Bản chất chiến tranh xâm lược của Mỹ bị “bóc trần” trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968

Tóm tắt: Dưới chiêu bài “chống cộng sản”, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào

cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ việc viện trợ cho Pháp (1950 – 1954), Ngô Đình Diệm

(1954 – 1963), rồi trực tiếp đưa quân sang tham chiến (từ 1965), Mỹ đã từng bước bị

sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Theo đó, bản chất chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ

cố che dấu đã bị “bóc trần” hoàn toàn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu

Thân 1968 trước toàn thể nhân dân Mỹ và thế giới.

pdf 9 trang yennguyen 5680
Bạn đang xem tài liệu "Bản chất chiến tranh xâm lược của Mỹ bị “bóc trần” trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản chất chiến tranh xâm lược của Mỹ bị “bóc trần” trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968

Bản chất chiến tranh xâm lược của Mỹ bị “bóc trần” trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968
105
BẢN CHẤT CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ 
BỊ “BÓC TRẦN” TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG 
VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN NĂM 1968
Phạm Thị Phúc1
Tóm tắt: Dưới chiêu bài “chống cộng sản”, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào 
cuộc chiến tranh Việt Nam. Từ việc viện trợ cho Pháp (1950 – 1954), Ngô Đình Diệm 
(1954 – 1963), rồi trực tiếp đưa quân sang tham chiến (từ 1965), Mỹ đã từng bước bị 
sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Theo đó, bản chất chiến tranh phi nghĩa mà Mỹ 
cố che dấu đã bị “bóc trần” hoàn toàn trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu 
Thân 1968 trước toàn thể nhân dân Mỹ và thế giới.
Từ khóa: Chiến tranh Việt Nam, Phong trào phản chiến, Thuyết Domino, Chiến 
dịch Tết Mậu Thân 1968, Chiến tranh đơn phương, Chiến tranh đặc biệt.
1. Mở đầu
Đã 50 năm trôi qua sau ngày Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, 
nhưng bàn về kết quả cuộc tấn công này cho đến ngày nay vẫn còn có nhiều ý kiến trái 
chiều nhau. Đa phần các ý kiến đều khẳng định đây là một thắng lợi lớn có tính chất 
bước ngoặt trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ. Tuy nhiên, vẫn không ít người hoài 
nghi về thắng lợi này bởi sự tổn thất quá lớn về nhân lực và vật lực của cuộc Tổng tiến 
công. Riêng với bản thân, tôi vẫn khẳng định đây là thắng lợi lớn mang tính chiến lược, 
bởi dù cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968 không đánh bại hoàn toàn quân đội 
Mỹ - Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), không đánh đổ được chính quyền VNCH và ta 
cũng gặp tổn thất lớn nhưng tác động của nó đối với Mỹ và cuộc chiến tranh ở Việt Nam 
thì không hề nhỏ. Một trong những tác động mà trong phạm vi bài viết này tôi muốn 
đề cập đến đó chính là bản chất chiến tranh xâm lược (cuộc chiến tranh phi nghĩa) của 
người Mỹ bị “bóc trần” trước nhân dân Mỹ và toàn thế giới. Đây chính là nhân tố quan 
trọng làm bùng lên phong trào phản chiến ở Mỹ và trên toàn thế giới, buộc chính quyền 
tổng thống Johnson phải tuyên bố chấm dứt cuộc ném bom bắn phá miền Bắc, tuyên bố 
rút quân Mỹ về nước và ngồi vào bàn đàm phán với ta để đi đến kết thúc chiến tranh.
2. Nội dung
2.1. Cuộc chiến tranh “dấu mặt” của Mỹ ở Việt Nam (1950 – 1965)
Sau chiến tranh thế giới thứ II (1945), Mỹ vươn lên trở thành cường quốc số 1 thế 
giới về kinh tế lẫn quân sự. Theo đó, tham vọng của Mỹ muốn thống trị thế giới càng 
bộc lộ rõ. Tuy nhiên, Mỹ không thể áp dụng tiếp hình thức chủ nghĩa thực dân kiểu cũ 
là đem quân đội thôn tính các nước và đặt nền thống trị lên họ như cách mà người Anh, 
1. Giảng viên khoa Kinh tế - Du lịch, trường Đại học Quảng Nam
106
BẢN CHẤT CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ...
Pháp, Hà Lan,làm trước đó, bởi vì:
- Thứ nhất: Từ sau phong trào đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa của 
Mỹ giành thắng lợi năm 1783. Mỹ luôn giương ngọn cờ là nước đi đầu trong phong trào 
đấu tranh giành độc lập và tuyên bố ủng hộ phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập 
trên thế giới. Người Mỹ không thể làm trái những điều mà mình đã tuyên bố và cũng để 
giữ hình tượng “chính nghĩa” của nước Mỹ đối với thế giới.
- Thứ hai: Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ II, với xu thế toàn cầu hóa được 
đẩy mạnh và những ràng buộc pháp lý quốc tế khiến Mỹ không thể ngang nhiên can 
thiệp vũ trang vào các quốc gia khác.
Tuy nhiên, với tiềm lực kinh tế, quân sự hùng hậu, Mỹ vẫn thao túng nhiều nước 
kém phát triển ở châu Mỹ Latinh, châu Phi, châu Á, kể cả các nước tư bản Tây Âu đang 
nợ nần chồng chất sau thế chiến thứ II bằng cách viện trợ kinh tế, quân sự thông qua đó 
khống chế về chính trị. Với cách này, Mỹ đã chính thức cho ra đời loại hình “chủ nghĩa 
thực dân kiểu mới”.
Đặc biệt, khi cuộc “chiến tranh lạnh” với Liên Xô bị đẩy lên đến đỉnh điểm vào 
những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ XX, lo sợ trước sự vươn lên mạnh mẽ của hệ 
thống Xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, giới cầm quyền Mỹ càng táo bạo hơn 
trong việc can thiệp vào các nước bên ngoài, đặc biệt tại những nơi có sự xuất hiện của 
nhà nước XHCN như Trung Quốc, Cu Ba, Triều Tiên, Đông Dương. 
Tại Đông Dương, bắt đầu năm 1950, Mỹ chính thức can thiệp vào cuộc chiến 
tranh thông qua sự viện trợ kinh tế, quân sự cho Pháp với hy vọng thông qua Pháp, đánh 
bại chủ nghĩa cộng sản tại đây. Sự viện trợ của Mỹ, càng tăng dần trong những năm sau 
đó, theo thống kê: Nếu như năm 1950, Mỹ chỉ viện trợ quân sự 10 triệu đôla cho Pháp 
trong cuộc chiến tranh, thì đến đầu năm 1954, số lượng này đã tăng lên đến 1,1 tỉ đôla, 
chiếm 78% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương. Từ 1950 đến 1954, tổng số 
viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ cho Pháp trong chiến tranh Đông Dương đã vượt 
quá 3,5 tỉ đôla. Tướng Henri Navarre (1898 -1983) sau này viết trong hồi ký rằng: "Địa 
vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ". Tuy 
nhiên người Pháp vẫn thất bại, với sự thất thủ tại Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký vào 
hiệp định Genève (21-7-1954) và rút khỏi Đông Dương.
Sự thất bại của người Pháp tại Đông Dương làm tăng thêm nỗi sợ hãi của Mỹ về 
sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt, dưới thời của 
tổng thống Dwight D. Eisenhower xuất hiện “thuyết Domino”, với thuyết này, người 
Mỹ tin rằng nếu để cho chủ nghĩa cộng sản phát triển ở Đông Dương, trọng tâm là miền 
Nam Việt Nam mà Hoa kỳ không can thiệp sẽ để những người cộng sản “chiếm cứ” 
Nam Việt Nam thì đó sẽ là quân bài domino chìa khóa làm cho Lào, Campuchia, Thái 
Lan, Miến Điện “sụp đổ vào tay cộng sản” và sẽ tạo lợi thế lớn cho các phong trào 
cộng sản tại châu Á đe dọa các khu vực sống còn còn lại của “thế giới tự do”. Mỹ gấp 
107
PHẠM THỊ PHÚC
rút “nuôi dưỡng” một quân bài chính trị khác là Ngô Đình Diệm để thay thế khi người 
Pháp rút đi. Một ngày sau khi hiệp định Genève được ký kết (tức 22-7-1954), Mỹ đã 
đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam cùng với sự hậu thuẫn của lực lượng CIA, xúc tiến 
thành lập chính quyền VNCH tiếp tục thực thi chính sách chống cộng mà Mỹ đặt ra. 
Thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F. Kennedy tuyên bố vào ngày 
01/6/1956: “Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ (chỉ VNCH) 
thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra 
đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (). Đó là 
con đẻ của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới 
những nhu cầu của nó”2.
Từ năm 1950 đến năm 1965, Mỹ đã viện trợ ồ ạt cho chính quyền VNCH về kinh 
tế, quân sự và đưa những chuyên gia kinh tế, quân sự giỏi sang miền Nam để giúp đỡ 
chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng thực lực kinh tế, huấn luyện quân đội. Chính 
quyền Mỹ - Ngô Đình Diệm đã lần lượt triển khai hai chiến lược chiến tranh: “chiến 
tranh đơn phương” (1954 - 1960) và “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965). Tuy nhiên, 
mọi nỗ lực của người Mỹ và chính quyền VNCH đều không đem lại kết quả. Lực lượng 
cách mạng miền Nam đã lần lượt đánh bại từng chiến lược chiến tranh. Với phong trào 
Đồng khởi (1959 - 1960), chính quyền Mỹ - Ngô Đình Diệm đã thất bại hoàn toàn 
trong kế hoạch “chiến tranh đơn phương” và chiến lược toàn cầu “trả đũa ồ ạt” của 
Eisenhower cũng sụp đổ. Một vùng đất đai rộng lớn ở miền Nam đã vào tay Mặt trận 
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, chính 
quyền Mỹ - Ngô Đình Diệm đồng thời thất bại cả trên ba mặt trận chính trị, quân sự và 
bình định. 
Mọi nỗ lực dựa vào lực lượng khác, cả Pháp (1950 - 1954) và Ngô Đình Diệm 
(1954 - 1965) của Mỹ đều không mang lại kết quả. Trong khi đó, “chủ nghĩa cộng sản” 
vẫn tồn tại và phát triển Đông Dương là thách thức đối với người Mỹ, buộc Mỹ phải 
chuyển từ hình thức chiến tranh “dấu mặt” sang hình thức chiến tranh “lộ diện”, trực 
tiếp đưa quân sang tham chiến tại Đông Dương bắt đầu từ 1965.
2.2. Chiến tranh “lộ diện” của Mỹ ở Việt Nam nhưng núp dưới danh nghĩa 
“chống cộng sản” (1965 – 1967)
Sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), người Mỹ biết 
không thể dựa vào chính quyền VNCH và quân đội bản xứ để thực hiện mục tiêu của 
mình được nữa. Chính quyền tổng thống Johnson, quyết định mạo hiểm bằng việc trực 
tiếp đưa quân đội sang tham chiến tại chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, để che đậy 
cho hành động xâm lược bằng quân sự này, Mỹ đã tô vẽ lên một “chủ nghĩa cộng sản” 
với đầy những tội ác và xấu xa, khiến người ta hình dung nó như một con “ngáo ộp” 
2. Robert S.Mc.Namara (1995), Nhìn lại quá khứ. Tấm thảm kịch và những bài học Việt Nam, Nhà xuất 
bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.43-44.
108
BẢN CHẤT CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ...
hung dữ gây chết chóc tang thương, đe dọa đến hòa bình nhân loại, không khác gì chủ 
nghĩa phát xít trước đó. Vì vậy, kế hoạch triển khai quân sự của chính quyền Johnson 
nhanh chóng được quốc hội Mỹ thông qua và đa số người dân đồng tình. Theo sự thăm 
dò dư luận của viện Gallup, “tháng 5/1965 có 48% những người được hỏi tin tưởng 
chính phủ, 28% không tin, số còn lại không có ý kiến. Hạ tuần tháng 8, viện Gallup 
thăm dò cho thấy có 24% trong số được hỏi chống gửi quân sang Việt Nam, 60% đồng ý 
cho là không có gì sai trái”3. Qua đó có thể thấy, với chiêu bài “chống cộng sản” chính 
phủ Mỹ đã lừa lấy được lòng tin của cả Quốc hội và dân chúng Mỹ ủng hộ cho việc đưa 
quân lính sang tham chiến tại chiến trường Việt Nam.
Ngay cả những binh lính Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến trường miền Nam Việt 
Nam cũng được ca ngợi là những người đại diện cho nước Mỹ và thế giới lãnh sứ mệnh 
“chống cộng sản” bảo vệ hòa bình cho nhân loại. Vì vậy, sứ mệnh của họ là một vinh dự 
lớn và nếu họ hy sinh cũng là một niềm vinh quang lớn của người quân nhân.
Bắt đầu từ tháng 7-1965, quân Mỹ cùng đồng minh đã ồ ạt đổ bộ vào miền Nam 
Việt Nam, với đầy đủ trang thiết bị vũ khí hiện đại, tối tân nhất thời bấy giờ. Mỹ đã triển 
khai hàng loạt các cuộc hành quân tìm diệt và bình định vào đất thánh của “Việt cộng”. 
Đồng thời, chính phủ Mỹ ra sức khuếch đại sự thắng lợi của mình trên chiến trường và 
những thương vong nặng nề của quân đội Bắc Việt. Họ dấu nhẹm những con số thương 
vong và bắt những thương binh nặng của Mỹ nằm lại chiến trường, đợi chết mới đưa 
về nước, rồi ca ngợi như những “anh hùng thực sự”. Trong cuốn hồi ký “Không thể 
chuộc lỗi” của bác sĩ Allen Hassan, từng nhắc đến việc ông tận mắt chứng kiến cảnh 
hơn 200 binh lính Thủy quân lục chiến Mỹ đang bị thương rất nặng, nằm trong những 
lều bạt tạm nhưng không được đưa về Mỹ điều trị. Khi ông hỏi đến thì được trả lời rằng: 
“Tình trạng của họ quá phản cảm. Người ta sẽ phải ngưng cuộc chiến này ngay giây 
phút trông thấy cận cảnh tấm thảm kịch thực tế này. Ngay khi chiếc Mecdevac hạ cánh 
xuống lãnh thổ Hòa Kỳ và mọi người nhìn thấy những thương binh như thế, họ sẽ bạo 
loạn và đòi phải chấm dứt cuộc chiến”4.
Tuy nhiên, chiến tranh càng đẩy lên cao thì bản chất chiến tranh xâm lược của 
Mỹ càng bộc lộ rõ hơn. Ở Mỹ và một số nơi trên thế giới sau nỗi sợ hãi về “chủ nghĩa 
cộng sản” qua đi, giờ đây người ta bắt đầu nhìn nhận kỹ hơn về cuộc chiến tranh Việt 
Nam, họ nhận thấy những điều bất hợp lý, vấn đề đạo đức, những mâu thuẫn về lý luận 
và thực tiễn. Hàng loạt phong trào phản chiến bùng nổ ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới 
kéo dài từ 10-1965 đến cuối 1967, điển hình như:
Vụ tự thiêu của Norman Morrison, 31 tuổi, tại Ngũ Giác Đài vào ngày 2-11-1965. 
Hay ngày 27-11-1965, khoảng 40.000 người chống chiến tranh tới bao vây Tòa Bạch 
Ốc kêu gọi chấm dứt chiến tranh, cũng trong ngày này Tổng thống Johnson cho tăng 
3. Trọng Đạt (2016), Nhìn lại phong trào phản chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đăng trên https://
biển xưa
4. Allen Hassan (2007), Không thể chuộc lỗi, NXB Trẻ, trang 165
109
PHẠM THỊ PHÚC
quân leo thang từ 120.000 người tới 400.000 người tại Việt Nam. Trong năm 1966, 
phong trào phản chiến dâng cao hơn, điển hình tháng 5-1966 một cuộc biểu tình lớn 
khoảng 10.000 người kêu gọi chấm dứt chiến tranh bên ngoài Tòa Bạch Cung, đài kỷ 
niệm Washington. Ngày 14-01-1967, có từ 20.000 tới 30.000 người chống chiến tranh 
tại Golden Gate Park San Francisco. Ngày 8-2-1967, những người Thiên Chúa giáo 
chống chiến tranh mở chiến dịch ăn chay vì hòa bình trên toàn quốc. Ngày 17-3-1967, 
một nhóm phản chiến tới Ngũ giác đài chống chính phủ can thiệp vào Việt Nam. Ngày 
25-3-1967, nhà tranh đấu nhân quyền (Civil-rights leader) Luther King dẫn 5.000 người 
biểu tình chống chiến tranh tại Chicago. Ngày 15-4-1967, 400.000 người biểu tình phản 
chiến tại New York city, họ đi từ Central Park tới trụ sở Liên Hiệp Quốc, cùng ngày 
có 100.000 người diễn hành tại Francisco. Ngày 2-5-1967, nhà triết gia Anh Bertrand 
Russsell chủ tọa phiên xử của tòa án Russell tại Stockholm kết án Mỹ và đồng minh 
phạm tội ác chiến tranh tại Việt Nam.5
Với những phong trào phản chiến nổ ra rầm rộ như trên, đủ thấy bản chất chiến 
tranh phi nghĩa của Mỹ đã dần dần bộc lộ. Theo đó, tỷ lệ ủng hộ Chính phủ đã sụt giảm 
đi nhiều từ 60% (10/1965), xuống còn 48% (12/1967). Đến khi cuộc Tổng tiến và nổi 
dậy Xuân 1968, toàn bộ bản chất chiến tranh xâm lược của Mỹ đã bị “bóc trần”.
2.3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 – bản chất chiến tranh 
xâm lược của Mỹ bị “bóc trần”
Sau những thắng lợi giành được ở Vạn Tường (18-8-1965) và hai mùa khô lần I 
(1965 – 1966), lần II (1966 – 1967), Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương, Trung ương cục 
họp bàn và tính toán một chiến lược có ý nghĩa quyết định, tạo bước ngoặt cho chiến 
tranh. Theo đó nếu ta không tranh thủ thời cơ để sang năm 1968, quân Mỹ, dưới áp lực 
của dư luận Mỹ, buộc phải dốc toàn lực thực hiện một hành động quân sự lớn để phá vỡ 
thế bế tắc, cách mạng miền Nam sẽ gặp bất lợi. Đồng thời, năm 1968 cũng là năm bản 
lề trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, mâu thuẫn chính trị sẽ bị đẩy lên cao và dư luận 
Mỹ đặc biệt quan tâm tới tình hình thời sự.
Trên cơ sở những tính toán kỹ lưỡng, Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương quyết 
định mở chiến dịch Tết Mậu Thân năm 1968 với mục tiêu là đánh thẳng vào sào huyệt 
của địch ở các thành phố và thị xã – nhất là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng. Với cuộc tấn công 
này của ta, Mỹ không còn con đường nào khác là phải phát huy sức mạnh quân sự để 
đánh trả, điều này sẽ tạo nên sự chú ý lớn của cộng đồng Mỹ vàquốc tế. Ta sẽ lợi dụng 
sức mạnh của quần chúng Mỹ và sự phản kháng của thế giới làm áp lực lên chính quyền 
tổng thống Johnson, buộc Mỹ rút quân về nước.
Ngay trong đêm giao thừa, Tết Mậu Thân 1968 (đêm 30 rạng 31 tháng 01 năm 
1968), lực lượng quân sự của ta đã đồng loạt nổ súng tấn công địch trên 6 thành phố 
lớn, 44 thị xã và hàng trăm quận lỵ. Trước đó 10 ngày, ta đã mở chiến dịch nghi binh 
5. Trọng Đạt (2016), Nhìn lại phong trào phản chiến trong cuộc chiến tranh Việt Nam, đăng trên https://
biển xưa.
110
BẢN CHẤT CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ...
ở đường 9 – Khe Sanh nhằm thu hút lực lượng địch. Mạnh nhất là cuộc tấn công vào 3 
thành phố lớn ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Tại Sài Gòn, ta tấn công vào Dinh Độc Lập, 
Tòa Đại Sứ Mỹ và nhiều trung tâm hành chính quan trọng khác của địch. 
Cuộc tấn công bất ngờ và mạnh mẽ của ta vào các trung tâm đầu não địch ngay 
vào dịp tết đã gây một tiếng vang lớn toàn thế giới, thu hút nhiều phóng viên, nhà báo 
nước ngoài đến viết bài, đưa tin. Tin tức về chiến sự Việt Nam được tường thuật trực 
tiếp trong mỗi phòng khách của người dân Mỹ và nhân dân thế giới. Những cảnh hoang 
tàn của các thành phố, làng mạc, cảnh chết chóc tang thương của những người dân 
thường vô tội, cùng với cảnh màn trời chiếu đất của những người vô gia cư ở Việt Nam 
đã đánh động đến lương tri của mỗi một người dân thế giới và Mỹ. Nhưng điều gây 
phẫn nộ hơn đối với cộng đồng quốc tế là cảnh sĩ quan Mỹ hành hình những tù phạm 
ngay giữa thành phố Sài Gòn, hay vụ thảm sát hàng loạt đồng bào vô tội ở Sơn Mỹ6 vào 
tháng 3 -1968, đã làm dấy lên phong trào phản đối chiến tranh mạnh mẽ hơn bao giờ 
hết ngay trong lòng nước Mỹ và trên khắp thế giới.
Tại Anh, một cuộc biểu tình lớn diễn ra trước tòa Đại sứ Mỹ trở thành bạo động, 
86 người bị thương, hơn 10.000 người biểu tình ôn hòa ở công trường Trafalgar nhưng 
bị cảnh sát ngăn chặn.
Ngày 17-4-1968, truyền thông quay cảnh bạo động chống chiến tranh Việt Nam 
tại Berkeley Cali, cảnh sát tiến hành đàn áp dã man. Điều này, gây phản ứng mạnh mẽ 
đối với nhân dân tại đây.
Ở Mỹ, sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, phong trào chống đối 
Chính phủ lên cao dữ dội vì người dân Mỹ không còn tin vào Chính phủ. Cộng thêm 
số tử thương của quân đội Mỹ tăng lên quá cao là 16.592 người (gồm lính chết tại mặt 
trận và chết vì những lý do khác) phong trào chống Chính phủ đã trở nên quyết liệt hơn 
bao giờ hết, cụ thể:
Ngày 15-10-1969, có tới nửa triệu người tham gia biểu tình tại Hoa Thịnh Đốn và 
một cuộc biểu tình tương tự ở San Francisco do Tân ủy ban vận động chấm dứt chiến 
tranh Việt Nam và Ủy ban vận động sinh viên chấm dứt chiến tranh.
Sang năm 1970, tình hình còn căng thẳng hơn trước khi Mỹ yểm trợ cho VNCH 
tấn công Cao Miên, ngày 4-5-1970, bốn sinh viên bị bắn chết trong một cuộc biểu tình 
tại Đại học Kent Ohio, một tuần sau đó có 100 ngàn người biểu tình tại Washington D.C 
chống đối việc bắn sinh viên và đưa quân sang Miên, 
Theo thống kê, từ năm 1969 - 1970, có 1.800 cuộc chống đối biểu tình, 7.500 
người bị bắt, 247 vụ đốt nhà, 462 người bị thương, trong số này có 2/3 là cảnh sát, 8 
người chết.
6. Vào ngày 16/3/1968, lực lượng quân sự Mỹ do William Calley chỉ huy đã tiến vào thôn Mỹ Lai, làng 
Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi giết hại 504 dân thường vô tội. Đây là vụ thảm sát gây chấn động thế giới và 
người ta bắt đầu truy vấn về tính vô nhân đạo của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam.
111
PHẠM THỊ PHÚC
Phong trào phản đối chiến tranh còn lan sang cả những thanh niên và binh lính 
Mỹ. 
Ngay trong thời gian chiến tranh, phong trào phản chiến của thanh niên, binh lính 
Mỹ đã diễn ra mạnh mẽ trên khắp nước Mỹ và trong hàng ngũ quân nhân tham chiến 
tại miền Nam Việt Nam. Điều đáng chú ý là, trước khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt 
Nam xảy ra, được phục vụ trong quân đội là niềm tự hào và ước mơ của nhiều thanh 
niên Mỹ. Khi cuộc chiến này xảy ra, nhiều thanh niên phản kháng bằng việc đốt thẻ 
quân dịch. Ban đầu, phong trào còn mang tính chất lẻ tẻ về sau lan ra toàn quốc. Nhiều 
thanh niên Mỹ từ chối sang Việt Nam với lý do: “Mỹ đang theo đuổi cuộc chiến tranh 
vô đạo đức, không hợp lệ và phi nghĩa”. Còn Đại úy, bác sĩ Howard Levy thì từ chối 
giảng bài vì “họ đang được huấn luyện để sang giết những người phụ nữ và nông dân 
Việt Nam nghèo vô tội”.
Tại miền Nam Việt Nam, theo báo cáo của Bộ quốc phòng Mỹ, chỉ tính riêng năm 
1971, đã có 1.000 quân nhân Mỹ đã “vắng mặt” khi được phân công nhiệm vụ. Trong 
những sư đoàn có mặt tại miền Nam Việt Nam họ thành lập ra những nhóm và ủy ban 
“vì hòa bình”, mặc dù hình thức này có thể bị xử tù với thời hạn có khi hơn 10 năm 7.
Phong trào phản đối chiến chiến tranh ở Mỹ và thế giới nổ ra mạnh mẽ như vậy, 
trước hết bắt nguồn từ nhận thức cho rằng hành động xâm lược, can thiệp vào Việt Nam 
của đế quốc Mỹ là phi nghĩa, đối lập với nguyện vọng chính nghĩa của nhân dân Việt 
Nam là hòa bình, độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Đó là vấn đề được đem ra thảo 
luận trong hàng trăm cuộc, trước hàng vạn, hàng chục sinh viên, giáo sư trí thức, làm 
cho những người trước kia bênh vực sự can thiệp vũ trang của Mỹ phải lúng túng. Nhiều 
thanh niên, binh lính Mỹ gọi “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến của Johnson” 
“Johnson hãy đi mà đánh lấy” chứ không phải cuộc chiến của dân tộc Mỹ, cũng chính 
là vì tính chất phi nghĩa ấy. Nhân dân Mỹ cũng như dư luận thế giới hiểu rằng, nhân dân 
Việt Nam chiến đấu không chỉ vì độc lập của mình mà còn vì độc lập tự do của các dân 
tộc và nền hòa bình trên thế giới.
3. Kết luận
Như vậy có thể thấy, mặc dù cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 
1968, không đánh bại hoàn toàn quân đội Mỹ, quân đội VNCH và chính quyền VNCH 
nhưng đã gây ra một hiệu ứng vô cùng tích cực đối với cuộc chiến tranh Việt Nam. Với 
bản chất chiến tranh phi nghĩa bị “bóc trần”, chính quyền của tổng thống Johnson đã 
vấp phải sự chỉ trích và chống đối mạnh mẽ từ dân chúng Mỹ và dư luận quốc tế. Điều 
này đặt nhà Trắng trước sự lựa chọn vô cùng khó khăn, hoặc tiếp tục tăng quân, kéo dài 
chiến tranh hay rút quân Mỹ về nước, chấm dứt chiến tranh. Cuối cùng, những người 
đứng đầu trong chính quyền tổng thống Jonhson đã đi đến quyết định là không tăng 
7. Đại tá Đặng Việt Thủy (2017), Đôi nét về phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ trong chiến tranh 
Việt Nam, đăng trên giáo dục.net.vn ngày 27/4/2017.
112
BẢN CHẤT CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA MỸ...
thêm quân nữa, hạn chế chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, ngừng ném bom miền Bắc 
từ vĩ tuyến 20 trở ra, bắt đầu cuộc đàm phán hòa bình để đi đến kết thúc chiến tranh. 
Riêng bản thân tổng thống Johnson đã tuyên bố không ra tranh cử thêm một nhiệm kỳ 
nữa.
Với những kết quả này, có thể khẳng định cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết 
Mậu Thân năm 1968 là một thắng lợi có tính chiến lược quan trọng, mở ra bước ngoặt 
của cuộc kháng chiến chống Mỹ 21 năm. Từ đây, buộc Mỹ phải xuống thang chiến 
tranh, đi đến ký kết hiệp định Paris (27-01-1973), công nhận độc lập tự do và toàn vẹn 
lãnh thổ của nhân dân Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Allen Hassan (2007), “Không thể chuộc lỗi”, NXB Trẻ.
[2] Nguyễn Văn Linh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ (2008), “Về cuộc Tổng tiến công 
Tết Mậu Thân 1968”, NXB Quân đội nhân dân.
[3] Hồ Khang (1995), “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 tại miền 
Nam Việt Nam,” Luận án PTSKH Lịch sử.
[4] Robert S.Mc.Namara (1995), “Nhìn lại quá khứ. Tấm thảm kịch và những bài học 
Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Trần Thị Ngọc Thúy (2014), “Phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ đối với cuộc 
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam (1954 – 1975)”, Hội thảo khoa học năm 
2014.
[6] Trọng Đạt (2016), “Nhìn lại phong trào phản chiến trong cuộc chiến tranh Việt 
Nam”, đăng trên https://biển xưa.
[7] Michael Maclear (2002), “Cuộc chiến 10.000 ngày (10 tập)”, phim tư liệu do 
Canada sản xuất.
[8] Đại tá Đặng Việt Thủy (2017), “Đôi nét về phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ 
trong chiến tranh Việt Nam”, đăng trên giáo dục.net.vn, ngày 27/4/2017.
113
PHẠM THỊ PHÚC
Title: THE NATURE OF AMERICAN WARS EXPOSED IN THE GENERAL 
OFFENSIVE AND UPPRISING OF TET MAU THAN 1968
 PHAM THI PHUC 
 Faculty of Economics – Tourism, Quang Nam University 
Abstract: Under the guise of "anti-communism", the US intervenes increasingly 
in the Vietnam War. From giving aid to France (1950-1954), Ngo Dinh Diem (1954 
- 1963), and then directing troops to join the war (since 1965), the US gradually got 
bogged down in the Vietnam war. Accordingly, the meaningless war nature that America 
tried to conceal was completely "exposed" during the Tet Mau Than 1968 General 
Offensive and Uprising against all Americans and the world.
Keywords: Vietnam War, Anti-war movement, Domino theory, Tet Mau Than 1968 
campaign, Unilateral war, Special war.

File đính kèm:

  • pdfban_chat_chien_tranh_xam_luoc_cua_my_bi_boc_tran_trong_cuoc.pdf