Kiến thức, thái độ của học sinh điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng

TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ học sinh có kiến thức, thái độ đúng về tự chăm sóc răng miệng; và xác định mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của học sinh Điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng với đặc điểm dân số xã hội và thói quen chăm sóc răng miệng (CSRM). Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. Kết quả: Tỷ lệ học sinh Điều dưỡng có kiến thức đúng về CSRM chưa cao (về chải răng: 28,2%; về khám răng định kỳ: 36,7%; về fluoride: 4,7%; về các bệnh liên quan đến vệ sinh răng miệng: 7,7%). Tuy nhiên 55,9% học sinh Điều dưỡng có thái độ CSRM tốt. Học sinh có kiến thức đúng về CSRM có tỷ lệ thái độ tốt (70,8%) cao hơn so với học sinh có kiến thức chưa đúng (50,0%) (p = 0,01). Kết luận: Trong nghiên cứu này, kiến thức về tự CSRM của học sinh Điều dưỡng trường trung cấp Bách Khoa Sài Gòn ở mức tương đối thấp trong khi thái độ về tự CSRM lại khá tốt. Nghiên cứu cũng ghi nhận có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức về chải răng và khối lớp, nghề nghiệp của mẹ, tần suất chải răng, thói quen khám răng định kỳ, thái độ về tự CSRM

pdf 6 trang yennguyen 1320
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thái độ của học sinh điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ của học sinh điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng

Kiến thức, thái độ của học sinh điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 126
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ CỦA HỌC SINH ĐIỀU DƯỠNG 
VỀ TỰ CHĂM SÓC RĂNG MIỆNG 
Trần Thị Bích Thủy*, Hoàng Đạo Bảo Trâm**, Jane Dimmitt Champion*** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ học sinh có kiến thức, thái độ đúng về tự chăm sóc răng miệng; và xác 
định mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của học sinh Điều dưỡng về tự chăm sóc răng miệng với đặc điểm 
dân số xã hội và thói quen chăm sóc răng miệng (CSRM). 
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả. 
Kết quả: Tỷ lệ học sinh Điều dưỡng có kiến thức đúng về CSRM chưa cao (về chải răng: 28,2%; về khám 
răng định kỳ: 36,7%; về fluoride: 4,7%; về các bệnh liên quan đến vệ sinh răng miệng: 7,7%). Tuy nhiên 55,9% 
học sinh Điều dưỡng có thái độ CSRM tốt. Học sinh có kiến thức đúng về CSRM có tỷ lệ thái độ tốt (70,8%) cao 
hơn so với học sinh có kiến thức chưa đúng (50,0%) (p = 0,01). 
Kết luận: Trong nghiên cứu này, kiến thức về tự CSRM của học sinh Điều dưỡng trường trung cấp Bách 
Khoa Sài Gòn ở mức tương đối thấp trong khi thái độ về tự CSRM lại khá tốt. Nghiên cứu cũng ghi nhận có mối 
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức về chải răng và khối lớp, nghề nghiệp của mẹ, tần suất chải răng, thói 
quen khám răng định kỳ, thái độ về tự CSRM. 
Từ khóa: tự chăm sóc răng miệng, học sinh Điều dưỡng. 
ABSTRACT 
KNOWLEDGE AND ATTITUDE ABOUT ORAL SELF CARE OF NURSING STUDENT 
Tran Thi Bich Thuy, Hoang Dao Bao Tram, Jane Dimmitt Champion 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 126 - 131 
Objective: The objective of this study was to define the percentage of nursing studentshaving adequate 
knowledge and good attitude about oral self care. This study also determined the relationship between knowledge, 
attitude of nursing students about oral self care and the social demographic characteristics, dental care habits. 
Method: Cross-sectional correlation descriptive study design. 
Results: The percentage of nursing student withadequate knowledge about oral self care was not high (about 
brushing: 28.2%; about regular dental exam: 36.7%; about fluoride: 4.7%; about diseases related to oral hygiene: 
7.7%). Nursing student’s attitude about oral self care was pretty good, up to 55.9% of students had good attitude. 
The rate of students with good attitude in the group of students with adequate knowledge was significantly higher 
about brushing than in the group with inadequate knowledge (p<0.001). 
Conclusion: Nursing students at Saigon Polytechnic Collegehad relatively shallow knowledge while their 
attitude was pretty good. There was a statistically significant association between knowledge about brushing 
and grade of class, major of mother, frequency of brushing, habit on regular dental exam and attitude about 
oral care. 
Key words: oral self care, nursing student. 
* Đại học Quốc tế Hồng Bàng, Thành phố Hồ Chí Minh 
** Bộ môn NKCS- Khoa RHM, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh 
*** Friendship Bridge Group - Đại học Texas, Austin - Hoa Kỳ 
Tác giả liên lạc: ThS Trần Thị Bích Thủy ĐT: 0908500412 Email: bluewaterbt@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 127
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh răng miệng không những ảnh hưởng 
đến chất lượng cuộc sống của cá nhân mà còn 
là gánh nặng kinh tế rất lớn đối với hệ thống Y 
tế quốc gia và toàn cầu(7). Để ngăn ngừa và giải 
quyết có hiệu quả các bệnh răng miệng, bên 
cạnh việc cần đi khám răng định kỳ và điều trị 
sớm, việc chăm sóc răng miệng đúng là biện 
pháp khá hiệu quả để giúp ngăn ngừa các 
bệnh răng miệng(5). Để có thể tự chăm sóc răng 
miệng đúng cách, kiến thức và thái độ của cá 
nhân về tự chăm sóc răng miệng có vai trò 
quan trọng(1,4). Nhiều nghiên cứu khảo sát kiến 
thức, thái độ về chăm sóc răng miệng trên các 
nhóm đối tượng khác nhau đã được tiến hành 
tại Việt Nam và ở thành phố Hồ Chí Minh. 
Trong đó, một số nghiên cứu thực hiện trên 
đối tượng học sinh - sinh viên(2,3,8). Kết quả của 
các nghiên cứu này là cơ sở để xây dựng và 
hoàn thiện các biện pháp nhằm nâng cao ý 
thức và khả năng tự chăm sóc sức khỏe răng 
miệng của cá thể và cộng đồng. Nghiên cứu 
này được thực hiện nhằm: (1) xác định tỷ lệ học 
sinh Điều dưỡng trường trung cấp Bách Khoa Sài 
Gòn có kiến thức đúng, thái độ đúng về tự CSRM; 
(2) xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ 
của học sinh Điều dưỡng về tự CSRM với đặc 
điểm dân số, kinh tế, xã hội và thói quen CSRM. 
Kết quả nghiên cứu có thể là cơ sở để hoàn 
thiện các chương trình giáo dục sức khỏe răng 
miệng tại trường, hướng đến xây dựng thái 
độ, thói quen và hành vi tự CSRM tích cực 
trên một đối tượng có tác động quan trọng 
trong hoạt động chăm sóc sức khỏe của người 
bệnh và cộng đồng. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 
đối tượng nghiên cứu là học sinh trung cấp Điều 
dưỡng đang học năm thứ nhất và năm thứ hai 
tại trường Trung cấp Bách khoa Sài Gòn năm 
học 2012-2013. 
Kỹ thuật chọn mẫu 
Lấy mẫu toàn bộ học sinh năm thứ nhất và 
năm thứ hai đang học tại trường Trung cấp Bách 
Khoa Sài Gòn, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Công cụ thu thập số liệu 
Bộ câu hỏi tự điền được sử dụng để thu 
thập những thông tin chung về đặc điểm dân 
số, kinh tế, xã hội, thói quen chăm sóc răng 
miệng, kiến thức và thái độ về CSRM của đối 
tượng nghiên cứu. 
Xử lý và phân tích số liệu 
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 
12.0. Các biến không liên tục như đặc tính của 
mẫu nghiên cứu, kiến thức đúng về tự chăm sóc 
răng miệng của học sinh, thái độ đúng về tự 
CSRM được trình bày dưới dạng tần số và tỷ lệ 
(%). Kiểm định sự khác biệt giữa hai tỷ lệ bằng 
phép kiểm Chi bình phương hoặc Fisher’s exact. 
KẾT QUẢ 
Đặc điểm mẫu nghiên cứu 
Mẫu thu được gồm 170 học sinh Điều 
dưỡng đang học năm thứ nhất và năm thứ hai 
tại trường Trung cấp Bách Khoa Sài Gòn; 
trong đó, học sinh năm thứ nhất chiếm 25,9%, 
học sinh năm thứ hai chiếm 74,1%. Học sinh 
tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ 19-38 tuổi, 
tuổi trung bình là 22,58±3,47. Dân số nghiên 
cứu có tỷ lệ nữ cao gấp 5 lần tỷ lệ nam (82,9% 
nữ và 17,1% nam). Về nghề nghiệp của cha mẹ 
học sinh, đa số phụ huynh là nông dân, chiếm 
65,3% ở cha và 57,4% ở mẹ. 
Kiến thức về tự CSRM của học sinh Điều 
dưỡng 
Bảng 1: Phân bố học sinh theo kiến thức đúng về 
CSRM (n=170) 
Kiến thức về CSRM Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Về chải răng 48 28,2 
Về khám răng định kỳ 62 36,7 
Về fluoride 8 4,7 
Về các bệnh liên quan đến VSRM 13 7,7 
Đối với kiến thức về chải răng, hơn một 
phần hai số học sinh được khảo sát có kiến thức 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 128
đúng về thời điểm chải răng (57,1%), thời gian 
mỗi lần chải răng (55,3%), thời gian thay bàn chải 
đánh răng (51,8%), và lợi ích của việc chải răng 
đúng cách (57,7%). Khi khảo sát về phương pháp 
chải răng, số học sinh lựa chọn phương pháp 
Bass là 47,1%. Tỷ lệ học sinh có kiến thức chung 
đúng về chải răng là 28,2%. 
Về yếu tố khám răng định kỳ, 59,4% học sinh 
xác định cần khám răng định kỳ ≤12 tháng/lần; 
11,2% học sinh cho rằng chỉ nên khám răng khi 
có vấn đề về răng miệng; 2,9% học sinh hoàn 
toàn không biết khi nào nên khám răng định kỳ. 
Tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về khám răng 
định kỳ là 36,7%. 
Về kiến thức trong việc sử dụng và tác dụng 
của fluoride đối với sức khỏe răng miệng, có 
50,6% học sinh có kiến thức về tác dụng của 
fluoride. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh biết được cả 
ba biện pháp bổ sung fluoride chỉ đạt ở mức 
9,4%, đa số học sinh chỉ biết biện pháp bổ sung 
fluoride bằng kem đánh răng có chứa fluoride 
(93,5%). Tổng số học sinh có kiến thức đúng về 
fluoride chỉ chiếm 4,7%. 
Hầu hết các học sinh đều biết cần làm gì khi 
bị sâu răng (85,3%), nhưng tỷ lệ học sinh có kiến 
thức về nguyên nhân gây sâu răng thì rất thấp, 
chiếm khoảng 14,7%. Nhìn chung, kiến thức của 
học sinh về các bệnh liên quan đến VSRM chưa 
tốt, chỉ 7,7% học sinh có kiến thức đúng về vấn 
đề này. 
Thái độ về tự CSRM của học sinh Điều 
dưỡng 
Trong mẫu nghiên cứu, chỉ có một học 
sinh (0,6%) không cho rằng CSRSM là rất quan 
trọng, còn lại 169/170 học sinh (99,4%) đều 
đồng ý rằng việc CSRM là rất quan trọng. 
“Dành nhiều thời gian cho việc chải răng là cần 
thiết” là ý kiến mà ít học sinh đồng ý nhất, chỉ 
chiếm 31,8%. Tỷ lệ học sinh có thái độ tốt về 
CSRM là 55,9%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ học 
sinh có kiến thức đúng về CSRM. 
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM với 
các đặc điểm dân số, kinh tế, xã hội, thói 
quen CSRM 
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM và đặc 
điểm dân số xã hội 
Bảng 2: Kiến thức về chải răng theo đặc điểm dân số 
xã hội (n=170) 
Đặc điểm xã 
hội 
Kiến thức về chải 
răng 
P 
PR 
(KTC 95%) Chưa đúng 
n (%) 
Đúng 
n (%) 
Năm học 
Năm thứ nhất 
Năm thứ hai 
24 (54,5) 
98 (77,8) 
20 (45,5) 
28 (22,2) 0,002 
1 
0,49(0,31-0,78)
N/nghiệp mẹ 
Nông dân 
Nội trợ 
Nghề khác 
75 (77,3) 
19 (59,4) 
27 (67,5) 
22 (22,7) 
13 (40,6) 
13 (32,5) 
0,04 
0,22 
1 
1,79(1,02-3,13)
1,43(0,80-2,56)
Tỷ lệ học sinh năm thứ nhất có kiến thức 
đúng về chải răng cao hơn hẳn so với học sinh 
năm thứ hai (p<0,01). Học sinh có mẹ làm nội trợ 
có tỷ lệ kiến thức đúng gấp 1,79 lần (KTC 95%: 
1,02-3,13) so với học sinh có mẹ là nông dân, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). 
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM và thói 
quen CSRM 
Bảng 3: Kiến thức về chải răng theo thói quen CSRM 
(n=170) 
Thói quen CSRM 
Kiến thức về chải răng 
p Chưa đúng 
n (%) 
Đúng 
n (%) 
Tần suất chải răng 
<3 lần/ngày 
≥3 lần/ngày 
96 (81,4) 
26 (50,0) 
22 (18,6) 
26 (50,0) 
<0,001 
Khám răng định kỳ 
Có 
Không 
10 (41,7) 
112 (76,7) 
14 (58,3) 
34 (23,3) 
<0,001 
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
tần suất chải răng và mức độ kiến thức về chải 
răng (p<0,001). Tỷ lệ kiến thức đúng ở nhóm 
học sinh có khám răng định kỳ (58,3%) cao 
gấp 2,5 lần so với nhóm học sinh không khám 
răng định kỳ (23,3%), sự khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p<0,001). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 129
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM và 
thái độ về CSRM 
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thái 
độ CSRM giữa hai nhóm học sinh có kiến thức 
đúng và chưa đúng về chải răng. Nhóm có kiến 
thức đúng về chải răng có tỷ lệ thái độ tốt 
(70,8%) cao hơn nhóm có kiến thức chưa đúng 
(50%) (p=0,01) 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu có mức độ phân bố về giới 
tính không cân bằng, trong đó tỷ lệ học sinh nữ 
gấp 5 lần tỷ lệ học sinh nam. Mức độ chênh lệch 
này cao hơn so với tỷ lệ phân bố về giới tính 
trong mẫu nghiên cứu của Trịnh Thị Tố Quyên 
(2,9 lần)(9). Sự chênh lệch về giới tính trong 
nghiên cứu này là do đặc điểm của ngành nghề 
mà đối tượng nghiên cứu đang theo học; nghiên 
cứu được tiến hành trên đối tượng là học sinh 
của ngành Điều dưỡng, một ngành mà xã hội 
Việt Nam quan niệm là phù hợp hơn cho giới 
nữ. Ngoài ra, có sự chênh lệch đáng kể về số 
lượng đối tượng nghiên cứu là học sinh năm thứ 
nhất và năm thứ hai, điều này phụ thuộc vào số 
lượng học sinh đang học tại trường. Tuy nhiên, 
sự chênh lệch này cũng dẫn đến những hạn chế 
khi phân tích so sánh các biến số nghiên cứu 
giữa hai đối tượng. 
Kiến thức về CSRM 
Về biện pháp chải răng, tỷ lệ học sinh có kiến 
thức về phương pháp Bass là 47,1%. Kết quả này 
cao hơn so với số liệu ghi nhận trong nghiên cứu 
của Tôn Nữ Hồng Vy(8), thực hiện trên đối tượng 
học sinh trung học cơ sở (10%), nhưng lại thấp 
hơn so với nghiên cứu của Cao Thị Kim Hoa 
(53%)(1) và Lê Thị Kim Oanh (91%)(2), khảo sát 
trên đối tượng học sinh tiểu học. Một trong các 
yếu tố ảnh hưởng có lẽ là do học sinh tiểu học là 
đối tượng được áp dụng chương trình nha học 
đường một cách khá đều đặn, do đó có thể các 
em sẽ duy trì được tốt về kiến thức chải răng. 
Cũng theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ học sinh đạt 
kiến thức chải răng đúng một cách toàn diện chỉ 
chiếm 28,2%, tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu 
của Tôn Nữ Hồng Vy (8%)(8). 
Khi khảo sát về kiến thức đối với việc cần 
khám răng định kỳ, tỷ lệ học sinh cho rằng cần 
khám răng định kỳ ≤12 tháng/lần là 59,4%, tỷ lệ 
này tương đương với kết quả nghiên cứu của 
Ling Zhu(10), thực hiện khảo sát trên đối tượng 
người Trung Quốc trưởng thành (61%). Có 
11,2% số học sinh cho rằng chỉ nên khám răng 
khi có vấn đề về răng miệng, và 2,9% học sinh 
không biết nên khám răng định kỳ khi nào. 
Tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về fluoride 
rất thấp (4,7%), thấp nhất trong cả bốn vấn đề 
kiến thức về chăm sóc răng miệng được khảo sát 
trong nghiên cứu. 
Về bệnh sâu răng, chỉ có 14,7% học sinh có 
kiến thức đúng về nguyên nhân gây sâu răng. 
Trong khi đó, có 41,8% học sinh biết được đường 
là một trong các yếu tố bất lợi liên quan đến 
nguy cơ sâu răng, tuy nhiên, kết quả này vẫn 
thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Ling 
Zhu. Trong nghiên cứu của tác giả này, tỷ lệ 
người Trung Quốc trưởng thành được khảo sát 
biết về mối liên quan giữa đường và bệnh sâu 
răng là 67%(10). Như vậy, có thể thấy đây cũng là 
một nội dung cần được lưu ý hơn trong chương 
trình giáo dục sức khỏe và chăm sóc răng miệng 
đối với đối tượng học sinh Điều dưỡng. 
Thái độ về CSRM 
Hầu hết học sinh đều cho rằng CSRM là 
rất quan trọng. Kết quả cũng khá phù hợp với 
đối tượng là những Điều dưỡng tương lai, 
những người phải chăm CSRM cho bản thân, 
gia đình và cả người bệnh. Khoảng 2/3 số học 
sinh sẵn sàng mua một bàn chải đánh răng 
đúng tiêu chuẩn với giá thành cao. Đây cũng 
là một điểm đáng khích lệ vì rất nhiều học 
sinh biết được tác dụng có lợi của một bàn 
chải đánh răng đúng tiêu chuẩn. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 130
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM với 
các đặc điểm dân số xã hội, thói quen 
CSRM 
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM và đặc 
điểm dân số, kinh tế, xã hội 
Kết quả khảo sát cho thấy, học sinh năm thứ 
nhất có kiến thức về chải răng tốt hơn học sinh 
năm thứ hai. Bên cạnh việc nâng cao kiến thức, 
việc duy trì một cách hiệu quả và luôn cập nhật 
kiến thức là rất cần thiết. Về nghề nghiệp của cha 
mẹ học sinh, kết quả khảo sát cho thấy không có 
sự khác biệt về kiến thức giữa các học sinh có 
cha làm các nghề nghiệp khác nhau, nhưng có 
mối liên quan giữa kiến thức về chải răng của 
học sinh với nghề nghiệp mẹ. Nghiên cứu tại 
Tehran năm 2005(6) cũng cho thấy rằng người mẹ 
có vai trò quan trọng trong hỗ trợ, tác động tích 
cực đến kiến thức và thực hành chăm sóc răng 
miệng của trẻ. Tuy nhiên, cần có những khảo sát 
ở mức độ chi tiết hơn để có thể đưa ra những kết 
luận liệu nghề nghiệp của cha/mẹ có ảnh hưởng 
như thế nào đến kiến thức và thái độ của con, cụ 
thể ở đây là trong lĩnh vực CSRM. 
Mối liên quan giữa kiến thức về CSRM và thói 
quen CSRM 
Nghiên cứu cho thấy có mối liên quan có ý 
nghĩa thống kê giữa kiến thức về chải răng và 
tần suất chải răng của học sinh. Kiến thức đúng 
là cơ sở dẫn đến hành động đúng. Một khi có 
kiến thức đúng, học sinh hướng tới thái độ tích 
cực, và thực hiện những hành vi có lợi cho sức 
khỏe. Trong nghiên cứu này, những học sinh 
chải răng ≥3 lần/ngày thể hiện có kiến thức về 
chải răng tốt hơn so với những học sinh chải 
răng 1-2 lần/ngày. Ở nhóm học sinh thực hiện 
khám răng định kỳ, tỷ lệ học sinh có kiến thức 
đúng về chải răng cũng cao hơn so với những 
học sinh không khám răng định kỳ. Một trong 
những lợi ích của khám răng định kỳ là được các 
nhân viên y tế tư vấn, giáo dục, cập nhật về kiến 
thức và các biện pháp CSRM, có lẽ đây là một 
trong các yếu tố góp phần lý giải mối liên quan 
giữa kiến thức về chải răng và thói quen khám 
răng định kỳ. 
Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ về 
CSRM 
Nhóm học sinh có kiến thức đúng về chải 
răng có tỷ lệ thái độ tốt cao hơn nhóm có kiến 
thức chưa đúng. Kết quả cho thấy sự cần thiết và 
tác dụng của các chương trình giáo dục về 
CSRM trong việc cải thiện thái độ và hành vi của 
cá nhân và cộng đồng. 
KẾT LUẬN 
Kết quả khảo sát về kiến thức, thái độ về tự 
chăm sóc răng miệng trên 170 học sinh Điều 
dưỡng đang học tại trường Trung cấp Bách 
Khoa Sài Gòn cho phép đưa ra các kết luận sau: 
-Tỷ lệ học sinh có kiến thức đúng về: chải 
răng là 28,2%; khám răng định kỳ là 36,7%; về 
fluoride và sức khỏe răng miệng là 4,7%; về các 
bệnh răng miệng liên quan đến VSRM là 7,7%. 
-Tỷ lệ học sinh có thái độ tốt về chăm sóc 
răng miệng là 55,9%. 
-Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa 
kiến thức về chải răng với nghề nghiệp mẹ, tần 
suất chải răng, thói quen khám răng định kỳ và 
thái độ về CSRM. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cao Thị Kim Hoa (2006). Kiến thức, thái độ, thực hành về chăm 
sóc sức khỏe răng miệng của học sinh lớp 4 và lớp 5 trường tiểu 
học Nguyễn Chí Thanh - Quận 10 - Tp. Hồ Chí Minh. Y học TP. 
Hồ Chí Minh,3(5):37-39. 
2. Lê Thị Kim Oanh (2002). Khảo sát kiến thức và tình trạng vệ 
sinh răng miệng của học sinh tiểu học tỉnh Long An. Luận văn 
thạc sĩ Y học, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh, 29-34. 
3. Nguyễn Đức Duy (2005). Kiến thức, thái độ, thực hành về sức 
khỏe răng miệng của học sinh trung học cơ sở tại quận 2, quận 6 
TP. Hồ Chí Minh. Luận văn cử nhân, Khoa Y Tế Công Cộng, 
Đại học Y Dược TP. HCM, 13-26. 
4. Nguyễn Thị Cẩm Hồng (2011). Kiến thức, thái độ, hành vi chăm 
sóc sức khỏe răng miệng của học sinh trung học 12 và 15 tuổi tại 
quận 5, TP.Hồ Chí Minh. Luận án Bác sỹ chuyên khoa II. Khoa 
Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh, 59-82. 
5. Petersen P.E. (2003). The World Oral Health Report 2003: 
continuous improvement of oral health in the 21st century - the 
approach of the WHO Global Oral Health Programme. 
Community Dentistry and Oral Epidemiology, 31(1):3-24. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 131
6. Saied-Moallemi Z. et al. (2008). Mothers as facilitators of 
preadolescents' oral self-care and oral health. Oral Health Prev 
Dent, 6(4):7-27. 
7. Tanwir F. (2008). Absence of toothache syndrome oral health 
and treatment needs among urban Pakistanis. Karolinska 
Institute, 3(2):46-53. 
8. Tôn Nữ Hồng Vy và cộng sự (2010). Kiến thức, thái độ, thực 
hành về vệ sinh răng miệng của học sinh THCS tại thị trấn Diên 
Khánh, tỉnh Khánh Hòa năm 2008. Y học TP. Hồ Chí Minh, 
14(1):1-9. 
9. Trịnh Thị Tố Quyên (2011). Tình trạng sức khỏe răng miệng và 
mối liên quan với chất lượng cuộc sông của sinh viên Đại học 
Sài Gòn, Tp.Hồ Chí Minh. Luận án Bác sỹ chuyên khoa II. Đại 
học Y Dược TP.Hồ Chí Minh. 
10. Zhu L. et al. (2005). Oral health knowledge attitude and 
behaviour of adults in China. Int Dent J,55(4):231-241. 
Ngày nhận bài báo: 04/01/2014 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/01/2014 
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014 

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thai_do_cua_hoc_sinh_dieu_duong_ve_tu_cham_soc_ran.pdf