của Luật là cơ sở để triển khai CTXH trong trường học: quyền của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong thực hiện sự bình đẳng và công bằng trong giáo dục; trách nhiệm của gia đình, xã hội trong việc giúp đỡ để người có hoàn cảnh khó khăn thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình; mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn... (Điều 10, Điều 12, Chương 6). 174 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI Luật Trẻ em và Luật Người khuyết tật là cơ sở pháp lý quan trọng để đưa CTXH vào trường học. Luật Trẻ em (năm 2016) đã ghi nhận: Trẻ em phải được phát triển cả về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và mối quan hệ xã hội; bảo đảm trẻ được hưởng lợi ích tốt nhất, không bị phân biệt đối xử, được thực hiện đầy đủ quyền và bổn phận của mình (từ Điều 12 đến Điều 36, Chương 2); ba cấp độ bảo vệ trẻ em gồm: phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp, các dịch vụ xã hội cung cấp cho trẻ em và trách nhiệm của các chủ thể liên quan (Chương 4). Luật Người khuyết tật cũng ghi nhận các quyền của người khuyết tật, trong đó có quyền được giáo dục hòa nhập; đồng thời ghi nhận trách nhiệm của cơ sở giáo dục, nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và nhân viên hỗ trợ giáo dục trong bảo đảm quyền của người khuyết tật. Đề án Phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010-2020 ban hành kèm theo Quyết định 32/2010/QĐ-TTg (Đề án 32) và Quyết định số 23/2006/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về giáo dục hòa nhập cho người tàn tật, khuyết tật là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định các chính sách cụ thể của Nhà nước về CTXH tại các cơ sở giáo dục cũng như trách nhiệm của xã hội trong trợ giúp người khuyết tật thực hiện quyền học tập. Kế hoạch phát triển nghề CTXH trong ngành Giáo dục giai đoạn 2017-2020 ban hành kèm theo Quyết định số 327/QĐ-BGDĐT ngày 25/01/2017 là cơ sở trực tiếp để triển khai các mô hình dịch vụ. Mục tiêu của kế hoạch là từng bước hình thành và phát triển hệ thống dịch vụ CTXH chuyên nghiệp trong tất cả các nhà trường trên toàn quốc, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm bảo vệ trẻ em không bị các hình thức xâm hại và bạo lực, hỗ trợ nâng cao năng lực cho trẻ em để các em tự giải quyết các vấn đề của bản thân và hoàn thành quá trình học tập tại trường. Việc thực hiện Đề án 32 cũng như Quyết định số 327/QĐ-BGDĐT là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu về tăng cường phối hợp liên ngành giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành khác về công tác chăm sóc, giáo dục một cách thực chất hơn; làm rõ hơn vai trò, trách nhiệm về giáo dục của các bộ, ngành liên quan [2]. Với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em và phát triển nghề CTXH như trên, việc xây dựng và phát triển mô hình dịch vụ CTXH trường học có các cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm cho hệ thống được vận hành nhằm bảo vệ trẻ em không bị các hình thức xâm hại và bạo lực; hỗ trợ nâng cao năng lực để trẻ tự giải quyết các vấn đề của bản thân và hoàn thành quá trình học tập tại trường; tăng cường phối hợp liên ngành giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ, ngành khác. 2.2.2. Thực trạng nhu cầu xây dựng mô hình dịch vụ CTXH trường học Môi trường nhà trường vẫn được coi là môi trường an toàn nhất cho sự phát triển một cách toàn diện. Tuy nhiên, hiện nay một số vấn đề xã hội phức tạp đã và đang nảy sinh với trẻ và chính môi trường giáo dục trẻ như: trẻ phân biệt đối xử; bị sao nhãng học tập, bị bạo TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 34/2019 175 hành, bị tai nạn thương tích, bị tự kỷ, bị tổn thương do xung đột gia đình, bị xâm hại tình dục; sự kỳ vọng vượt quá khả năng của trẻ, những rào cản với cơ hội được đến trường của trẻ khuyết tật hay nhiễm HIV/AIDS... Trong thời gian gần đây, thực trạng trẻ tự kỷ không ngừng gia tăng, đặt ra những yêu cầu can thiệp và trợ giúp đặc biệt (Theo thống kê của Bệnh viện Nhi Trung ương: năm 2008 có 450 trẻ đến khám và điều trị rối loạn phổ tự kỷ tại Khoa Tâm thần, đến năm 2014 là 2468 trường hợp [5]). Để giúp trẻ tự kỷ học hòa nhập đạt kết quả tốt cần có hoạt động hỗ trợ cá nhân, có thể là giáo viên hỗ trợ cho trẻ tự kỷ ngay tại lớp hoặc giáo viên hỗ trợ đi kèm trẻ trong các hoạt động hàng ngày trong thời gian đầu trẻ ra học hòa nhập, đặc biệt là giai đoạn từ 0-5 tuổi - giai đoạn quan trọng nhất trong can thiệp sớm với trẻ. Giáo dục hòa nhập và can thiệp sớm là giải pháp hiệu quả cho trẻ, giáo viên hỗ trợ hoặc nhân ... ơ quan công an, tòa án, các tổ chức chăm sóc và bảo vệ trẻ em... để kịp thời phát hiện, cung cấp thông tin về khách hàng và tư vấn giúp đỡ như: - Đối với trẻ: phát hiện và kiểm soát hành vi bất thường (như sợ hãi, rối loạn cảm xúc hoặc hành vi, hung hăng hoặc hay gây gổ, không tham gia các hoạt động chung, chậm phát triển trí tuệ, tình cảm xã hội...); phòng ngừa và can thiệp trong trường hợp trẻ bị bị lạm dụng (bạo hành, sao nhãng, bỏ mặc, xâm hại tình dục...); biện hộ nhằm đảm bảo quyền của trẻ trong trường hợp bị vi phạm; kết nối nguồn lực trợ giúp trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, phòng tránh tai nạn, thương tích... 180 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI - Đối với giáo viên: Trợ giúp các thầy cô giải quyết căng thẳng, tâm lý của bản thân; kết nối với phụ huynh trong việc thông tin về vấn đề của trẻ để cung cấp thông tin về gia đình cho giáo viên... - Đối với cán bộ quản lý: Trợ giúp xây dựng các chính sách và các chương trình giáo dục dựa trên các quy định pháp luật; truyền thông thay đổi nhận thức của cộng đồng về giáo dục trẻ; vận động nguồn lực phát triển từ cộng đồng; tư vấn chính sách, pháp luật liên quan đến trẻ em; hỗ trợ giải quyết vấn đề dư luận xã hội... - Với phụ huynh học sinh: Là cầu nối giữa gia đình và nhà trường; giúp cha mẹ tham gia vào quá trình giải quyết vấn đề của con và tiếp cận được các dịch vụ xã hội, các nguồn tài nguyên có thể trợ giúp phụ huynh học sinh; thực hiện tham vấn gia đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi. Thứ ba, có đội ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp: Tại các mô hình dịch vụ phải có cán bộ chuyên trách được đào tạo cơ bản về CTXH, có kỹ năng thực hành tốt có khả năng kết nối với các cộng tác viên nhằm tăng năng lực cung ứng dịch vụ nhằm tăng năng lực cung ứng dịch vụ. Tùy thuộc vào lĩnh vực hoạt động cung cấp dịch vụ mà lựa chọn đội ngũ được đào tạo các lĩnh vực chuyên sâu về CTXH phù hợp, trong đó người phụ trách chính phải được đào tạo về kiến thức, kỹ năng chuyên sâu để giải quyết các yêu cầu đặt ra trong trường học. Thứ tư, bảo đảm tính kinh tế và hiệu quả: Một mô hình muốn triển khai được trên thực tế thì luôn phải tính đến yếu tố kinh tế và hiệu quả thực thi các hoạt động. Tính kinh tế chính là tiết kiệm về chi phí hành chính, nhân sự trong điều kiện công việc vẫn phải triển khai có hiệu quả. Hiện nay, ở nhiều trường học còn hạn chế về cơ sở vật chất, cũng như nguồn tài chính chi trả lương cho nhân sự thì việc lựa chọn mô hình phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc tồn tại và phát triển của nó trong thực tiễn. Thứ năm, có cơ chế, chính sách thúc đẩy phù hợp: Trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, để triển khai mô hình CTXH trong trường học nhất thiết phải có cơ chế, chính sách phù hợp làm cơ sở pháp lý, là tiền đề để thúc đẩy sự ra đời của mô hình. Trước hết phải kể đến chủ trương chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tiếp đó là chủ trương của địa phương. Nếu không có cơ chế, chính sách thì bất cứ mô hình nào cũng khó có thể được hiện thực hóa. Chính vì lý do này, cần tiếp tục truyền thông và vận động để Bộ Giáo dục và Đào tạo có văn bản cụ thể triển khai CTXH trong trường học. Bên cạnh đó cần giúp lãnh đạo địa phương và trường học nhận thức rõ về CTXH và vai trò của CTXH trong thực hiện các hoạt động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. 2.3.2. Đảm bảo những điều kiện cơ bản để mô hình hoạt động hiệu quả Thứ nhất, xây dựng những qui định pháp lý về dịch vụ CTXH trong trường học: Cần phải có những qui định cụ thể về tự chủ huy động nguồn lực (về tài chính, biên chế trường TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 34/2019 181 học, trong đó có biên chế nhân viên CTXH, cán bộ quản lý CTXH hoạt động dưới sự điều hành của Ban giám hiệu trường trường học); có những văn bản hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc đạo đức và tiêu chuẩn thực hành nghiệp vụ CTXH trường học trên cơ sở học tập, tham khảo các qui chuẩn chung của các nước phát triển, các nước trong khu vực và có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam; có qui định về nội dung chương trình dịch vụ CTXH dựa trên chương trình quốc gia về phát triển CTXH trong trường học và có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam. Xây dựng phòng CTXH trong trường học có biên chế nhân viên CTXH chuyên nghiệp, đây là mô hình lý tưởng nhất. Trong mô hình này, nhân viên CTXH chuyên nghiệp được tuyển dụng và trả lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn kinh phí của nhà trường hoặc được trường ký hợp đồng lao động có thời hạn. Các nhân viên này hoạt động dưới sự điều hành của Ban Giám hiệu nhà trường, dựa trên chương trình quốc gia về phát triển CTXH trong trường học. Thứ hai, về cơ sở vật chất: Tùy thuộc vào lĩnh vực cung cấp dịch vụ mà các yếu tố cơ sở vật chất cần thiết để dịch vụ CTXH có hiệu quả. Về cơ bản có thể kể đến: Văn phòng, trụ sở giao dịch (có đủ điện thoại, bàn làm việc, máy tính và kết nối mạng internet), phòng CTXH (có đủ các dụng cụ, phương tiện làm việc đặc thù để can thiệp hoặc trợ giúp thân chủ); tài liệu, sách báo, tranh ảnh có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ Thứ ba, hợp pháp hóa và quảng bá thông tin về dịch vụ: Để mô hình thực hành và cung cấp dịch vụ chính thức được công nhận, đồng thời để đảm bảo tính hợp pháp trong các giao dịch, thì việc ra quyết định thành lập trung tâm dịch vụ CTXH là cần thiết. Đây cũng chính là việc tạo niềm tin cho khách hàng, góp phần vào nâng cao uy tín, vị thế của cơ sở với xã hội. Việc quảng bá thông tin về mô hình dịch vụ đến xã hội là điều cần thiết. Hình thức thực hiện việc quảng bá thông tin là đa dạng, song phải phù hợp với đặc thù của tính chất và năng lực dịch của cơ sở. 2.3.3. Thực hiện xã hội hóa CTXH trong trường học Để mô hình dịch vụ CTXH trường học hoạt động có hiệu quả cần thực hiện tốt việc xã hội hoá, xây dựng mối quan hệ tốt với nhiều cá nhân và tổ chức. Cụ thể: Thứ nhất, phối hợp với nguồn lực nhân viên CTXH ở địa phương: Trong sự phối hợp này, trường học sẽ trở thành một phần trong hệ thống phòng ngừa, can thiệp của nhân viên CTXH xã/phường/trung tâm ở địa phương. Theo đó, nhân viên CTXH sẽ đưa các hoạt động CTXH ở trường học vào chương trình, kế hoạch hoạt động thường xuyên của mình; thực hiện can thiệp hay phòng ngừa các vấn đề của thân chủ trên cơ sở cả ba môi trường nhà trường, xã hội và gia đình. Mô hình này xuất phát từ thuyết hệ thống, tức là nhân viên CTXH thực hiện can thiệp hay phòng ngừa các vấn đề của thân chủ phải trên cơ sở cả ba môi trường nói trên; là cầu nối để gia đình, nhà trường và cộng đồng cùng hợp tác giải 182 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI quyết vấn đề nảy sinh trong trường học. Với mô hình này sẽ chia sẻ được nguồn lực về con người, giảm chi phí; đảm bảo tính chuyên môn sâu, tính kết nối, liên thông giữa các cơ quan trong hệ thống bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, nguồn nhân lực CTXH ở các địa phương còn hạn chế cả về số lượng và tính chuyên nghiệp nên việc triển khai liên tục, đồng bộ trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều nhà trường, nhiều đối tượng sẽ gặp nhiều hạn chế. Thứ hai, huy động các lực lượng tham gia làm CTXH trong trường học theo các hình thức: (i). Hợp đồng ký kết giữa nhân viên CTXH độc lập hoặc trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH với cha mẹ trẻ (nghĩa là, nhà trường tạo điều kiện về cơ chế cho phép nhân viên CTXH thực hiện các hoạt động chuyên môn, còn kinh phí hoạt động sẽ do cha mẹ trẻ chi trả); (ii). Khai thác sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội, các nhà tài trợ, sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hợp pháp tại Việt Nam theo một bản thỏa thuận ba bên: NGO, trường học và chính quyền địa phương. Thuận lợi của các mô hình này là không cần sử dụng ngân sách nhà nước, không làm tăng biên chế, bảo đảm được tính chuyên nghiệp, dễ triển khai dựa trên nhu cầu của các bên. Tuy nhiên, hình thức này cần sự đồng thuận của cả phụ huynh, địa phương và nhà trường; tính ổn định và lâu dài không cao (thường chỉ hiệu quả trong giai đoạn đầu, giai đoạn sau sẽ phải chuyển đổi sang mô hình khác mang tính lâu dài, ổn định hơn). Thứ ba, gắn kết với các cơ sở đào tạo ngành CTXH: Các trường học sẽ liên kết với các cơ sở đào tạo, trở thành các cơ sở thực hành thường xuyên và thực tập cho sinh viên của ngành CTXH. Mô hình này vừa là nơi sinh viên tìm hiểu thực tiễn các vấn đề nảy sinh ở trường học, vừa là nơi giới thiệu về nghề CTXH, tạo điều kiện để các hoạt động CTXH được triển khai dưới sự quản lý, hướng dẫn của giảng viên các cơ sở đào tạo. Yêu cầu để đảm bảo hiệu quả của mô hình là luôn phải có sự gắn kết và bổ trợ giữa hoạt động thực hành thực tập của sinh viên với hoạt động cung cấp dịch vụ CTXH của trường học. Mô hình này giúp cập nhật được các thông tin về lý thuyết kỹ thuật thực hành mới trong việc cung cấp dịch vụ, dễ triển khai các hoạt động (do không cần nhiều kinh phí), tạo môi trường để sinh viên được thực hành, thực tập nghề nghiệp gắn với thực tiễn. Tuy nhiên, nếu hoạt động tổ chức thực tập của sinh viên không được tổ chức tốt, đảm bảo tính chuyên môn thì có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện các hoạt động can thiệp, làm mất cơ hội trợ giúp sự phát triển của trẻ ở giai đoạn quan trọng nhất, ngoài ra còn làm mất uy tín của cả cơ sở đào tạo CTXH và trường học. 3. KẾT LUẬN Công tác xã hội trường học vẫn là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu để xây dựng mô hình này có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển của đất nước nói chung, của ngành CTXH nói riêng nhằm góp phần giải quyết những vấn đề khó TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 34/2019 183 khăn của trẻ, thực hiện mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ một cách toàn diện; thực hiện công bằng xã hội. Qua nghiên cứu lí luận và thực tiễn, có thể khẳng định việc xây dựng mô hình dịch vụ CTXH trong trường học là yêu cầu cấp thiết và phù hợp với xu thế chung hiện nay. Để mô hình CTXH trong trường học hoạt động cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các biện pháp, có sự lựa chọn và ưu tiên biện pháp cho phù hợp với thực tiễn của từng địa phương, từng nhà trường và từng giai đoạn lịch sử; cần dựa trên các kết quả nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng của các chuyên gia, nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực. Mô hình CTXH trường học được thực hiện có hiệu quả sẽ góp phần giảm tải gánh nặng cho các cơ sở xã hội của Nhà nước, tăng tính hiệu quả, tiện ích của các dịch vụ xã hội; góp phần khẳng định sự cần thiết và đúng đắn trong định hướng phát triển CTXH thực hành ở Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyệt Ánh (2014), Trung tâm CTXH Thái Nguyên triển khai hiệu quả công tác trị liệu cho trẻ tự kỷ, - truy cập ngày 24/09/2014. 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Báo cáo quốc gia giáo dục cho mọi người của Việt Nam (tr.64). 3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2013), CTXH trong trường Mầm non và Tiểu học., - Giáo trình biên soạn theo chương trình của Đề án 32, tr.23. 4. Vũ Thị Kim Dung (2013), Nhu cầu khách quan của việc nâng cao tính chuyên nghiệp trong đào tạo nghề CTXH Việt Nam, - Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế “Công tác xã hội trong quá trình hội nhập và phát triển của Việt Nam”. 5. Như Nguyệt (2016), Hiệu quả đạt được từ những mô hình dịch vụ Công tác xã hội, - truy cập ngày 26/12/2016. 6. Unicef (2009). Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam. 7. Alen-Meares, P. (2010), Social work services in schools, - Boston: Alyiyn & Bacon. 8. Australian Association of Social Workers (2013), Practice standards, - Canberra: AASW. 9. Bronsard G., Alessandrini M., Fond G., Loundou A., Auquier P., Tordjman S., Boyer L. (2016), The Prevalence of Mental Disorders Among Cildren and Adolescents in the Child Welfare System: A Sustematic Review and Meta – Analysis, - Medicine, 95 (7), e2622. Doi: 10.1097/md.0000000000002622. 10. Guibord M., Bell T., Romano E., Rouillard L. (2011), - Risk and protective factors for depression and substance use in an adolescent child welfare sample, - Children and Youth Services Review, 33 (11), pp. 2127-2137. Doi: 10.1016/j.childyouth.2011.06.019. 11. Harrison, K., & Harrison, R. (2009), The Schoool Social Worker’s Role in the Tertiary Support of Functional Assessment, - Children & Schools, 31(2), pp.119-127. 12. (Retrieved from 13. Jozefiak T., Kayed N. S., Rimehaug T., Wormdal A. K., Brubakk A. M., Wichsstrom L. (2016), Prevalence and comorbidity of mental disorders among adolescents living in residential youth care, - European Child & Adolescent Psychiatry, 25 (1), pp.33-47. Doi: 10.1007/s00787-015-0700-x. 184 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI 14. Joseph Lassner, Kathleen Powell, Elaine Finnegan (2013), Social Group Work: Competence and Values in Practice, - Routledge. 15. Kelly, M. S., Berzin, S. C., Frey, A., Alvarez, M., Shaffer, G., & O’Brien, K. (2010), The state of school social work: Findings from the national school social work survey, - School Mental Health, 2(3), pp.132-141. 16. Kelly, M. S., Raines, J.C., Stone, S., & Frey, A (2010), School Social Work: An Evidence Informed Framework for Practice, - Oxford University Press, USA. 17. Lee, J. S. (2012), School Social Work in Australia, - Australian Social Work, 65(4), pp.552- 570. doi: 10.1080/0312407X.2012.675343. 18. Levine, K.A., & Zhu, K. (2010), The changing context of China: Emerging issues forr school social work practice, - International Social Work, 53(3), pp.339-352. 19. National Associaltion of Social Works (2012), NASW standards for school social work services, - Washington: National Associaltion of Social Works. 20. Raines, J, C., Stone, S., & Frey, A. (2010), The Need forr an Evidence-Informed Practice Approach in Schools, - In M. S. Kelly, J. C. Raines, & A. Frey (Eds.), School Social Work: An Evidence-Informed Framework for Practice: Oxford Univesity Press, USA. 21. Robert Constable, Daniel B. Lee (2015), Social Work with Families: Content and Process. 22. Students Care Service (2010), Standards forr school social work service, - Students Care Service (SCS), Singapore. 23. Yamano, N. (2011), The Role and Challenges of School Social Work: An Examination from Practice in Osaka, - School Social Work Journal, 36(1), pp.1-15. Retrieved from DEVELOPING MODELS ON SOCIAL WORK SERVICES AT SCHOOL Abstract: The model of social work services provided to the community, including social work services in schools, is one of the important orientations in the development of the second phase of social work (2016- 2020). The demand for social work services in our country is very great, while the ability of the social institutions with restricted resources and provided budget is limited, the development of a flexible service operation mechanism will be very important. The paper addresses aims at i) reviewing social work patterns in the school in countries around the world; ii) reflecting the current status of social work models in Vietnam schools; iii) discussing a number of measures to develop a social work model in the school to provide the optimal support and help to protect children in special condition, which contributes to the wellbeing of children and their families. Keywords: Social works, service providing, education, education model, children.
File đính kèm:
- xay_dung_mo_hinh_cung_cap_dich_vu_cong_tac_xa_hoi_trong_truo.pdf