Xây dựng quy trình phân tích đa hình rs11212617 liên quan đến đáp ứng điều trị Metformin ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2

Tóm tắt: Metformin hiện nay được khuyến cáo là thuốc sử dụng đầu tay trong điều trị tình trạng

tăng đường huyết ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị của mỗi bệnh

nhân là khác nhau. Nghiên cứu gần đây cho thấy biến đổi liên quan đến gen ATM có ảnh hưởng

đến đáp ứng hạ đường huyết của thuốc. Trong đó có đa hình di truyền ở SNP rs11212617 (C>A),

nằm trên cánh dài NST số 11, với alen C có liên quan đến đáp ứng lâm sàng tốt hơn so với alen A.

Vì vậy, chúng tôi tiến hành xây dựng quy trình phân tích đa hình di truyền rs11212617 trên nhóm

bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Các mẫu máu đã tách chiết DNA, phương pháp PCR và giải

trình tự Sanger được sử dụng để xác định đa hình di truyền rs11212617 của 22 bệnh nhân người

Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy chúng tôi đã hoàn thiện được quy trình phân tích đa hình

di truyền rs11212617. Tổng số có 22 bệnh nhân được xác định kiểu gen: 54,5% có kiểu gen CC,

31,8% có kiểu gen CA và 13,7% có kiểu gen AA. Tần số xuất hiện alen C là 0,71, alen A là 0,29.

Từ kết quả này sẽ giúp phát triển các nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá mức độ đáp ứng lâm sàng của

kiểu gen với điều trị thuốc trên quần thể người Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị bệnh

pdf 7 trang yennguyen 6060
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng quy trình phân tích đa hình rs11212617 liên quan đến đáp ứng điều trị Metformin ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng quy trình phân tích đa hình rs11212617 liên quan đến đáp ứng điều trị Metformin ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2

Xây dựng quy trình phân tích đa hình rs11212617 liên quan đến đáp ứng điều trị Metformin ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 
 54
Xây dựng quy trình phân tích đa hình rs11212617 
liên quan đến đáp ứng điều trị Metformin 
ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2 
Nguyễn Thị Thúy Mậu1,*, Phạm Thị Quân2, Phạm Thị Hồng Nhung1, 
Đỗ Thị Lệ Hằng1, Phí Thị Tú Anh1, Vũ Thị Thơm1 
1Khoa Y dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Đại học Y Hà Nội, 01 Tôn Thất Tùng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 02 tháng 4 năm 2018 
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 5 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 6 năm 2018 
Tóm tắt: Metformin hiện nay được khuyến cáo là thuốc sử dụng đầu tay trong điều trị tình trạng 
tăng đường huyết ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị của mỗi bệnh 
nhân là khác nhau. Nghiên cứu gần đây cho thấy biến đổi liên quan đến gen ATM có ảnh hưởng 
đến đáp ứng hạ đường huyết của thuốc. Trong đó có đa hình di truyền ở SNP rs11212617 (C>A), 
nằm trên cánh dài NST số 11, với alen C có liên quan đến đáp ứng lâm sàng tốt hơn so với alen A. 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành xây dựng quy trình phân tích đa hình di truyền rs11212617 trên nhóm 
bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Các mẫu máu đã tách chiết DNA, phương pháp PCR và giải 
trình tự Sanger được sử dụng để xác định đa hình di truyền rs11212617 của 22 bệnh nhân người 
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy chúng tôi đã hoàn thiện được quy trình phân tích đa hình 
di truyền rs11212617. Tổng số có 22 bệnh nhân được xác định kiểu gen: 54,5% có kiểu gen CC, 
31,8% có kiểu gen CA và 13,7% có kiểu gen AA. Tần số xuất hiện alen C là 0,71, alen A là 0,29. 
Từ kết quả này sẽ giúp phát triển các nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá mức độ đáp ứng lâm sàng của 
kiểu gen với điều trị thuốc trên quần thể người Việt Nam, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị bệnh. 
 Từ khóa: rs11212617, đa hình di truyền, Metformin, đái tháo đường type 2. 
1. Đặt vấn đề 
Đái tháo đường (ĐTĐ) type 2 là một bệnh 
rối loạn chuyển hóa đang ngày càng gia tăng 
trên toàn thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát 
triển [1]. Tại Việt Nam, từ năm 2002 đến năm 
_______ 
 Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-986100137. 
 Email: thuymauhmu@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4105 
2012, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ đã tăng gấp đôi từ 
2,7% lên 5,4%, và theo ước tính vào năm 2030 
sẽ có tới 3,42 triệu người mắc phải căn bệnh 
này [2]. Đặc điểm chính của bệnh là nồng độ 
glucose máu tăng cao, lâu dài sẽ gây tổn thương 
nhiều cơ quan trong cơ thể, tăng nguy cơ biến 
chứng tim mạch, thận, thần kinh và nhiều bệnh 
lý khác [3]. Dự phòng và điều trị ĐTĐ đang trở 
thành một trong những vấn đề chính trong công 
tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Metformin, 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 55
một dẫn xuất của Biguanide, hiện được khuyến 
cáo sử dụng phổ biến đề điều trị tình trạng tăng 
đường huyết của bệnh nhân ĐTĐ type 2, trong 
cả đơn trị liệu và trị liệu kết hợp (theo phác đồ 
của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ) [4]. 
Theo ADA 2017, một trong các tiêu chuẩn 
chẩn đoán ĐTĐ là khi bệnh nhân có HbA1c ≥ 
6,5% và mục đích điều trị là duy trì chỉ số này ≤ 
7% [4]. Tuy nhiên không phải tất cả bệnh nhân 
ĐTĐ type 2 đều đáp ứng tốt với điều trị 
Metformin. Hơn một phần ba bệnh nhân ĐTĐ 
type 2 không đáp ứng với liều thông thường 
được khuyến cáo [5]. Nghiên cứu gần đây cho 
thấy gen ataxia telangiecsia mutated (ATM) có 
vai trò điều hòa tác động của Metformin thông 
qua hoạt hóa AMP-activated protein kinase 
(AMPK), và các biến đổi trong gen này sẽ ảnh 
hưởng đến đáp ứng hạ đường huyết của thuốc. 
Trong đó có đa hình di truyền ở SNP 
rs11212617, đột biến thay C thành A ở vị trí 
108412434 trên cánh dài nhiễm sắc thể (NST) 
số 11. Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân mang 
kiểu gen AA có đáp ứng giảm đường huyết khi 
sử dụng Metformin thấp hơn so với bệnh nhân 
có kiểu gen CC [6, 7]. Do đó, việc xác định 
kiểu SNP này có vai trò quan trọng trong tiên 
lượng đáp ứng thuốc điều trị ở từng bệnh nhân. 
Ở Việt Nam hiện chưa có đề tài nào xây dựng 
quy trình phân tích SNP này. Do đó, với mục 
đích đưa xét nghiệm xác định kiểu gen cho 
bệnh nhân như một xét nghiệm thường quy tại 
các cơ sở khám chữa bệnh, chúng tôi tiến hành 
thực hiện đề tài: “Xây dựng quy trình phân tích 
đa hình rs11212617 liên quan đến đáp ứng điều 
trị Metformin ở bệnh nhân đái tháo đường type 
2” với hai mục tiêu: (1) Tối ưu hóa quy trình 
xác định đa hình di truyền rs11212617 trên 
bệnh nhân ĐTĐ type 2, và (2) Áp dụng quy 
trình để xác định đa hình di truyền rs11212617 
trên một số bệnh nhân ĐTĐ type 2. 
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành theo phương 
pháp mô tả cắt ngang, sử dụng phương pháp 
chọn mẫu thuận tiện. 22 bệnh nhân được chẩn 
đoán ĐTĐ type 2 theo tiêu chuẩn ADA 2017 
được điều trị bằng Metformin tại Bệnh viện Dệt 
May, Hà Nội. Thời gian lấy mẫu từ 6/2017đến 
03/2018. Nghiên cứu tuân thủ theo quy định và 
được thông qua bởi Hội đồng đạo đức của Khoa 
Y Dược, ĐHQG Hà Nội. 
Thu thập và bảo quản mẫu máu: 22 mẫu 
máu của bệnh nhân mắc ĐTĐ type 2 thu thập 
tại Bệnh viện Dệt May, được bảo quản trong 
EDTA lưu ở -20oC cho đến khi sử dụng. Ống 
máu được ghi đầy đủ thông tin: tên bệnh nhân, 
tuổi, mã bệnh án. 
Tách chiết DNA tổng số: DNA tổng số 
được tách từ mẫu máu, sử dụng E.Z.N.A blood 
DNA Mini Kit (Omega-Biotek) theo quy trình 
khuyến cáo của hãng. 
Nhân dòng phân đoạn mang SNP 
rs11212617: Để có quy trình nhân dòng đặc 
hiệu và ổn định, chúng tôi xác định nhiệt độ gắn 
mồi, nồng độ hoạt động tối ưu của các thành 
phần trong phản ứng PCR sử dụng DreamTaq 
DNA Polymerase (Thermo Scientific). Khoảng 
nhiệt độ gắn mồi khảo sát từ 55-70 oC, khoảng 
nồng độ mồi từ 0,1-0,9 µM, khoảng nồng độ 
DNA từ 5-200 ng/µl.Sản phẩm PCR được điện 
di trên gel agarose 1,5%, cùng thang chuẩn 
Ruler 100 bp Plus DNA Ladder (SM0321, 
Thermo Scientific). 
Trình tự mồi nhân dòng trong phản ứng 
PCR: mồi xuôi ATM-F: 5‘ 
TGGGTTGCTTGTGGATAACATATAGTT
GG 3’ và mồi ngược ATM-R: 5‘ 
GAGAAGGCAGTAAAGTGAAGGAATAC
AGAG 3’[8]. Đoạn DNA nhân lên có độ dài 
209 bp. 
Xác định kiểu gen bằng phương pháp giải 
trình tự: 20 µl sản phẩm PCR được gửi giải 
trình tự tại hãng IDT (Malaysia). Kết quả giải 
trình tự được đọc bằng phần mềm BioEdit 
version 7.2.6 để xác định kiểu gen của mỗi 
bệnh nhân. Tần số các alen sẽ được tính toán và 
so sánh với tần số lý thuyết theo định luật 
Hardy-Weinberg sử dụng Chi-square test. 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 
56
3. Kết quả nghiên cứu 
Tách chiết DNA tổng số: 2ml máu tĩnh 
mạch của mỗi bệnh nhân được chống đông 
bằng EDTA đều tách được DNA tổng số bằng 
E.Z.N.A blood DNA Mini Kit. Nồng độ DNA 
thu hồi sau tách chiết dao động từ 13,85 – 141,8 
ng/µl. Mẫu có độ tinh sạch cao, 21/22 mẫu 
(95,5%)có chỉ số A260/A280 dao động trong 
khoảng 1,7 – 2,0, chứng tỏ DNA được tách 
chiết đạt yêu cầu cho phản ứng khuếch đại 
DNA bằng PCR. 
Hình 1. Ảnh điện di trên gel agarose 1,5% của thí 
nghiệm tối ưu PCR nhân dòng đoạn DNA chứa SNP 
rs11212617. A: Tối ưu nhiệt độ gắn mồi. B: Tối ưu 
nồng độ mồi. C: Tối ưu nồng độ DNA trong mẫu 
máu. Trong hình (B): A: nồng độ mồi 0,9 µM. B: 
nồng độ mồi 0,3 µM. C: nồng độ mồi 0,1 µM. Sử 
dụng 3 mẫu có nồng độ DNA là 1: nồng độ DNA 
100 ng/µl. 2: nồng độ DNA 50 ng/µl. 3: nồng độ 
DNA 10 ng/µl. M: marker GeneRuler TM 100 bp 
DNA Ladder. (-): Đối chứng âm. 
Nhân dòng phân đoạn mang SNP 
rs11212617: Kết quả điện di sản phẩm tối ưu 
từng thành phần được trình bày ở hình 1. Dựa 
trên kết quả hình ảnh băng điện di lên sáng rõ, 
không có băng phụ, chúng tôi lựa chọn nhiệt độ 
gắn mồi tối ưu là 61,5oC, nồng độ mồi tối ưu ở 
0,3 µM. Về nồng độ DNA, chúng tôi lựa chọn 
trong khoảng từ 5-200 ng/µl, vì ở tất cả các vị 
trí băng điện di đều lên rõ, không có băng 
phụ,chứng tỏ phương pháp có độ nhạy, có thể 
nhân dòng đoạn gen với nồng độ DNA rất thấp. 
Như vậy, chu trình nhiệt cho phản ứng PCR 
gồm 3 giai đoạn: biến tính ban đầu 95oC trong 3 
phút; 35 chu kỳ: 95oC trong 30 giây, gắn mồi ở 
61,5oC trong 30 giây, 72oC trong 1 phút; thời 
gian kéo dài cuối 72oC trong 5 phút. Chúng tôi 
tiến hành kiểm chứng quy trình trên 6 mẫu bệnh 
nhân và cho kết quả ở hình 2. 
Hình 2. Ảnh điện di trên gel agarose 1,5% của thí 
nghiệm tối ưu PCR, sử dụng quy trình tối ưu chạy 
với 6 mẫu bệnh nhân. M: marker GeneRuler TM 100 
bp DNA Ladder. (-): Đối chứng âm. 
Hình 3. Kết quả giải trình tự đoạn DNA chứa 
rs11212617. A: kiểu gen CC. B: Kiểu gen CA. C: 
Kiểu gen AA. Phần đóng khung là vị trí SNP. 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 57
Giải trình tự xác định kiểu gen của bệnh 
nhân: Dựa vào kết quả giải trình tự mẫu PCR 
đã tinh sạch, chúng tôi xác định được các kiểu 
gen đồng hợp CC, AA và dị hợp CA. (Hình 3). 
Chúng tôi chia 22 bệnh nhân thành 3 nhóm kiểu 
gen, với số lượng mỗi nhóm được trình bảy ở 
bảng 1.Vị trí SNP trên gen: nucleotid thứ 55 
tính từ mồi F. Trình tự SNP: 
CCAATTACAAAGGGCAGATCAGAGA[A/
C]TGTCAGAGCGGATAAAAAATCAAGA. 
Bảng 1. Đa hình di truyền SNP rs11212617 ở 22 
mẫu bệnh nhân nghiên cứu 
Kiểu gen 
rs11212617 
Số bệnh nhân Tỷ lệ % 
CC 12 54,5% 
CA 7 31,8% 
AA 3 13,7% 
Tần số của alen C là 0,71, alen A là 0,29. 
Kiểm định với Chi-square test, ta có χ2 = 1,22 
và p-value = 0,269. Như vậy, tần số các alen 
thu được trong nghiên cứu này phù hợp theo 
định luật Hardy-Weinberg. Điều đó cũng cho 
thấy cấu trúc di truyền của các alen này ở người 
Việt Nam có thể đã trở nên ổn định (ít nhất 
quần thể 22 bệnh nhân thuộc nghiên cứu này đã 
có tính đại diện). 
4. Bàn luận 
Kết quả nghiên cứu cho thấy quy trình phân 
tích xác định được kiểu gen SNP rs11212617 
của chúng tôi đã ổn định. Về tách chiết DNA từ 
mẫu máu toàn phần, một số mẫu có nồng độ 
DNA thu được khá thấp so với các mẫu còn lại 
(mẫu nhỏ nhất có nồng độ thu được là 13,85 
ng/µl). Tuy nhiên nồng độ DNA cho lên băng 
kích thước rõ nằm trong khoảng từ 5 – 200 
ng/µl, chứng tỏ phương pháp có độ nhạy, với 
độ tinh sạch OD trong khoảng 1,7 đến 2,0 đạt 
yêu cầu cho việc thực hiện phản ứng PCR về 
sau. Quy trình phân tích gen đã tối ưu bao gồm: 
nhiệt độ gắn mồi ở 61,5oC, nồng độ mồi là 0,3 
µM mỗi mồi, nồng độ DNA trong khoảng 5 – 
200 ng/µl, kết quả này đảm bảo hiệu suất phản 
ứng cao (băng điện di lên rõ nét, không xuất 
hiện băng phụ) và tính đạo đức của nghiên cứu. 
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 22 
bệnh nhân. Với tập hợp mẫu nhỏ nhưng kiểm 
định Chi-square cho thấy tần số của các alen đã 
phân bố theo định luật Hardy-Weinberg, nhóm 
mẫu nghiên cứu có tính đại diện cho quần thể 
bệnh nhân ĐTĐ type 2 tại khoa Nội, Bệnh viện 
Dệt May. Phân bố alen trong quần thể người 
Việt Nam có sự khác biệt với một số quần thể 
trong các nghiên cứu khác trên thế giới. Nhóm 
nghiên cứu GoDARTS năm 2011 trên quần thể 
người châu Âu thực hiện trên 1783 người ở 
Scotland và 1113 người ở trong thử nghiệm lâm 
sàng của UKPDS cho thấy alen C có tỷ lệ thấp 
hơn (44%) so với alen A [7]. Nghiên cứu này 
cũng cho thấy alen C có tỷ lệ đáp ứng tốt hơn với 
Metformin trong việc đạt mục tiêu HbA1c dưới 
7% (OR = 1,64, CI 1,37 – 1,99, p = 1,9*10-7). Một 
nghiên cứu khác tại Mỹ năm 2012 đã tiến hành 
thử nghiệm lại đáp ứng với Metformin trong một 
thử nghiệm lâm sàng với 5 nhóm chủng tộc có 
nguy cơ cao mắc ĐTĐ type 2 và đang điều trị 
bằng phương pháp thay đổi lối sống hoặc 
Metformin [9]. Kết quả cho thấy alen C có tần 
số xuất hiện khác nhau ở các chủng tộc. Cụ thể 
là alen C chiếm 42,4% ở người da trắng, 72,4% 
ở người Mỹ gốc Phi, 40,1% ở người gốc Latinh, 
51,6% ở người gốc Á và 41,5% ở người gốc Ấn 
Độ. Tuy nhiên kết quả về đáp ứng điều trị của 
nghiên cứu này lại không ủng hộ mối liên quan 
của alen này với việc đáp ứng kiểm soát 
glucose máu của Metformin. Nghiên cứu mới 
đây vào năm 2014 của Zhou và cộng sự tiến 
hành trên quần thể người Hán tại Thượng Hải, 
Trung Quốc với 359 bệnh nhân mắc ĐTĐ type 
2 [10]. Kết quả nghiên cứu này cho thấy alen C 
chiếm 67,5% trong khi alen A chiếm 32,5%. 
Tần số phân bố của 3 kiểu gen lần lượt là 
44,5% CC, 46% CA và 9,5% AA. Kết quả này 
tương tự với một nghiên cứu trước với quần thể 
người Hán tại Bắc Kinh [10]. Các kết quả này 
gần tương tự với kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi nhất, cho thấy có sự tương đồng về phân bố 
alen và tần số kiểu gen trong nhóm quần thể 
người châu Á, khác với các nghiên cứu ở trên 
thực hiện trên nhóm quần thể Châu Âu và Châu 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 
58
Mỹ. Tuy nghiên cứu của chúng tôi thực hiện 
với cỡ mẫu còn hạn chế, nhưng đã đưa ra kết 
quả bước đầu khá tin cậy, từ đó có thể giúp 
định hướng cho các nghiên cứu với cỡ mẫu lớn 
hơn trong tương lai. Hiện nay, tại Việt Nam, 
liều dùng Metformin đang dao động trong 
khoảng 500-2000 mg/ngày. Tuy nhiên với liều 
cao, tác dụng giảm đường huyết không tăng 
nhiều, song tác dụng phụ sẽ nhiều hơn. Việc sử 
dụng thuốc cần thận trọng trong các trường hợp 
suy thận, bệnh nhân trên 80 tuổi [11]. Vì vậy, 
trong điều trị bệnh lý ĐTĐ type 2, việc xác định 
mức độ đáp ứng điều trị theo kiểu gen sẽ phục 
vụ tốt hơn trong thực tế lâm sàng, định hướng 
cho các bác sĩ đưa ra phác đồ điều trị phù hợp 
trên từng bệnh nhân. Tuy nhiên, để đánh giá rõ 
hơn vai trò của rs11212617 trong quần thể 
người Việt Nam, chúng tôi khuyến nghị mở 
rộng thực hiện các nghiên cứu tiếp theo đánh 
giá mối liên quan giữa các đa hình di truyền này 
với đáp ứng điều trị thuốc. 
Ngoài ra, một vài hướng nghiên cứu khác 
mở ra với đa hình di truyền này, như mối liên 
quan giữa gen ATM và SNP rs11212617 với 
bệnh lý tim mạch, đặc biệt là bệnh lý động 
mạch vành [12]. Đây là một trong những biến 
chứng thường gặp của bệnh ĐTĐ type 2, và 
trong một số trường hợp, điều trị kiểm soát 
đường huyết đơn thuần tỏ ra chưa hiệu quả 
trong việc làm giảm tỷ lệ mắc cũng như tử vong 
do biến chứng này gây ra. Nghiên cứu của 
Schiekofer và cộng sự năm 2014 thực hiện phân 
tích kiểu gen rs11212617 trên 240 bệnh nhân 
nam mắc bệnh lý động mạch vành [13]. Kết quả 
cho thấy alen A có liên quan đến bệnh lý động 
mạch vành, cụ thể là gia tăng gần gấp đôi số 
điểm nguy cơ cũng như số điểm tổn thương 
theo thang điểm Score và Gensini so với alen C 
(cả hai đều có p <0,05). Một nghiên cứu khác 
có nhóm chứng của Ding và cộng sự tiến hành 
trên quần thể người Hán tại Trung Quốc cũng 
cho thấy một đa hình di truyền khác thuộc gen 
ATM (rs189037 C > T) cũng liên quan đến tỷ lệ 
mắc bệnh động mạch vành, với kiểu gen TT 
làm giảm nguy cơ mắc và được xem như một 
marker di truyền với bệnh này, đặc biệt ở nam 
giới hút thuốc lá [14]. Bên cạnh đó, đột biến ở 
gen ATM còn ảnh hưởng đến nhiều tình trạng 
bệnh lý khác. Gen ATM có vai trò trong các 
hoạt động như sửa chữa DNA, điều hòa chu kỳ 
tế bào, miễn dịch, chuyển hóa, sinh sản và tuổi 
thọ con người [15]. Mặc dù chưa có phương 
pháp điều trị chắc chắn trong thời điểm hiện tại, 
nhưng liệu pháp gen sẽ là một hướng tiếp cận 
đầy tiềm năng trong tương lai, với nhiều nghiên 
cứu trên mô hình đang được thực hiện trong 
thời gian gần đây. Các nghiên cứu về đột biến 
gen ATM nói chung và đa hình di truyền 
rs11212617 nói riêng là một trong những bước 
đi khám phá về hoạt động chức năng cũng như 
liên kết của gen ATM, góp phần thúc đẩy cho 
những tiến bộ về liệu pháp gen tiến gần hơn 
nữa với ứng dụng điều trị thực tiễn. 
5. Kết luận 
Chúng tôi đã xây dựng được quy trình phân 
tích SNP rs11212617 trên mẫu máu và áp dụng 
thành công quy trình này phân tích gen trên 22 
bệnh nhân ĐTĐ type 2. Kết quả này sẽ giúp 
phát triển các nghiên cứu tiếp theo về SNP 
rs11212617 cũng như đột biến gen ATM, phục 
vụ cho các ứng dụng trong điều trị lâm sàng. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự tài trợ của 
Đại học Quốc gia Hà Nội cho đề tài mã số CS. 
17.05 và sự giúp đỡ của bác sĩ khoa Nội, Bệnh 
viện Dệt May để thực hiện nghiên cứu này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] World Health Organization, Global report on 
Diabetes. 2016: Geneva. 
[2] Bộ Y Tế (2015), Báo cáo tổng quan chung ngành 
Y tế năm 2014. Tăng cường dự phòng và kiểm soát 
bệnh không lây nhiễm, NXB Y học pp.138-175. 
[3] D.L. Kasper, S.L. Hause, A.S. Fauci, D.L. Longo, 
J.L. Jameson, and J. Loscaizo (2012), “Diabetes 
Mellitus: Diagnosis, classification and 
pathophysiology”, in Harrison's Principles of 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 59
Internal Medicine 19th Edition, D.L. Kasper, S.L. 
Hause, A.S. Fauci, D.L. Longo, J.L. Jameson, and 
J. Loscaizo, Editors, McGraw Hill Education, pp. 
2399-2407. 
[4] American Diabetes Association (2017), 
“Standards of medical care in diabetes - 2017”, 
Diabetes Care, 40 (Suppl 1). 
[5] S.F. University of California. Gene variant explains 
differences in diabetes drug response. ScienceDaily 
2016 [cited 21/10/2017]; Available from: 
https://www.sciencedaily.com/releases/2016/08/160
816134151.htm. 
[6] N. Van Leeuwen, G. Nijpels, M.L. Becker, H. 
Deshmukh, K. Zhou, et al. (2012), “A gene 
variant near ATM is significantly associated with 
metformin treatment response in type 2 diabetes: a 
replication and meta-analysis of five cohorts”, 
Diabetologia, 55(7), pp. 1971-1977. 
[7] K. Zhou, C. Bellenguez, C.C. Spencer, A.J. 
Bennett, R.L. Coleman, et al. (2011), “Common 
variants near ATM are associated with glycemic 
response to metformin in type 2 diabetes”, Nature 
genetics, 43(2), pp. 117-120. 
[8] F. Shokri, H. Ghaedi, S. Ghafouri Fard, A. 
Movafagh, S. Abediankenari, A. Mahrooz, Z. 
Kashi, and M.D. Omrani (2016), “Impact of ATM 
and SLC22A1 Polymorphisms on Therapeutic 
Response to Metformin in Iranian Diabetic 
Patients”, International Journal of Molecular and 
Cellular Medicine, 5(1), pp. 1-7. 
[9] J.C. Florez, K.A. Jablonski, A. Taylor, K. Mather, 
E. Horton, N.H. White, E. Barrett-Connor, W.C. 
Knowler, A.R. Shuldiner, T.I. Pollin, and 
D.P.P.R. Group (2012), “The C allele of ATM 
rs11212617 does not associate with metformin 
response in the Diabetes Prevention Program”, 
Diabetes Care, 35(9), pp. 1864-1867. 
[10] Y. Zhou, Y. Guo, W. Ye, Y. Wang, X. Li, Y. 
Tian, Z. Liu, S. Li, and J. Yan (2014), 
“RS11212617 is associated with metformin 
treatment response in type 2 diabetes in Shanghai 
local Chinese population”, International Journal of 
Clinical Practice, 68(12), pp. 1462-1466. 
[11] Bộ Y Tế (2017), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị 
đái tháo đường týp 2, NXB Y học pp.1-17. 
[12] Y. Espach, A. Lochner, H. Strijdom, and B. 
Huisamen (2015), “ATM protein kinase signaling, 
type 2 diabetes and cardiovascular disease”, 
Cardiovascular Drugs and Therapy, 29(1), pp. 51-58. 
[13] S. Schiekofer, I. Bobak, M.E. Kleber, W. Maerz, 
G. Rudofsky, K.A. Dugi, and J.G. Schneider 
(2014), “Association between a gene variant near 
ataxia telangiectasia mutated and coronary artery 
disease in men”, Diabetes and Vascular Disease 
Research, 11(1), pp. 60-63. 
[14] X. Ding, Y. He, Q. Hao, S. Chen, M. Yang, S.X. 
Leng, J. Yue, and B. Dong (2018), “The association 
of single nucleotide polymorphism rs189037C>T in 
ATM gene with coronary artery disease in Chinese 
Han populations”, Medicine, 97(4). 
[15] M.W. Chaudhary and R.S. Al-Baradie (2014), 
“Ataxia-telangiectasia: future prospects”, The 
Application of Clinical Genetics, 7, pp. 159-167. 
Establishing the Protocol for Detecting rs11212617 
Polymorphism Related to Metformin Response 
in Type 2 Diabetic Patients 
Nguyen Thi Thuy Mau1, Pham Thi Hong Nhung1, Do Thi Le Hang1, 
Phi Thi Tu Anh1, Vu Thi Thom1, Pham Thi Quan2 
1VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2Hanoi Medical University, 1 Ton That Tung, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
Abstract: Metformin is currently recommended as a first-line drug for treatment of 
hyperglycemia in patients with type 2 diabetes. Nevertheless, the drug’s treatment effect is not 
uniform in all patients. The recent studies have indicated that the single-nucleotide polymorphism 
(SNP) rs11212617 (C>A) (11q22.3), located near the ataxia telangiectasia mutated (ATM) gene, is 
N.T.T. Mậu và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 1 (2018) 54-60 
60
associated with Metformin treatment response, in which, allele C is better than allele A. Therefore, an 
SNP detecting protocol for a group of Vietnamese type 2 diabetic patients was to be established. The 
DNA, PCR and sequencing-extracted blood samples were applied to identify rs11212617 
polymorphism among 22 Vietnamese patients. Out of the 22 patients genotyped for rs11212617 
polymorphism, CC and AA were the homozygous genotypes with frequency of 54.5% and 13.7%, 
respectively. 31.8% of the patients had heterozygous genotype CA. The frequencies of allele C and 
allele A were 0.71 and 0.29, respectively. This result is expected to help develop further studies aimed 
to evaluate the association between genetic polymorphism with clinically drug response in Vietnamese 
population and thereby, improving the effectiveness of treatment. 
Keywords: Single nucleotide polymorphism, rs11212617, ATM gene, metformin, type 2 diabetes. 
kkkkk 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_quy_trinh_phan_tich_da_hinh_rs11212617_lien_quan_de.pdf