Xây dựng xã hội học tập - Một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỉ XXI

Tóm tắt: Vào những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại

đã tạo ra những tiền đề quan trọng để nền kinh tế công nghiệp trên thế giới từng bước chuyển sang

nền kinh tế tri thức. Xu thế hội nhập quốc tế thông qua dòng chảy toàn cầu hóa đã lôi cuốn nhiều

quốc gia vào sân chơi hợp tác và cạnh tranh sôi động. Sự bùng nổ thông tin và việc sản xuất ra

những tri thức mới, những công nghệ mới cho thấy, những kiến thức được tiếp thu trong hệ giáo

dục ban đầu không thể sử dụng suốt đời, học vấn phổ thông không còn giúp cho con người đi

thẳng vào lao động sản xuất. Vấn đề đặt ra là, con người cần biết cách học xử lí thông tin thành tri

thức và phải học suốt đời để có thể đối mặt với sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ

trong một thế giới thay đổi vô cùng mau lẹ. Ở Việt Nam, trước xu thế phát triển giáo dục nói trên,

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 927/QĐ-TTg ngày 22/6/2010 về việc thành lập Ban

chỉ đạo quốc gia xã hội học tập giai đoạn 2011 - 2020 chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô

hình xã hội học tập (Nghị quyết Đại hội X của Đảng CSVN). Cần được hiểu xã hội học tập là nội

dung cốt lõi của chủ trương đổi mới giáo dục trong những năm trước mắt.

pdf 10 trang yennguyen 4800
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng xã hội học tập - Một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỉ XXI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng xã hội học tập - Một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỉ XXI

Xây dựng xã hội học tập - Một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỉ XXI
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 
57 
TRAO ĐỔI 
Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng 
đổi mới phát triển của giáo dục thế kỉ XXI 
Phạm Tất Dong** 
 Viện Nghiên cứu Xây dựng và Phát triển Xã hội học tập, 
Số 13, Trần Thái Tông, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 15 tháng 6 năm 2013 
Chỉnh sửa ngày 15 tháng 8 năm 2013; chấp nhận đăng ngày 22 tháng 10 năm 2013 
Tóm tắt: Vào những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại 
đã tạo ra những tiền đề quan trọng để nền kinh tế công nghiệp trên thế giới từng bước chuyển sang 
nền kinh tế tri thức. Xu thế hội nhập quốc tế thông qua dòng chảy toàn cầu hóa đã lôi cuốn nhiều 
quốc gia vào sân chơi hợp tác và cạnh tranh sôi động. Sự bùng nổ thông tin và việc sản xuất ra 
những tri thức mới, những công nghệ mới cho thấy, những kiến thức được tiếp thu trong hệ giáo 
dục ban đầu không thể sử dụng suốt đời, học vấn phổ thông không còn giúp cho con người đi 
thẳng vào lao động sản xuất. Vấn đề đặt ra là, con người cần biết cách học xử lí thông tin thành tri 
thức và phải học suốt đời để có thể đối mặt với sự phát triển vũ bão của khoa học và công nghệ 
trong một thế giới thay đổi vô cùng mau lẹ. Ở Việt Nam, trước xu thế phát triển giáo dục nói trên, 
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 927/QĐ-TTg ngày 22/6/2010 về việc thành lập Ban 
chỉ đạo quốc gia xã hội học tập giai đoạn 2011 - 2020 chuyển mô hình giáo dục hiện nay sang mô 
hình xã hội học tập (Nghị quyết Đại hội X của Đảng CSVN). Cần được hiểu xã hội học tập là nội 
dung cốt lõi của chủ trương đổi mới giáo dục trong những năm trước mắt. 
Từ khóa: Xã hội học tập; học tập suốt đời; kinh tế tri thức; xử lí thông tin thành tri thức; giáo dục 
ban đầu và giáo dục tiếp tục; cộng đồng học tập. 
1. Một ý tưởng mới về giáo dục* 
Xây dựng xã hội học tập hiện đang là một 
xu thế trên thế giới. Tại nhiều quốc gia, trong 
chủ trương đổi mới hay cải cách giáo dục của 
họ đều nói đến mục đích xây dựng một xã hội 
học tập. Vào phần cuối của thế kỉ XX, những ý 
______ 
*
 ĐT: 84-915868907 
 Email: phamtatdong@gmail.com 
tưởng về xây dựng một nền giáo dục đối mặt 
được với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng 
khoa học và công nghệ hiện đại, và do đó, đáp 
ứng được những vấn đề con người của nền kinh 
tế mới sẽ thay thế nền kinh tế công nghiệp, đã 
được Uỷ ban quốc tế về Giáo dục thế kỉ XXI do 
Jacquec Delors làm chủ tịch, nêu ra trong báo 
cáo: “Học tập: một kho báu tiềm ẩn” gửi lên 
UNESCO. Thế giới coi báo cáo này như một 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 58 
công bố quan trọng về một nền giáo dục lí 
tưởng trong tương lai. Báo cáo đã được Nhà 
xuất bản UNESCO ấn hành tháng 4/1996. 
Cốt lõi của ý tưởng về một xã hội học tập, 
trong đó việc học tập suốt đời là nội dung 
xuyên suốt, là phải có một nền giáo dục đáp 
ứng những thách thức của một thế giới thay đổi 
nhanh chóng, và để đạt điều này thì phải đưa 
con người trở lại nhà trường để ứng xử với 
những tình huống mới mẻ, nổi lên trong đời 
sống cá nhân hay đời sống nghề nghiệp của họ. 
Đây là việc làm cần thiết và hệ trọng, bởi không 
thể thỏa mãn được những yêu cầu của thế giới 
trong thế kỉ XXI nếu mỗi con người không học 
cách học. Jacquec Delors đã đánh giá thâm thúy 
về ý tưởng trên đây rằng, đó là một sự không 
tưởng cần thiết. 
Uỷ ban Quốc tế về Giáo dục thế kỉ XXI cho 
rằng, học tập suốt đời là một trong những chìa 
khóa mở cửa đi vào thế kỉ mới, coi học tập suốt 
đời là sức sống của xã hội tương lai. Thực hiện 
được việc học tập suốt đời là vấn đề rất khó bởi 
không dễ dàng gì vượt qua sự phân biệt truyền 
thống giữa giáo dục ban đầu với giáo dục tiếp 
tục. Sự phân biệt “lỗi thời” này đã không tạo ra 
được những cơ hội để giáo dục bám sát từng 
thời kì lứa tuổi của con người - từ lúc lọt lòng 
đến khi kết thúc sự sống. 
Điều mà Jacquec Delors coi là sự không 
tưởng cần thiết của giáo dục là làm cho con 
người học để chung sống. Cuối thế kỉ XX và 
trên một thập kỉ của thế kỉ XXI, nhân loại đang 
chứng kiến và hứng chịu hậu quả của các cuộc 
xung đột vũ trang, của chiến tranh cục bộ, của 
những cuộc đối đầu diễn ra liên tục, không tôn 
trọng cuộc sống của người khác bởi sự bất cần 
biết lịch sử, truyền thống và những giá trị tinh 
thần của mỗi quốc gia. Phải giải quyết thông 
minh và hòa bình những mâu thuẫn, những 
xung đột đã xảy ra, và nếu coi như đây là không 
tưởng thì cần hiểu là một không tưởng hết sức 
cần thiết, trước hết là một ý tưởng, là một tinh 
thần mới, và tiếp đến là những hành động hiện 
thực hóa ý tưởng đó. Nếu không, loài người cứ 
luẩn quẩn trong vòng nguy hiểm, bất lực trong 
việc thiết lập một nền hòa bình vĩnh hằng. 
Năm 1972, Edgar Faure công bố tác phẩm: 
“Học để làm người. Thế giới giáo dục ngày nay 
và ngày mai”. Theo Edgar Faure làm người, tức 
là trở thành nhân cách, phải có những phẩm 
chất cơ bản; năng lực tự chủ, sự xét đoán thông 
minh và trách nhiệm cao của cá nhân trong việc 
cùng người khác, cùng cộng đồng phấn đầu để 
có được một xã hội học tập, trong đó, không 
một tài năng nào bị gạt bỏ. Tài năng của con 
người phải được coi như một kho báu tiềm ẩn 
trong mỗi người mà loài người phải khai thác 
triệt để. 
Một ý tưởng khác của Uỷ ban Quốc tế về 
Giáo dục thế kỉ XXI là xã hội học tập giúp cho 
con người cập nhật và ứng dụng thông tin, có 
khả năng thu thập, chọn lọc, xắp xếp, quản lí và 
sử dụng thông tin, biến thông tin thành tri thức 
của mình. 
Nền giáo dục hiện nay bắt đầu bộc lộ những 
bất cập trước sự phát triển của thế giới hiện đại. 
Muốn hay không, đến lúc này người ta phải xây 
dựng một nền giáo dục mới, đáp ứng 3 yêu cầu 
sau: 
- Trước hết, nền giáo dục mới phải có đủ các 
thiết chế giáo dục với các hình thức giáo dục cho 
bất cứ lứa tuổi nào, cho bất cứ trình độ học vấn và 
trình độ nghề nghiệp nào, thực hiện dạy và học 
trong bất cứ thời gian và không gian nào. 
- Thực hiện giáo dục cho mọi người theo 
đúng tinh thần “giáo dục của dân, do dân, vì 
dân”, ai cũng được học hành, không ai bị thải 
loại ra khỏi giáo dục, không ai bị thất bại trong 
giáo dục học đường. 
- Con người có nghĩa vụ học suốt đời. 
Một xã hội có được hệ thống như vậy được 
gọi là xã hội học tập. Xã hội học tập được xây 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 59 
dựng để góp phần thực hiện lí tưởng cao đẹp 
của nhân loại thế kỉ XXI. Lí tưởng đó là: 
- Có được một thế giới thống nhất và hài hòa. 
- Có một xã hội đoàn kết trên cơ sở một nền 
hòa bình vĩnh hằng. 
- Con người được phát triển mọi năng lực 
sẵn có trong họ. 
Để mỗi người đều có thể học tập suốt đời, 
có 3 nguyên tắc định hướng cho quá trình xây 
dựng xã hội học tập. 
Trước hết, cần coi trọng cả giáo dục thế hệ 
trẻ lẫn giáo dục người lớn. Không quan tâm tổ 
chức giáo dục người lớn thì không thể có được 
việc học tập suốt đời. Mặt khác, vừa coi trọng 
giáo dục chính quy, đồng thời không được coi 
nhẹ giáo dục không chính quy và phi chính quy. 
Trong giáo dục chính quy, việc tự học là rất 
quan trọng; trong giáo dục không chính quy và 
phi chính quy, tự học lại càng quan trọng. 
Cuối cùng, giáo dục học đường và giáo dục 
ngoài học đường phải được tôn trọng như 
nhau. Chỉ chú trọng tổ chức giáo dục học 
đường tức là đã bịt các con đường học tập và tự 
học của người lớn. 
2. Thế giới hiện đại bắt tay vào việc xây dựng 
xã hội học tập 
Công việc bắt đầu từ năm 1972 khi Ủy ban 
Quốc tế về Giáo dục thế kỉ XXI đưa ra ý tưởng 
về xã hội học tập. Báo cáo của Ủy ban với tiêu 
đề Học để tồn tại (Learning to be) đã có tác 
dụng lớn trong việc khắc phục dòng tư duy giáo 
dục cổ điển lúc bấy giờ và nhiều quốc gia thống 
nhất về những quan niệm sau: 
- Những tiến bộ nhanh của khoa học và 
công nghệ cũng như những thay đổi có gia tốc 
lớn của xã hội không cho phép bất cứ ai dừng 
lại việc học tập ở bất kỳ thời điểm nào trong 
cuộc sống của mình; 
- Giáo dục của mỗi quốc gia phải có thể chế 
buộc mọi người phải học tập, trước hết là người 
lớn. 
Ủy ban khuyến khích các quốc gia xây 
dựng nền giáo dục thế kỉ XXI hướng vào xã hội 
học tập. Hưởng ứng chủ trương này, một số 
quốc gia đã tổ chức lực lượng khoa học để khởi 
thảo những chính sách giáo dục, bao gồm cả 
việc xây dựng khung pháp lí để tạo điều kiện 
thuận lợi cho công cuộc xây dựng nền giáo dục 
mới theo tư tưởng giáo dục suốt đời và học tập 
suốt đời. 
Năm 1976, sau khi đưa ra báo cáo 
“Learning to be”, UNESCO đã cho biên soạn 
nhiều tài liệu để giải thích và cụ thể hóa tư 
tưởng “Xây dựng xã hội học tập”. 
Năm 1977, Hội đồng Canada thuộc 
UNESCO đã tổ chức thảo luận về xã hội học 
tập, sau đó cho xuất bản tài liệu “Học tập, cùng 
nhau, suốt đời” (Appendre, ensemble, tout au 
long de la vie). 
Năm 2000, Ủy ban Châu Âu ở Lisbone 
công bố “Bị vong lục về giáo dục và đào tạo 
suốt đời” làm cơ sở cho các quốc gia thành viên 
xây dựng nền giáo dục theo hướng tiếp cận với 
giáo dục suốt đời (gắn giáo dục với đào tạo 
thành thể thống nhất theo tinh thần tiến hành 
suốt đời). 
Năm 2002, Australia đưa ra chủ trương 
“Hướng tới nhận thức xã hội học tập”. 
EU đã cụ thể hóa chủ trương trong “Bị 
vong lục về giáo dục và đào tạo suốt đời” như 
sau: 
- Giới thiệu các mô hình xã hội học tập 
trong các nước thuộc EU, có tác dụng thuyết 
phục nhất là mô hình Thụy Điển. 
- Phát hành tài liệu “Học tập suốt đời - các 
thách đố” do Đại hội Mùa hè Châu Âu công bố. 
Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục các nước G8 
đã họp tại Tokyo (1-2/4/2000) chuẩn bị đệ trình 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 60 
Hội nghị Thượng đỉnh G8 họp ở Okinawa 
(Nhật Bản) cuối tháng 7/2000 đề án về giáo 
dục, trong đó có chủ trương xây dựng xã hội 
học tập và học tập suốt đời. 
Tháng 3/2000, các Nguyên thủ Quốc gia 
Hội đồng Châu Âu đã thống nhất về chiến lược 
xây dựng nền kinh tế dựa vào tri thức có khả 
năng cạnh tranh và năng động nhất thế giới của 
khu vực Châu Âu, trong đó coi tiếp cận giáo 
dục và đào tạo suốt đời là vấn đề then chốt để 
tạo ra nguồn lực cho chiến lược đó. 
Một số nước đã xây dựng Chính sách Quốc 
gia về giáo dục người lớn và đào tạo liên tục, 
quán triệt nguyên tắc giáo dục suốt đời như 
Canada, hoặc xây dựng và ban hành Luật Giáo 
dục mới như Luật Giáo dục suốt đời 1999 như 
Hàn Quốc, Luật thiết lập nền Giáo dục suốt đời 
1999 như Thái Lan. 
Bắt đầu từ năm 1999, nhiều quốc gia tập 
trung vào việc làm sáng tỏ nhận thức về giáo 
dục suốt đời và định hướng xây dựng những 
chính sách quốc gia cùng hành lang pháp lí để 
hiện thực hóa quan niệm này. Trước tiên là 
nhiều quốc gia đã xây dựng thể chế giáo dục và 
đào tạo suốt đời với tư cách là thể chế giáo dục 
người lớn. 
Quan niệm chủ yếu ở đây là, giáo dục 
không là hoạt động một lần đã đủ cho cả đời, 
không giới hạn trong vòng đầu của thời niên 
thiếu, mà là quá trình tiếp tục suốt cuộc đời. 
Bản thân cuộc sống là quá trình học tập liên tục 
và mỗi người cần có cơ hội riêng cho việc đi 
học tập thêm, kể cả học văn hóa lẫn học chuyên 
môn nghề nghiệp để đuổi kịp những thay đổi 
nhanh chóng về sản xuất, về kĩ thuật và công 
nghệ, giúp cho con người điều chỉnh hoạt động 
của mình cho phù hợp với hoàn cảnh riêng (kết 
hôn, làm cha mẹ, thay đổi chỗ ở, di chuyển 
nghề nghiệp, về hưu) Giáo dục suốt đời bao 
gồm cả việc học tập có mục đích và ngẫu nhiên 
của cả đời. 
Trong những năm đầu của thế kỉ XXI, 
nhiều nhà nghiên cứu chỉ đề cập tới ý tưởng 
“hướng tới xã hội học tập” (Towards a 
Learning Society). Họ cho rằng, lúc này, xã hội 
học tập chưa thể trở thành một thực thể giáo 
dục, mà còn đang một quan niệm “mở”, cần 
vận dụng uyển chuyển để đổi mới (Renovation) 
hoặc cải cách (Reforme) đối với nền giáo dục 
hiện có, trước hết là giáo dục người lớn. Ý 
tưởng này tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi bộ 
mặt giáo dục thế giới ở các trình độ đào tạo, mà 
rõ nét nhất là trình độ đào tạo đại học. Đó là xu 
thế giáo dục đại học cho số đông với sự thực 
hiện đa dạng hóa về phương diện tổ chức và 
phân tầng trình độ giáo dục đại học, mở rộng 
giáo dục đại học từ xa, giáo dục đại học xuyên 
biên giới, giáo dục đại học vừa học vừa làm. Từ 
đó bùng nổ số lượng sinh viên và những cơ sở 
giáo dục đại học. 
Đổi mới hay cải cách giáo dục hướng tới 
xây dựng xã hội học tập đòi hỏi từ đầu sự cải 
cách nội dung học tập. Công việc này dẫn đến 
đổi mới nội dung từng môn học và hình thành 
những môn học mới, gọi là những môn học ở 
thế kỉ XXI (gọi tắt là “môn học thế kỉ XXI”). 
- Môn học thế kỉ XXI không mang nội dung 
truyền thống, nó loại bỏ những kiến thức không 
cần dùng đến trong cuộc sống làm hao tổn một 
cách vô ích những tinh lực của trẻ nhỏ và của 
người học. 
- Thông qua môn học, người dạy dự đoán 
hướng phát triển của người học chứ không chỉ 
đánh giá những gì mà người học dựa vào trí 
nhớ để có được. Trí nhớ vô dụng không phải là 
hiểu biết.
- Môn học thế kỉ XXI mang lại cho con người 
sự biết, tức là tri thức, chứ không phải là hệ thống 
kiến thức bất biến, ổn định và tuyệt đối. 
- Khi dạy học các môn học thế kỉ XXI 
người dạy không hành nghề và giảng giải theo 
truyền thống, mà hợp tác với học sinh tiến vào 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 61 
xã hội tương lai, chuẩn bị cho học sinh những 
vai trò trong tương lai, hướng vào xây dựng 
một xã hội ngày mai tốt đẹp và hợp lí. 
Hưởng ứng chủ trương của Uỷ ban Quốc tế 
giáo dục thế kỉ XXI, nhiều quốc gia đã có 
những việc làm cụ thể trong việc hướng nền 
giáo dục của mình vào mô hình xã hội học tập 
thông qua quá trình đổi mới hoặc cải cách nền 
giáo dục hiện tại đang mất dần tính thích ứng 
với những đổi thay nhanh chóng của thế giới, 
nhất là với sự xuất hiện kinh tế tri thức. Song, 
hầu như họ rất thận trọng trong việc xác định, 
mức độ cần đạt. Hầu như các quốc gia thường 
nói đến ý tưởng hướng tới một xã hội học tập 
hoặc xây dựng một xã hội học tập của ngày 
mai. Họ thấy rằng, thiết lập hệ thống học tập 
suốt đời hoặc xây dựng xã hội học tập sẽ khó 
lòng thành công nếu chỉ bằng sự nỗ lực của 
chính quyền quốc gia. Do đó, việc lựa chọn 
cách làm là dựa vào sức mạnh cộng đồng và 
chọn địa bàn hợp lí. 
Trước vấn đề này, người ta xây dựng xã hội 
học tập trên một khu vực địa lí hoặc một địa 
phương nào đó. Cuối cùng thì tổ chức OECD 
(Hirsch, 1993), rồi đến Duke (2010), Doukar 
(2010), UNDP (2010) khẳng định chọn địa bàn 
thí điểm là đô thị, hơn nữa, đô thị ở đây là 
thành phố chứ không phải là thị trấn, thị xã. 
Lí do chủ yếu chọn thành phố làm địa bàn 
đó xây dựng xã hội học tập là: 
- Trong điều kiện làm thử (thí điểm), chọn 
thành phố bởi nó tạo ra bối cảnh thuận lợi hơn 
so với khu vực nông thôn trong việc giải quyết 
nhiều vấn đề xã hội và môi trường. 
- Tại thành phố, việc thực hiện các chương 
trình giáo dục, y tế, văn hóa, dịch vụthường 
hiệu quả hơn so với các khu vực có mật độ dân 
cư thấp hơn. 
- Thành phố là nơi huy động sự tham gia 
của xã hội, tranh thủ các nguồn lực vào sự 
nghiệp xã hội học tập  ... cho rằng, thành phố là một thực 
thể địa lí có ý nghĩa nhất đối với việc tổ chức quá 
trình học tập suốt đời. Báo cáo nêu lên sáng kiến 
xây dựng thành phố học tập và từ đó, các nước 
thành viên OECD bắt đầu dùng thuật ngữ thành 
phố học tập thay tên gọi thành phố giáo dục. 
- Năm 1996, khi UNESCO xuất bản Báo 
cáo Học tập: một kho báu tiềm ẩn của Jacques 
Delors thì OECD cho in Báo cáo “Học tập suốt 
đời cho mọi người”. Cũng trong năm 1996, 
Liên minh Châu Âu (EU) tuyên bố lấy năm này 
làm Năm Châu Âu về học tập suốt đời. 
- Năm 1990, Liên minh Châu Âu cho triển 
khai Sáng kiến học tập suốt đời của Châu Âu: 
(ELLI) và Chương trình Hướng tới một xã hội 
học tập của Châu Âu (TELS) từ năm 1998 đến 
năm 2000. 
Sáng kiến ELLI đã phác thảo những đặc điểm 
cơ bản của thành phố học tập và khảo sát tiến 
trình phát triển của 80 thành phố ở Châu Âu. 
Chương trình TELS thì xây dựng bộ công 
cụ toàn diện để từ đó xác định các chỉ số về 
thành phố học tập. 
Đến đây, định nghĩa về thành phố học tập 
được diễn đạt như sau: 
“Một cộng đồng học tập là một thành phố, 
thị xã hoặc vùng mà ở đó huy động được mọi 
nguồn lực trong mọi thành phần của nó nhằm 
phát triển, làm giàu thêm tiềm năng con người 
để nuôi dưỡng sự phát triển cá nhân, duy trì sự 
gắn kết xã hội và tạo ra sự thịnh vượng”. 
Việc quảng bá ý tưởng xây dựng thành phố 
học tập là cần, nhưng xây dựng các bộ tiêu chí 
cho các thành phần trong cấu trúc của thành 
phố học tập còn cần hơn. Đây là vấn đề mở, 
nghĩa là chưa có được bộ tiêu chí chung được 
các quốc gia chấp nhận. 
Trên thực tế, tình hình xây dựng thành phố 
học tập ở một số quốc gia như sau: 
● Vương quốc Anh. Năm 1996, thành phố 
Liverpool tự nhận mình là thành phố học tập. 
Sau đó, đã có gần 80 thành phố hoặc vùng tham 
gia vào phong trào, tạo nên Mạng lưới các cộng 
động học tập. Năm 1998, thành phố 
Southampton đã tổ chức Hội nghị Châu Âu về 
thành phố học tập. 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 63 
● Cộng hòa Liên bang Đức. Quốc gia này 
xây dựng một Chương trình quốc gia Các vùng 
học tập-Cung cấp sự hỗ trợ cho các mạng lưới 
(2001). Chương trình đã hỗ trợ cho 70 vùng, 
kinh phí lấy từ Bộ Giáo dục và Nghiên cứu 
Liên bang Đức và Quỹ xã hội của Châu Âu. 
Một Hiệp hội các vùng học tập của Đức (LRD) 
được thành lập. Thinesse-Demel (2010) cho 
rằng, những hệ thống giáo dục mới do Chương 
trình này thiết lập đã thay thế cơ cấu giáo dục 
lạc hậu trước đó. 
● Hy Lạp. Ở Hy lạp có Chương trình 
Polismet, trong đó các thành phố học tập, phát 
triển và văn hóa được Hiệp hội Giáo dục người 
lớn tổ chức với sự hợp tác của 5 thành phố. 
Theo Doukas (2010), Chương trình này dựa 
trên cơ sở coi học tập là một chiến lược để tăng 
cường nguồn tài sản của thành phố. 
● Canada. Năm 2003, Victoria đặt mục tiêu 
trở thành một Cộng đồng học tập dẫn đầu vào 
năm 2020. Thành phố Vancouver cũng hướng 
tới trở thành một thành phố học tập. 
Chiến lược của Vancouver đặc biệt chú 
trọng đến các cơ hội học tập cho những người 
và nhóm dân cư thiệt thòi. Các thành phố St 
John’s và Edmonton cũng đã nỗ lực để trở 
thành cộng đồng học tập. 
● Australia. Hiệp hội các thành phố học tập 
ở đây nhận được sự ủng hộ và tài trợ của chính 
quyền các bang. Chính quyền các địa phương 
có trên 5.000 cư dân đều mong muốn tham gia 
hiệp hội học tập và theo đuổi các chính sách của 
thành phố học tập (Longworth, 2006). Mục tiêu 
của chính quyền địa phương là quản lý tốt hệ 
thống dịch vụ học tập (giáo dục) của các cấp 
quản lý chính quyền (Duke, 2020). 
● Nhật Bản. Năm 1979, thành phố 
Kakegawa được công nhận là thành phố học tập 
đầu tiên của Nhật Bản. Việc học tập suốt đời ở 
Kakegawa là học tập liên tục và sử dụng những 
kiến thức có được cho sự phát triển cá nhân. 
Thành phố học tập suốt đời là một phần 
trong chính sách thúc đẩy học tập suốt đời 
trong các cộng đồng. Tác dụng tích cực của 
thành phố học tập suốt đời là mang lại sự đổi 
mới kinh tế trong bối cảnh kinh tế tri thức. Các 
nhà hoạt động chính trị cũng như các nhà lãnh 
đạo chính quyền ở Nhật Bản coi việc phát triển 
các thành phố học tập như một chương trình 
hành động quan trọng, do đó họ rất tích cực 
triển khai chương trình này (Choi, 2008). 
● Hàn Quốc. Luật Giáo dục suốt đời 
(1999) của Hàn Quốc có ghi: Chính phủ có thể 
chỉ định và hỗ trợ một số đô thị, quận, hạt để 
trở thành những thành phố học tập. Năm 2001, 
Hàn Quốc công nhận 3 thành phố đầu tiên là 
Thành phố học tập. Đến năm 2008, đã có 76 địa 
phương (gồm các khu đô thị, thành phố và một 
số hạt ở nông thôn) đạt danh hiệu Thành phố 
học tập. Như vậy, đến năm 2008, ở Hàn Quốc 
đã có 1/3 đô thị, thành phố và hạt hoàn thành 
việc xây dựng cộng đồng học tập theo Luật giáo 
dục suốt đời (Hàn Quốc có 234 địa phương 
gồm các đô thị, thành phố và hạt). Thành phố 
học tập ở Hàn Quốc không đơn thuần làm 
nhiệm vụ cung cấp cơ hội học tập cho người 
dân, mà quan trọng hơn là nó làm cho thành 
phố đó trở nên thông minh hơn. 
Cần lưu ý rằng, các quốc gia thuộc khối 
OECD và EU đã có những sáng kiến hay để xây 
dựng một các hiệu quả những thành phố học 
tập. Song, những quốc gia kém phát triển hơn 
các nước thành viên của OECD và EU vẫn có 
thể làm tốt chương trình xây dựng thành phố 
học tập. Ví dụ: 
● Nam Phi. Năm 2001, Western Cape - 
một trong 9 tỉnh của Nam Phi, đã bắt tay vào 
việc xây dựng một Cape học tập để tạo thành 
một chỗ dựa (trụ cột) cho việc phát triển kinh tế 
- xã hội ở địa phương. Trong Cape học tập, 
người ta kết nối các lĩnh vực giáo dục từ mẫu 
giáo đến đại học và sau đại học để tạo ra một 
biên độ lớn của việc học tập suốt đời. Mặt khác, 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 64 
Nam Phi lại có chính sách phát triển và thúc 
đẩy việc học tập suốt đời tại cộng đồng 
(Walters, 2009). 
● Trung Quốc. Trong giai đoạn 2002-2005, 
thành phố Bắc Kinh đã tham gia Dự án 
PALLACE do EU tài trợ. Bắc Kinh đã được 
chính phủ Trung Quốc đặt vào chương trình 
xây dựng thành phố học tập. Đến năm 2009, ở 
Trung Quốc đã có hơn 200 thành phố đặt ra 
mục tiêu trở thành thành phố học tập. Hiện nay, 
Trung Quốc đã xây dựng xong Đề án Cải cách 
và phát triển giáo dục dài hạn và trung hạn 
(2010-2020), phấn đấu xây dựng một xã hội 
học tập vào năm 2020. Tuyên bố chung của 
Trung Quốc về xây dựng xã hội học tập là: Mọi 
người học tập, các cơ hội học tập được cung 
cấp mọi nơi, mọi lúc (Bộ Giáo dục Trung Quốc, 
2010). 
 Có thể mô tả bức tranh chung về việc xây 
dựng Thành phố học tập trong nhiều quốc gia 
trên thế giới như sau: 
- Đến năm 2005, đã có hơn 300 thành phố ở 
Châu Âu, Australia và Canada thực hiện chiến 
lược xây dựng Thành phố học tập. 
- Hiệp hội quốc tế Các thành phố giáo dục 
(IAEC) đã không ngừng thúc đẩy các quốc gia 
xây dựng Thành phố học tập. 
- Từ Hội nghị bàn về Thành phố học tập 
đầu tiên họp ở Barcelona (1990) đến năm 2010 
đã có 11 hội nghị quốc tế các thành phố giáo 
dục. Hội nghị lần thứ 11 đã họp ở thành phố 
Guadalajara (Mexico) vào năm 2010, có tới 422 
thành phố của 36 nước tham gia. 
- Dự kiến Hội nghị quốc tế các thành phố 
giáo dục lần thứ 12 sẽ họp tại thành phố 
Changwon (Hàn Quốc). 
- Đến nay, ước tính đã có trên 1.000 thành 
phố học tập được xây dựng trên toàn thế giới. 
Từ các hội nghị bàn về xây dựng thành phố 
học tập và từ kết quả xây dựng các thành phố 
học tập, có thể rút ra mấy kết luận sau: 
- Xây dựng thành phố học tập đòi hỏi một 
sự nỗ lực trí tuệ để nâng cao hiệu quả quản lí và 
tính thực tiễn của vấn đề, song lại rất cần quan 
tâm hơn nữa đến phương diện học thuật trên cơ 
sở nghiên cứu sâu về cách thức tổ chức, triển 
khai cùng với hoạch định chính sách. Mặt khác, 
cũng cần xây dựng hệ thống tài liệu toàn diện 
trong các lĩnh vực khoa học về vấn đề học tập 
suốt đời (Duke, 2010). 
- Việc xây dựng Thành phố học tập nên đặt 
trong một Chương trình quốc tế (không nên 
khép kín trong một quốc gia) theo một Hiến 
chương. Các quốc gia sẽ hỗ trợ nhau về tài liệu, 
trao đổi kinh nghiệm, hợp tác thúc đẩy tiến 
trình, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn chỉnh 
nội dung Hiến chương (Genoa, 2004) và đề ra 
những nguyên tắc mà các thành phố cần dựa 
vào và cần xem xét lại chính sách của mình 
(IAEC, 2004). 
- Các quốc gia tham gia chương trình xây 
dựng thành phố học tập sẽ thống nhất với nhau 
những định hướng chiến lược chung, như Hội 
nghị ở Limerich (Ireland) đã đưa ra 11 định 
hướng, còn việc vận dụng vào từng hoàn cảnh 
cụ thể là do quốc gia quyết định. 
- Thực tiễn xây dựng thành phố học tập là 
một quá trình có kết thúc mở, không thể vạch ra 
một sơ đồ chung. Tuy nhiên, có mấy vấn đề sau 
phải chú ý: 
+ Chính quyền quốc gia cần có sự cam kết 
chính trị xây dựng Thành phố học tập. Bên cạnh 
quyết tâm, chính quyền còn phải có tầm nhìn 
dài hạn. 
+ Học tập suốt đời không phải là việc riêng 
của ngành giáo dục. Nó là một hiện tượng mang 
tính xã hội chính trị, kinh tế, văn hóa , cần 
một sự hợp tác chặt chẽ giữa các lực lượng xã 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 65 
hội, kể cả các tôn giáo. Tính tự nguyện cần 
được đề cao. 
+ Trách nhiệm của chính quyền là phải bảo 
trợ cho cộng đồng hoàn thành được việc thúc 
đẩy học tập suốt đời của mọi công dân. 
+ Bản thân việc học không phải là mục đích 
cuối cùng của Thành phố học tập. Cái đích cần 
hướng tới là ở cộng đồng phải xây dựng được 
văn hóa học tập. 
+ Tăng cường các cơ hội học tập ở mọi nơi, 
mọi lúc thì mới bảo đảm sự bình đẳng xã hội và 
công bằng xã hội. 
+ Tất cả các bên liên quan đến Thành phố 
học tập đều phải tổ chức học tập: trường học 
học tâp; bệnh viện học tập; doanh nghiệp học 
tập; nông trại học tập; hợp tác xã học tập, và 
các cơ quan chính quyền cũng như các cơ quan 
lãnh đạo các lực lượng trong cộng đồng cũng 
đều phải là cơ sở học tập. 
3. Xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam 
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) đã 
khẳng định phải chuyển mô hình giáo dục hiện 
có sang mô hình xã hội học tập. Đây là một 
bước phát triển quan điểm về xã hội học tập mà 
Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) đã đưa vào 
Nghị quyết. Chủ trương xây dựng xã hội học 
tập ở Việt Nam được đưa ra khi đất nước đang 
tiến hành công nghiệp hóa, khác với những 
quốc gia Châu Âu và Châu Mỹ có chủ trương 
này khi họ đã có điều kiện chuyển nền kinh tế 
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. 
Ngày 18/5/2005, Thủ tướng Chính phủ đã 
ban hành Quyết định 112/2005/QĐ-TTg về Đề 
án Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 
2010, trong đó, việc học tập suốt đời của người 
dân được tiến hành thông qua những cuộc vận 
động từ gia đình, dòng họ và từ cấp cơ sở xã, 
phường, thị trấn. Ngày 9/1/2013, Thủ tướng 
Chính phủ đã ra Quyết định 89/QĐ-TTg về Đề 
án Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 – 
2020 với 3 quan điểm chỉ đạo: 
- Mỗi người dân đều có nhiệm vụ học tập 
suốt đời để trở thành công dân tốt, có nghề và 
lao động có năng suất cao. 
- Các cơ quan nhà nước, các lực lượng kinh 
tế và xã hội, các đơn vị quân đội và công an, 
cùng mọi gia đình, đều có trách nhiệm cung 
ứng các cơ hội học tập và tạo điều kiện để ai 
cũng được học và học suốt đời. 
- Xây dựng một hệ thống giáo dục, trong đó 
có sự liên kết, gắn bó giữa giáo dục chính quy 
với giáo dục thường xuyên, tạo nên những thiết 
chế giáo dục giúp người dân học tập suốt đời. 
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục 
và đào tạo cần đặt trong khuôn khổ tạo ra mô 
hình xã hội học tập phù hợp với điều kiện Việt 
Nam, bắt đầu từ việc xác định mục tiêu giáo 
dục (vấn đề căn bản nhất) rồi mới đến những 
vấn đề hệ thống giáo dục, chương trình, nội 
dung, phương pháp giáo dục, và sau đó là 
những vấn đề quản lí, điều hành hệ thống giáo 
dục, chế độ thi cử, v.v Không chú trọng logic 
đó, chúng ta rất dễ tạo ra sự chắp vá những 
khiếm khuyết của nền giáo dục rồi ngộ nhận 
rằng, đó là những đổi mới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đặng Quốc Bảo, “Đặc trưng mô hình xã hội học 
tập ở Việt Nam: Sự nhận diện từ một số vấn đề tổ 
chức sư phạm và kinh tế -xã hội”. Một số vấn đề 
về xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam. NXB 
Giao thông Vận tải, Hà Nội, 2008. 
[2] Vũ Đình Cự, Một số vấn đề về kinh tế tri thức và 
thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. 
Chuyên đề 5, Tài liệu của Trung ương Đảng Cộng 
sản Việt Nam, Hà Nội, 2004. 
P.T. Dong / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Nghiên cứu Giáo dục, Tập 29, Số 1 (2013) 57-66 66 
[3] Phạm Tất Dong (Chủ biên), Xây dựng mô hình xã 
hội học tập ở Việt Nam, NXB Dân trí, Hà Nội, 
2012. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Các văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ IX,X,XI, NXB Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội 2001, 2006, 2011. 
[5] Jacques Delors, Học tập: Một kho báu tiềm ẩn 
(Leaning: the treasure within. Report to UNESCO 
of the International Commission on Education for 
the Twenty-First Century. Paris UNESCO, 1996. 
[6] Jin Yang, Tổng quan về việc xây dựng các thành 
phố học tập như một chiến lược để thúc đẩy học 
tập suốt đời (ji.yang @unesco.org). 
[7] Đặng Hữu, Kinh tế tri thức - Thời cơ và thách 
thức đối với sự phát triển của Việt Nam. NXB 
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. 
H 
 Building a Learning Society - A Tendency to Renovate 
the Development of the 21th Century Education 
Phạm Tất Dong* 
Research Institute of Learning Society of building and development, 
Số 13 Trần Thái Tông, Hanoi, Vietnam 
Abstract: In the last decades of the 20th century, the revolution of science and modern technology 
created the important premises so that the industrial economy in the world could be able to step by 
step shift to the knowledge-based economy. The tendency of international integration through the 
current of globalization has attracted many countries into the playing field of animated cooperation 
and competition. The information boom and the production of new knowledge and new technologies 
have showed that the knowledge absorbed in the primary educational system can not be used for life; 
the knowledge of the general education no longer helps people to go straight into production. The 
problem is that human beings should know how to treat the information with knowledge and should 
study for life so as to be able to face with the stormy development of science and technology in a 
rapidly changing world. In Vietnam, in face with the above-said tendency of educational development, 
the Prime Minister issued Decision No 927/QĐ-TTg on June 22th, 2010 on establishment of the 
National Steering Committee of a learning society in the 2011-2020 stage, transferring the current 
educational model to the model of a learning society. (Resolution of the 10th National Congress of the 
Communist Party of Vietnam). A learning society should be understood as the core content of the 
policy on educational renovation in the immediate years. 
Keywords: A learning society; learning for life; knowledge-based economy; treat information with 
knowledge; primary education and on-going education; learning community. 

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_xa_hoi_hoc_tap_mot_xu_huong_doi_moi_phat_trien_cua.pdf