Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2016

Xét nghiệm chức năng gan là một

trong những xét nghiệm sinh hóa thường

được chỉ định để đánh giá các chức năng

khác nhau của gan hoặc đưa ra bằng

chứng về tổn thương gan. Xét nghiệm

chức năng gan được chỉ định trong tổng

thể xét nghiệm khi sút cân không rõ

nguyên nhân, nghiện rượu, có các bệnh lý

về gan và trong quá trình theo dõi điều trị

của nhiều thuốc. Xét nghiệm chức năng

gan cũng được chỉ định khi xuất hiện một

số dấu hiệu lâm sàng như vàng da, buồn

nôn và nôn liên tục.

Xét nghiệm chức năng gan bao gồm việc

định lượng một số enzym hoặc một số chất

chuyển hóa hoặc tổng hợp tại gan để đánh giá

chức năng và chuyển hóa của cơ quan này. Các

xét nghiệm sinh hóa chính thường được thực

hiện bao gồm định lượng các transaminase, γGT

(gamma-glutamyl transpeptidase), phosphatase

kiềm và bilirubin (bảng 1).

- Các transaminase (hay aminotransferase),

alanin aminotransferase (ALAT hoặc GPT) và

aspartate aminotransferase (ASAT hay GOT) là

những enzym được giải phóng trong tuần hoàn khi

có tổn thương tế bào và đưa ra những dấu hiệu về

chức năng gan. Các enzym này có nhiều trong gan

và cơ. ALAT có chủ yếu trong gan. Tăng nồng độ

ALAT trong huyết tương là dấu hiệu của tổn thương

tế bào gan. Vì vậy xét nghiệm này đặc hiệu cho tổn

thương tế bào gan hơn so với ASAT. ASAT không

chỉ có trong gan mà còn có cả trong cơ tim, cơ vân,

thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu.

- γGT được tổng hợp bởi tế bào gan và tế

bào biểu mô ống mật. Đây là những chất chỉ thị

cho tình trạng gan ứ mật nhưng kém đặc hiệu

và có thể tăng cao trong nhiều trường hợp như

đái tháo đường, nghiện rượu, ứ mật, các bệnh

lý tụy, nhồi máu cơ tim, suy thận, bệnh phổi tắc

nghẽn mạn tính (COPD) và do dùng một số loại

thuốc. Có một tỷ lệ nhất định (ví dụ 3-5% người

Pháp) có tăng γGT không có triệu chứng.

- Phosphatase kiềm có trong gan, ruột, xương,

nhau thai và thận. Tương tự γGT, đây là một dấu

hiệu của tình trạng ứ mật

pdf 20 trang yennguyen 5000
Bạn đang xem tài liệu "Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2016

Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
Liver function tests
NHIỄM TOAN LACTIC DO METFORMIN,
MỘT NGUY CƠ KHÔNG THỂ BỎ QUA
Metformin-associated lactic acidosis
TƯƠNG TÁC GIỮA SPIRONOLACTON VÀ THUỐC ỨC CHẾ
HỆ RENIN-ANGIOTENSIN TRONG ĐIỀU TRỊ SUY TIM:
NGUY CƠ TĂNG KALI MÁU ĐE DỌA TÍNH MẠNG
 Interaction of spironolactone with renin-angiotensin system inhibitors in heart failure 
treatment: risk of potentially fatal hyperkalemia
HƯỚNG DẪN KÊ ĐƠN AN TOÀN CHO THUỐC CÓ NGUY CƠ CAO
METHOTREXAT: NGUY CƠ TỬ VONG TIỀM TÀNG DO QUÁ LIỀU
Safer prescribing of high-risk medicine - Methotrexate: potentially fatal in overdose
TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO ADR QUÝ I NĂM 2016
ADR reporting activity summary (first 3 months of 2016)
ĐIỂM TIN CẢNH GIÁC DƯỢC
Pharmacovigilance highlights
1
3
5
7
10
10
MỤC LỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: PGS. TS. Nguyễn Đăng Hòa
Ban biên tập: PGS. TS. Nguyễn Trường Sơn
 PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh
 TS. Nguyễn Quốc Bình
 ThS. Võ Thị Thu Thủy
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc 
và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: (04) 3933 5618 - Fax: (04) 3933 5642
Bản tin được xuất bản bằng sự hỗ trợ kinh phí từ dự án Quỹ Toàn 
cầu - Hỗ trợ hệ thống y tế - Hợp phần 2.1 - Tăng cường các hoạt động 
Cảnh giác dược.
Giấy phép xuất bản số 18/GP-XBBT do Cục Báo chí, Bộ Thông tin 
và Truyền thông cấp ngày 18/3/2016. 
Thiết kế và sản xuất bởi Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Thương 
Mại An Lạc.
1No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
Nguồn: Actualités pharmaceutiques số 544, tháng 3/2015
 Người dịch: Dương Thị Thanh Mai, Nguyễn Khắc Dũng
Xét nghiệm chức năng gan là một 
trong những xét nghiệm sinh hóa thường 
được chỉ định để đánh giá các chức năng 
khác nhau của gan hoặc đưa ra bằng 
chứng về tổn thương gan. Xét nghiệm 
chức năng gan được chỉ định trong tổng 
thể xét nghiệm khi sút cân không rõ 
nguyên nhân, nghiện rượu, có các bệnh lý 
về gan và trong quá trình theo dõi điều trị 
của nhiều thuốc. Xét nghiệm chức năng 
gan cũng được chỉ định khi xuất hiện một 
số dấu hiệu lâm sàng như vàng da, buồn 
nôn và nôn liên tục.
Xét nghiệm chức năng gan bao gồm việc 
định lượng một số enzym hoặc một số chất 
chuyển hóa hoặc tổng hợp tại gan để đánh giá 
chức năng và chuyển hóa của cơ quan này. Các 
xét nghiệm sinh hóa chính thường được thực 
hiện bao gồm định lượng các transaminase, γGT 
(gamma-glutamyl transpeptidase), phosphatase 
kiềm và bilirubin (bảng 1).
- Các transaminase (hay aminotransferase), 
alanin aminotransferase (ALAT hoặc GPT) và 
aspartate aminotransferase (ASAT hay GOT) là 
những enzym được giải phóng trong tuần hoàn khi 
có tổn thương tế bào và đưa ra những dấu hiệu về 
chức năng gan. Các enzym này có nhiều trong gan 
và cơ. ALAT có chủ yếu trong gan. Tăng nồng độ 
ALAT trong huyết tương là dấu hiệu của tổn thương 
tế bào gan. Vì vậy xét nghiệm này đặc hiệu cho tổn 
thương tế bào gan hơn so với ASAT. ASAT không 
chỉ có trong gan mà còn có cả trong cơ tim, cơ vân, 
thận, não, tụy, phổi, bạch cầu và hồng cầu.
- γGT được tổng hợp bởi tế bào gan và tế 
bào biểu mô ống mật. Đây là những chất chỉ thị 
cho tình trạng gan ứ mật nhưng kém đặc hiệu 
và có thể tăng cao trong nhiều trường hợp như 
đái tháo đường, nghiện rượu, ứ mật, các bệnh 
lý tụy, nhồi máu cơ tim, suy thận, bệnh phổi tắc 
nghẽn mạn tính (COPD) và do dùng một số loại 
thuốc. Có một tỷ lệ nhất định (ví dụ 3-5% người 
Pháp) có tăng γGT không có triệu chứng.
- Phosphatase kiềm có trong gan, ruột, xương, 
nhau thai và thận. Tương tự γGT, đây là một dấu 
hiệu của tình trạng ứ mật.
- Bilirubin là một chất sắc tố màu vàng, được 
tổng hợp bởi hệ thống lưới nội mô của tế bào gan, 
chuyển hóa trong huyết tương, liên hợp ở gan và 
bài tiết theo đường mật và đường ruột. Bilirubin 
cũng được chuyển hóa thành sắc tố mật và sau 
đó được tái hấp thu hoặc thải trừ theo phân. 
Bilirubin liên hợp thường không xuất hiện trong 
huyết tương. Bilirubin toàn phần bao gồm bilirubin 
tự do và bilirubin liên hợp.
- Các xét nghiệm chính trên có thể được bổ sung 
bằng một số xét nghiệm khác giúp đưa ra chẩn đoán 
chính xác hơn bao gồm: cholesterol máu (chủ yếu 
được sản xuất ở gan), albumin, fibrinogen, điện di 
protein, tỷ lệ prothrombin (TP), yếu tố đông máu V, 
enzym 5’-nucleotidase (enzym có mặt trong nhiều 
tế bào, đặc biệt là tế bào gan) hay là amoniac máu.
- Các xét nghiệm khác là chỉ thị đặc hiệu cho 
bệnh gan như :
+ Alpha-fetoprotein (AFP), chất chỉ thị của 
khối u, là protein được sản xuất ở gan trong các 
trường hợp ung thư hoặc xơ gan, được chỉ định 
theo dõi ở bệnh nhân viêm gan B và C mạn tính 
có khả năng chuyển sang ung thư carcinom tế 
bào gan.
+ Định lượng transferrin thiếu hụt carbohydrat 
(CDT), đây là protein tổng hợp ở gan, liên quan 
chính xác nhất đến tình trạng nghiện rượu.
+ Xét nghiệm huyết thanh với virus gây viêm 
gan B và C.
Bảng 1: Các giá trị tham chiếu bình thường 
trong thăm dò chức năng gan
- ASAT, ALAT: 5-35 UI/L.
- Bilirubin liên hợp: <5 micromol/L (<4 mg/L).
- Bilirubin không liên hợp: <15 micromol/L.
- Bilirubin toàn phần: <17 micromol/L (<10 mg/L).
- γGT: 8-35 UI/L.
- Phosphatase kiềm: 30-100 UI/L.
Chỉ định xét nghiệm
Xét nghiệm chức năng gan được yêu cầu 
khi bệnh nhân có các dấu hiệu lâm sàng gợi ý 
tình trạng rối loạn chức năng gan hoặc túi mật 
(vàng da, ):
- Tiền sử gia đình có bệnh gan.
- Béo phì.
- Tăng lipid máu.
- Đái tháo đường.
- Có các yếu tố nguy cơ viêm gan virus như 
quan hệ tình dục không an toàn, tiêm chích ma 
túy hoặc truyền máu.
Xét nghiệm này cũng có thể được chỉ định 
khi đánh giá tổng thể một bệnh nhân suy nhược, 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
trong trường hợp sút cân đột ngột, khi theo dõi 
ung thư, xơ gan và khi đánh giá một bệnh nhân 
nghiện rượu. Cho dù xét nghiệm γGT có độ đặc 
hiệu không cao nhưng nồng độ ban đầu của enzym 
này ở một bệnh nhân nghiện rượu có giá trị giúp 
theo dõi sự thay đổi sau đó, là chỉ thị chuẩn đánh giá 
mức độ tiêu thụ rượu của bệnh nhân.
Tiến hành
Xét nghiệm chức năng gan được tiến hành 
bằng cách lấy máu tĩnh mạch. Cần ghi nhận tất cả 
các thuốc đang sử dụng của người bệnh có khả 
năng làm thay đổi kết quả xét nghiệm (bảng 2).
Diễn giải kết quả xét nghiệm
Các rối loạn chức năng chính của gan là suy 
gan (hay suy tế bào gan), ly giải tế bào gan, ứ mật 
(có hoặc không vàng da) và viêm nhu mô gan.
Các transaminase: giá trị của ASAT có thể giảm 
trong thời kỳ mang thai. Ngược lại, việc tiêm 
bắp hoặc tập thể dục cường độ lớn dẫn đến 
tăng lượng ASAT.
- Sự gia tăng transaminase có thể phản ánh 
các rối loạn dinh dưỡng, đặc biệt là chứng béo 
phì (tuy nhiên sự gia tăng này không tương 
quan đến mức độ béo phì), tình trạng đái tháo 
đường kiểm soát kém, hoặc một chế độ ăn quá 
nhiều năng lượng cũng có thể dẫn đến các rối 
loạn về gan.
- ASAT và ALAT tăng đáng kể và tương 
đương nhau (gấp 10 lần giới hạn trên) có thể 
là dấu hiệu của viêm gan cấp hoặc một tổn 
thương cấp tính không viêm gây ra bởi các 
thuốc như paracetamol, thuốc nhóm fibrat 
hoặc các thuốc chống động kinh, ngộ độc do 
nấm (đặc biệt là nấm amanita), hoặc các trường 
hợp tắc ống mật. Nếu tăng vừa phải hoặc không 
liên tục (2 đến 10 lần mức thông thường), tất cả 
các nguyên nhân gây bệnh ở gan và đường mật 
đều bị nghi ngờ.
- Nếu hàm lượng ASAT tăng lớn hơn ALAT, 
nguyên nhân có thể là một tổn thương ở cơ 
(nồng độ creatinine phosphokinase (CPK) cho 
phép khẳng định chẩn đoán), viêm gan do rượu 
hoặc xơ gan.
- Các chướng ngại ở đường mật (sỏi mật, 
khối u) có thể là nguyên nhân gây tăng các 
transaminase. Trong trường hợp có ly giải tế bào 
gan và trong hoại tử cơ, nồng độ của ASAT tăng 
nhiều hơn so với ALAT.
Bảng 2: Các thuốc cần theo dõi chức năng gan khi sử dụng
Có nhiều thuốc có khả năng gây ra hoặc làm trầm trọng hơn rối loạn chức năng gan bao gồm:
- Thuốc giảm đau (paracetamol, các thuốc chống viêm không steroid);
- Thuốc tim mạch (amiodaron, chẹn kênh calci);
- Thuốc chống đông, chống kết tập tiểu cầu (fluindion, rivaroxaban, dabigatran, clopidogrel, prasugrel);
- Thuốc hạ cholesterol máu (các statin, ezetimib, acid nicotinic);
- Kháng sinh (nhóm cyclin, amoxicilin/acid clavulanic, cephalosporin, macrolid, nitrofurantoin, aminosid, 
sulfamethoxazol/trimethoprim, isoniazid, rifampicin);
- Thuốc kháng retrovirus;
- Thuốc chống nấm (terbinafin, ketoconazol);
- Isotretinoin;
- Thuốc hạ đường huyết đường uống (sulfamid, acarbose, glitazon, repaglinid);
- Thuốc ức chế miễn dịch (ciclosporin, azathioprin, methotrexat, thuốc ức chế yếu tố hoại tử khối u alpha (TNF-α), );
- Thuốc chống động kinh (carbamazepin, acid valproic, phenytoin, primidon, gabapentin, lamotrigin, 
levetiracetam, );
- Thuốc điều trị Parkinson (entacapon, tolcapon);
- Thuốc chống trầm cảm (mianserin, mirtazapin, duloxetin, );
- Montelukast;
- Thuốc điều trị gút (allopurinol, febuxostat, probenecid).
Một số loại cây cỏ cũng có thể gây độc gan: hoa chuông, keo gai, tía tô đất, thổ hoàng liên, kava-kava, trà 
xanh, keo lá nhọn, cây mồ hôi, 
γGT
- Sự tăng đơn độc γGT có thể do nhiều nguyên 
nhân: các bệnh lý gan mật, nghiện rượu lâu năm, 
do dùng thuốc (đặc biệt là phenobarbital), béo 
phì, đái tháo đường, tăng lipid máu, cường giáp.
- Tăng đồng thời γGT và các transaminase 
thường gặp trong các trường hợp hoại tử tế bào 
gan, trong khi tăng γGT kèm theo tăng phosphatase 
kiềm có thể là biểu hiện của ứ mật.
Phosphatase kiềm
- Nồng độ photphatase kiềm tăng theo thay 
đổi sinh lý ở trẻ vị thành niên đang trong giai đoạn 
phát triển và trong giai đoạn ba tháng giữa và ba 
tháng cuối của thai kỳ, cũng như trong các bệnh 
lý như ứ mật do sự sản xuất quá nhiều enzym này 
của tế bào gan, bệnh lý về xương bao gồm tăng 
sinh nguyên bào xương (bệnh nhuyễn xương, 
bệnh Paget xương, ung thư xương di căn, ).
3No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
- Phosphatase kiềm giảm thường đi kèm với 
rối loạn chức năng gan nghiêm trọng (suy gan) 
khởi phát bởi xơ gan hoặc viêm gan.
Bilirubin
Tăng bilirubin bệnh lý gây ra vàng da và các 
niêm mạc. Cần phân biệt vàng da do bilirubin 
tự do gây ra bởi sự phá hủy hồng cầu hàng loạt 
(tan huyết) và vàng da do bilirubin liên hợp gây 
ra bởi chít hẹp đường mật (sỏi, khối u đường 
mật hoặc tụy, viêm gan hoặc xơ gan).
Siêu âm gan-mật-tụy có thể được chỉ định 
bổ sung để đưa ra chẩn đoán chính xác.
Thời gian Quick hoặc tỷ số prothrombin
Các yếu tố đông máu được tổng hợp tại gan, 
thời gian Quick kéo dài và tỷ lệ prothrombin giảm 
trong trường hợp suy giảm chức năng gan.
Yếu tố đông máu V
Sự giảm mạnh yếu tố đông máu V đặc hiệu 
cho tình trạng suy gan cấp và là một dấu hiệu 
của tiến triển hay trầm trọng thêm tình trạng 
tổn thương tế bào gan. Nguyên nhân có thể do 
virus (virus viêm gan A hoặc B, Herpes simplex, ), 
ngộ độc (nấm amanit phaloid, rượu, ) hoặc 
do thuốc (ngộ độc paracetamol). Chỉ định ghép 
gan trong viêm gan kịch phát được dựa trên sự 
giảm mạnh nồng độ yếu tố V (<30%).
Albumin
Albumin giảm trong các trường hợp suy tế 
bào gan.
Paracetamol và nhiễm độc gan 
Paracetamol là một trong những thuốc 
được sử dụng nhiều nhất trong các đơn thuốc 
cũng như trong số các thuốc bệnh nhân tự 
dùng (không cần kê đơn). Tuy nhiên, phạm vi 
điều trị của thuốc này tương đối hẹp. Độc tính 
tiềm tàng trên gan của paracetamol dao động 
lớn giữa các cá thể và phụ thuộc rất nhiều vào 
sự có mặt của các yếu tố nguy cơ cũng như liều 
paracetamol sử dụng.
Những yếu tố nguy cơ này dù có mặt riêng 
lẻ hay đồng thời cần được đánh giá khi sử dụng 
paracetamol liều cao và/hoặc kéo dài: ăn kiêng 
hoặc suy dinh dưỡng, nghiện rượu lâu năm, sử 
dụng thường xuyên hoặc lạm dụng paracetamol, 
dùng thuốc gây cảm ứng CYP450 (phenobarbital, 
carbamazepin, phenytoin, rifampicin, ) và các 
bệnh lý gan cấp và mạn tính.
NHIỄM TOAN LACTIC DO METFORMIN,
MỘT NGUY CƠ KHÔNG THỂ BỎ QUA
Nguồn: Actualités pharmaceutiques số 524, tháng 3/2013
Người dịch: Hồ Ngọc Phú, Lê Bá Hải
Nhiễm toan lactic là một tai biến hiếm gặp 
nhưng nghiêm trọng và thường gây tử vong ở 
bệnh nhân. Trong phần lớn các trường hợp xảy 
ra biến cố, metformin được coi là yếu tố tăng 
nặng do có tác dụng ức chế quá trình tân tạo 
glucose từ các cơ chất khác nhau, trong đó có 
lactat. Vì vậy, những bệnh nhân đang điều trị 
bằng metformin cần được rà soát và rất thận 
trọng với những yếu tố nguy cơ liên quan thuộc 
về bệnh nhân. Khi xuất hiện những dấu hiệu 
nghi ngờ đầu tiên, như chuột rút, tình trạng yếu 
cơ, nhược cơ nặng, đau vùng bụng hoặc ngực, 
cần tạm dừng điều trị ngay và xác định nồng 
độ lactat trong máu. Lưu ý, nồng độ metformin 
trong hồng cầu có giá trị tin cậy cao hơn nồng độ 
trong huyết tương.
Nhiễm toan lactic có thể xuất hiện khi xảy 
ra tình trạng tích lũy metformin. Các ca báo cáo 
được ghi nhận chủ yếu trên những bệnh nhân 
đái tháo đường được điều trị bằng metformin, 
có kèm theo tình trạng suy giảm đáng kể chức 
năng thận. Tần suất xuất hiện của biến cố này 
(dao động từ 2-9/100 000 bệnh nhân/năm) có 
thể giảm thông qua đánh giá đầy đủ các yếu tố 
nguy cơ liên quan trên bệnh nhân bao gồm: kiểm 
soát đường huyết kém, nhiễm toan ceton, nhịn ăn 
dài ngày, nghiện rượu, suy gan hay tất cả các bệnh lý 
liên quan đến thiếu oxy.
Nhiễm toan lactic
Nhiễm toan lactic là một trạng thái nhiễm 
toan chuyển hóa do giải phóng ion H+ từ acid 
lactic. Đây là một biến cố hiếm gặp nhưng 
nghiêm trọng, gây tử vong cho khoảng 50% số 
ca được ghi nhận, thường liên quan đến việc kê 
đơn nhóm thuốc biguanid không hợp lý. 
Cơ chế giải thích quá trình nhiễm toan lactic 
do metformin liên quan đến nhiều yếu tố. Trong 
đó, cơ chế chính là ức chế tân tạo glucose từ các 
cơ chất khác nhau, trong đó có lactat. Metformin 
cũng có khả năng thúc đẩy quá trình đường phân 
tạo ra lactat tại ruột.
Những nguyên nhân khác của nhiễm toan 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
lactic cũng cần được xem xét như sốc và các bệnh 
lý liên quan đến tình trạng thiếu oxy mô, suy gan, 
suy thận, kiểm soát đường huyết kém, nhiễm ceton, 
nhịn ăn dài ngày và nghiện rượu, 
Ba tình huống lâm sàng
Nhiễm toan lactic "liên quan đến metformin" 
được chia thành 3 trường hợp riêng biệt:
- Nhiễm toan lactic do các nguyên nhân 
khác, sự có mặt của metformin không được xác 
định: tiên lượng kém.
- Metformin là nguyên nhân chính gây 
nhiễm toan lactic: tiên lượng tốt hơn.
- Tích lũy metformin làm nặng thêm các nguyên 
nhân khác gây nhiễm toan lactic: thường xảy ra nhất.
Suy thận là nguyên nhân chính gây tích lũy 
metformin. Nhiễm toan lactic được báo cáo ở những 
bệnh nhân điều trị bằng metformin đ ... ụng bất kỳ thuốc nào khác.
15No.2 - 2016 | Bulletin of Pharmacovigilance |
lớn khác đánh giá tính an toàn tương đối của 
rivaroxaban cho thấy nhóm bệnh nhân sử dụng 
rivaroxaban có tỷ lệ gặp biến cố chảy máu 
tương đương với nhóm bệnh nhân sử dụng 
warfarin. CHMP kết luận cân bằng lợi ích - nguy 
cơ của rivaroxaban trên bệnh nhân có rung nhĩ 
không do bệnh van tim không thay đổi.
Thuốc không kê đơn chứa pseudoephedrin: 
đánh giá nguy cơ gây viêm và thiếu máu 
cục bộ đại tràng 
Ngày 24/02/2016, sau khi kết thúc quá trình 
rà soát độ an toàn thuốc, Health Canada kết luận 
có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên quan 
giữa biến cố thiếu máu cục bộ đại tràng và 
việc sử dụng pseudoephedrin không thường 
xuyên với liều dùng và thời gian dùng thuốc tuân 
thủ theo khuyến cáo, đồng thời không có các yếu 
tố nguy cơ khác.
Pseudoephedrin là một thuốc không kê đơn 
dùng để điều trị nghẹt mũi do tăng tiết dịch hoặc 
chất nhày. Thiếu máu cục bộ đại tràng là tình trạng 
viêm và tổn thương đại tràng do giảm tưới máu. 
Health Canada đã tiến hành rà soát độ an toàn của 
pseudoephedrin sau khi một trường hợp thiếu 
máu cục bộ đại tràng nặng được công bố trên các 
tài liệu khoa học. Tuy nhiên, ở thời điểm tiến hành 
quá trình rà soát, tại Canada chưa ghi nhận trường 
hợp thiếu máu cục bộ đại tràng nào liên quan đến 
việc sử dụng pseudoephedrin. Vigibase đã ghi nhận 
24 trường hợp thiếu máu cục bộ đại tràng, trong 
đó có 7 trường hợp pseudoephedrin là thuốc sử 
dụng duy nhất. Các thông tin thu được không 
đầy đủ để có thể tiến hành đánh giá 24 trường 
hợp này. Y văn cũng đã ghi nhận 9 trường hợp 
thiếu máu cục bộ đại tràng liên quan đến việc 
sử dụng pseudoephedrin: 6 trường hợp bệnh 
nhân có các yếu tố nguy cơ khác, 2 trường hợp 
thông tin không đầy đủ để đánh giá và 1 trường 
hợp mối liên quan giữa biến cố thiếu máu cục 
bộ đại tràng và việc sử dụng pseudoephedrin 
được đánh giá ở mức có khả năng.
Nguy cơ tăng huyết áp động mạch phổi khi 
sử dụng interferon alpha và beta 
Tháng 7/2014, một tín hiệu về tăng huyết 
áp động mạch phổi liên quan tới việc sử dụng 
interferon alpha và beta đã được Pháp báo cho 
PRAC. Theo kết quả rà soát của PRAC đưa ra 
trong tháng 4/2015, tăng huyết áp động mạch 
phổi là một tác dụng không mong muốn của 
các thuốc interferon và cần cập nhật vào tờ 
Thông tin sản phẩm. 
Interferon alpha và beta được sử dụng cho 
các chỉ định như đa xơ hóa, viêm gan, ung thư 
biểu mô, ung thư hạch, bệnh bạch cầu và u tủy. 
Hiện tờ Thông tin sản phẩm của interferon tại New 
Zealand mới chỉ nhắc đến tăng huyết áp, chưa có 
tăng huyết áp động mạch phổi. PRAC nhận định 
đây là một biến cố bất lợi tuy nghiêm trọng nhưng 
hiếm gặp. Ngoài ra, tại New Zealand, việc sử dụng 
interferon ngày càng ít đi do có các thuốc thay thế 
khác. Bên cạnh đó, các bằng chứng hiện có về nguy 
cơ này còn chưa đủ thuyết phục và các thông tin 
chủ yếu dựa trên các báo cáo về các trường hợp 
đơn lẻ. Thực tế trong nhiều trường hợp còn có các 
yếu tố gây nhiễu như: tiền sử bệnh nhân, bệnh 
mắc kèm và các thuốc dùng đồng thời khác. Tuy 
vậy, PRAC ghi nhận các trường hợp bệnh nhân 
cải thiện sau khi ngừng dùng interferon và thảo 
luận về việc nguy cơ tăng huyết áp động mạch 
phổi liên quan đến cả interferon alpha và beta 
hay chỉ một loại.
PRAC khuyến cáo Medsafe yêu cầu các nhà 
sản xuất các thuốc chứa interferon alpha và beta 
bổ sung tăng huyết áp động mạch phổi vào mục 
tác dụng không mong muốn trong tờ hướng dẫn 
sử dụng thuốc.
Các thuốc kháng virus tác dụng trực tiếp 
trong điều trị viêm gan virus C 
Trong cuộc họp hàng tháng, được tổ chức 
từ ngày 11 đến 14/4/2016 tại London, PRAC tiếp 
tục đánh giá các nguy cơ tái hoạt động của virus 
viêm gan B trên một số bệnh nhân đồng nhiễm 
virus viêm gan B và C và đánh giá nguy cơ tái phát 
của ung thư biểu mô tế bào gan của thuốc kháng 
virus viêm gan C tác dụng trực tiếp [daclatasvir 
(Daklinza), dasabuvir (Exviera), sofosbuvir/ledipasvir 
(Harvoni), simeprevir (Olysio), sofosbuvir (Sovaldi), 
ombitasvir/paritaprevir/ritonavir (Viekirax)].
Tháng 3/2016, PRAC đã bắt đầu đánh giá các 
dữ liệu hiện có về nguy cơ tái hoạt động của virus 
viêm gan B trên một số bệnh nhân đồng nhiễm 
virus B và C trong điều trị viêm gan C bằng các 
thuốc kháng virus tác dụng trực tiếp nêu trên. 
Hiện tượng tái hoạt động, dù đã khá rõ ràng 
và được đề cập đến trong các khuyến cáo điều 
trị, có thể tăng lên đáng kể khi sử dụng thuốc 
kháng virus tác dụng trực tiếp, do tác dụng 
mạnh hơn của thuốc trên virus viêm gan C và 
không có hiệu lực đối với virus B, điều này trái 
ngược hoàn toàn với interferon.
Theo kết quả của một nghiên cứu ở Tây Ban 
Nha mới công bố, nhóm bệnh nhân có tiền sử ung 
thư biểu mô tế bào gan được điều trị bằng thuốc 
kháng virus tác dụng trực tiếp có thể có nguy cơ 
tái phát sớm hơn dự kiến ung thư biểu mô tế bào 
gan so với nhóm bệnh nhân không điều trị bằng 
các thuốc kháng virus và sự khác nhau này có khả 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 - 2016
Trung tâm DI & ADR Quốc gia
năng liên quan đến quá trình miễn dịch và viêm 
thứ cấp sau khi giảm nhanh chóng nồng độ virus. 
Do vậy, PRAC đã quyết định đưa việc đánh giá 
tín hiệu này vào trong bản rà soát về nguy cơ viêm 
gan B tái hoạt động. Trong thời gian chờ kết quả, 
ANSM nhấn mạnh tầm quan trọng của tín hiệu 
liên quan đến việc sử dụng thuốc kháng virus tác 
dụng trực tiếp trong việc giám sát các bệnh nhân 
nhiễm viêm gan virus C.
Lạm dụng các thuốc giảm ho và kháng histamin 
trên trẻ vị thành niên và thanh niên
Dựa trên bằng chứng về việc lạm dụng các 
thuốc giảm ho opioid và kháng histamin H1 với 
mục đích giải trí ở đối tượng trẻ vị thành niên 
và thanh niên, ANSM đã cảnh báo về việc lạm 
dụng các thuốc này trong giới trẻ, cả trong 
trường hợp bán theo đơn hoặc bán không cần 
đơn. Tại Pháp, việc sử dụng một loại nước uống 
dạng siro có tên là "nước tím" (purple drank) với 
thành phần chính là codein, promethazin và 
soda đã xuất hiện tín hiệu về sự lạm dụng và 
dùng thuốc sai mục đích. Loại đồ uống này xuất 
hiện từ cuối những năm 1990 tại Mỹ và hiện 
đang trở thành một vấn đề nhức nhối đối với 
sức khỏe của giới trẻ. Từ năm 2013, những tín 
hiệu đầu tiên đã được báo cáo trong hệ thống 
Cảnh giác các thuốc gây nghiện của Pháp về 
việc lạm dụng các thuốc giảm ho opioid và 
kháng histamin H1. Các triệu chứng và biểu 
hiện bao gồm buồn ngủ, rối loạn hành vi (kích 
động, lú lẫn hoặc hoang tưởng) và cơn động 
kinh toàn thể. Vấn nạn lạm dụng dẫn đến nhập 
viện diễn ra ở cả nam và nữ, chủ yếu ở độ tuổi 
vị thành niên (từ 12 tuổi trở lên) và thanh niên. 
Trong bối cảnh tín hiệu về lạm dụng thuốc này 
trên nhóm đối tượng rất nhạy cảm gia tăng một 
cách nhanh chóng và có bằng chứng rõ ràng, 
ANSM đã cảnh báo nguy cơ này tới các dược sĩ, 
bác sĩ và khuyến cáo cần đặc biệt thận trọng với 
mọi yêu cầu sử dụng các thuốc có chứa các dẫn 
xuất opiat hoặc kháng histamin, cùng các biểu 
hiện nghi ngờ lạm dụng thuốc, đặc biệt ở trẻ vị 
thành niên và thanh niên. 
Fusafungin: Rút số đăng ký của các chế 
phẩm có chứa fusafungin dạng xịt được sử 
dụng trong nhiễm khuẩn đường hô hấp ở 
châu Âu
Ngày 12/02/2016, PRAC đã chính thức ra 
khuyến cáo rút số đăng ký và ngừng lưu hành 
các biệt dược chứa fusafungin. Khuyến cáo này 
được đưa ra sau khi PRAC tiến hành đánh giá các 
dữ liệu hiện có và nhận thấy fusafungin có thể 
gây ra những phản ứng dị ứng nghiêm trọng và 
lợi ích của thuốc không vượt trội nguy cơ. Ngày 
01/4/2016, Nhóm điều phối thuốc sử dụng trên 
người được phê duyệt theo quy trình không tập 
trung và thừa nhận lẫn nhau (CMDh) đã chính thức 
phê duyệt rút số đăng ký của các chế phẩm này.
Fusafungin là một kháng sinh và các chế phẩm 
dạng xịt mũi, xịt họng có chứa fusafungin được sử 
dụng trong điều trị nhiễm khuẩn đường hô hấp 
trên như viêm xoang và viêm amidan. Phần lớn các 
phản ứng dị ứng nghiêm trọng xảy ra ngay sau khi 
sử dụng thuốc, gây co thắt phế quản, co rút quá 
mức và co rút kéo dài các cơ hô hấp dẫn tới khó thở. 
Mặc dù các phản ứng nghiêm trọng khi sử dụng 
fusafungin hiếm khi xảy ra nhưng có thể đe dọa tính 
mạng bệnh nhân và hiện không có phương pháp 
nào đủ hữu hiệu để giảm thiểu nguy cơ này.
Mặt khác, bằng chứng về lợi ích của fusafungin 
còn hạn chế, xét trên bối cảnh thuốc thường được 
sử dụng trong những bệnh đường hô hấp trên 
mức độ nhẹ thì lợi ích của fusafungin không vượt 
trội hơn so với nguy cơ. Ngoài ra, CMDh cũng bày 
tỏ lo ngại về khả năng fusafungin có thể thúc đẩy 
tình trạng kháng kháng sinh dù chưa có đầy đủ 
bằng chứng.
Do vậy, CMDh kết luận rằng nguy cơ khi sử 
dụng fusafungin lớn hơn lợi ích mà thuốc mang 
lại và quyết định rút số đăng ký của các thuốc có 
chứa fusafungin trên lãnh thổ châu Âu.
Nguy cơ phản ứng có hại trên tim mạch của 
các thuốc có chứa strontium
Sau cảnh báo của EMA về việc sử dụng 
strontium ranelat kê đơn liều 680 mg/ngày, 
Health Canada đã tiến hành rà soát về độ an 
toàn của thuốc này. Theo cảnh báo của EMA, 
liều strontium ranelat 680 mg/ngày có hiệu quả 
trong điều trị loãng xương nặng nhưng không 
nên sử dụng ở bệnh nhân đang mắc các bệnh 
tim mạch. Tại thời điểm tiến hành rà soát, Health 
Canada chưa phát hiện được thông tin nào về 
nguy cơ tim mạch đối với strontium ranelat ở 
mức liều dưới 680 mg/ngày hoặc với các dạng 
muối khác của strontium ngoài ranelat (citrat, 
lactat, gluconat) ở mọi mức liều. 
Khi vẫn chưa chắc chắn về vấn đề này, 
Health Canada vẫn tiến hành một số biện pháp 
thận trọng như khuyến cáo cập nhật nguy cơ 
này vào tờ Thông tin sản phẩm của thuốc chứa 
strontium và cảnh báo người đang có bệnh tim 
mạch như đau tim, đột quỵ hoặc có huyết khối, 
không nên sử dụng các thuốc này. 
D. PHẦN THẨM ĐỊNH ADR CỦA ĐƠN VỊ 
17. Đánh giá mối liên quan giữa thuốc và ADR 
Chắc chắn 
Có khả năng 
Có thể 
Không chắc chắn 
Chưa phân loại 
Không thể phân loại 
 Khác :. 
 .. 
 .. 
18. Đơn vị thẩm định ADR theo thang nào? 
Thang WHO Thang Naranjo Thang khác: 
19. Phần bình luận của cán bộ y tế (nếu có) 
E. THÔNG TIN VỀ NGƯỜI BÁO CÁO 
20. Họ và tên:.......................................... Nghề nghiệp/Chức vụ: 
 Điện thoại liên lạc: Email:. 
21. Chữ ký 
22. Dạng báo cáo: Lần đầu/ Bổ sung 23. Ngày báo cáo:/../ 
Xin chân thành cảm ơn! 
 HƯỚNG DẪN LÀM BÁO CÁO 
Xin hãy báo cáo tất cả các phản ứng có 
hại mà anh/chị nghi ngờ, đặc biệt khi: 
Các phản ứng liên quan tới thuốc mới 
Các phản ứng không mong muốn 
hoặc chưa được biết đến 
Các phản ứng nghiêm trọng 
Tương tác thuốc 
Thất bại trong điều trị 
Các vấn đề về chất lượng thuốc 
Các sai sót trong quá trình sử dụng 
thuốc. 
Mẫu báo cáo này được áp dụng cho các 
phản ứng gây ra bởi: 
Thuốc và các chế phẩm sinh học 
Vắc xin 
Các thuốc cổ truyền hoặc thuốc có 
nguồn gốc dược liệu 
Thực phẩm chức năng. 
Người báo cáo có thể là: 
Bác sĩ 
Dược sĩ 
Nha sĩ 
Y tá/ điều dưỡng/nữ hộ sinh 
Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc 
sức khỏe khác. 
Cách báo cáo: 
Điền thông tin vào mẫu báo cáo 
Chỉ cần điền những phần anh/chị có thông tin 
Có thể đính kèm thêm một vài trang (nếu mẫu báo cáo không đủ khoảng trống để 
điền thông tin hay có những xét nghiệm liên quan). 
Xin hãy gửi báo cáo về Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản 
ứng có hại của thuốc theo các địa chỉ sau: 
Thư: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng 
có hại của thuốc 
 Trường Đại học Dược Hà Nội 
 13-15 Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Fax: (04) 3933 5642 
Điện thoại: (04) 3933 5618 
Website:  
Email: di.pvcenter@gmail.com 
Anh/chị có thể lấy mẫu báo cáo này tại khoa Dược, phòng Kế hoạch tổng 
hợp của bệnh viện hoặc tải từ trang web  Nếu có bất 
kỳ thắc mắc nào, anh/chị có thể liên hệ với Trung tâm Quốc gia về Thông tin 
thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc theo số điện thoại: (04) 3933 5618
hoặc theo địa chỉ email di.pvcenter@gmail.com. 
Phần dành cho Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
1. Gửi xác nhận tới đơn vị báo cáo 3. Phản ứng đã có trong y văn/ SPC/ CSDL 
2. Phân loại phản ứng 
 Thuốc mới Thuốc cũ 
 Nghiêm trọng Không nghiêm trọng 
 4. Nhập dữ liệu vào hệ cơ sở dữ liệu quốc gia 
5. Nhập dữ liệu vào phần mềm Vigiflow 
6. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng 
 Đe dọa tính mạng/ gây tử vong Nhập viện/ kéo dài thời gian nằm viện Gây dị tật/ tàn tật Liên quan tới lạm dụng/ phụ thuộc thuốc 
7. Gửi báo cáo tới hội đồng thẩm định Ngày gửi ..../.../. 8. Gửi báo cáo cho UMC 
 Ngày gửi 
...../.../... 
9. Kết quả thẩm định 
Chắc chắn 
Có khả năng 
Có thể 
Không chắc chắn 
Chưa phân loại 
Không thể phân loại 
 Khác: 
10. Người quản lý báo cáo 
 11. Ngày:../../.. 
12. Chữ ký 
Phụ lục 5: Thông tư số 23/2011/TT-BYT: Hướng dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở y tế có giường bệnh
Phụ lục 5 
BÁO CÁO PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC 
THÔNG TIN VỀ NGƯỜI BÁO CÁO, BỆNH NHÂN VÀ ĐƠN VỊ BÁO CÁO 
SẼ ĐƯỢC BẢO MẬT 
Nơi báo cáo: 
Mã số báo cáo của đơn vị: 
Mã số báo cáo (do Trung tâm quốc gia quản lý): 
.. 
Xin anh/chị hãy báo cáo kể cả khi không chắc chắn về sản phẩm đã gây ra phản ứng và/hoặc không có đầy đủ các thông tin 
A. THÔNG TIN VỀ BỆNH NHÂN 
1. Họ và tên:........................................ 2. Ngày sinh:.../.../ Hoặc tuổi:......... 
3. Giới tính 
 Nam Nữ 
4. Cân nặng: 
....kg 
B. THÔNG TIN VỀ PHẢN ỨNG CÓ HẠI (ADR) 
5. Ngày xuất hiện phản ứng:..../.../.. 6. Phản ứng xuất hiện sau bao lâu (tính từ lần dùng cuối cùng của thuốc nghi ngờ): 
7. Mô tả biểu hiện ADR 
8. Các xét nghiệm liên quan đến phản ứng 
9. Tiền sử (dị ứng, thai nghén, nghiện thuốc lá, nghiện rượu, bệnh 
gan, bệnh thận) 
10. Cách xử trí phản ứng 
11. Mức độ nghiêm trọng của phản ứng 
 Tử vong 
 Đe dọa tính mạng 
 Nhập viện/Kéo dài thời gian nằm viện 
 Tàn tật vĩnh viễn/nặng nề 
 Dị tật thai nhi 
 Không nghiêm trọng 
12. Kết quả sau khi xử trí phản ứng 
 Tử vong do ADR 
 Tử vong không liên quan đến thuốc 
 Chưa hồi phục 
 Đang hồi phục 
 Hồi phục có di chứng 
 Hồi phục không có di chứng 
 Không rõ 
C. THÔNG TIN VỀ THUỐC NGHI NGỜ GÂY ADR 
S
T
T 
13.Thuốc (tên gốc và 
tên thương mại) 
Dạng 
bào chế, 
hàm 
lượng 
Nhà 
sản xuất Số lô 
Liều 
dùng 
một lần 
Số lần 
dùng 
trong 
ngày/ 
tuần/ 
tháng. 
Đường 
dùng 
Ngày điều trị 
(Ngày/tháng/năm) 
Lý do dùng thuốc 
Bắt đầu Kết thúc 
i 
ii 
iii 
iv 
STT 
(Tương 
ứng 13.) 
14.Sau khi ngừng/giảm liều của thuốc bị nghi ngờ, phản ứng có 
được cải thiện không? 
15.Tái sử dụng thuốc bị nghi ngờ có xuất hiện lại phản ứng 
không? 
Có Không Không ngừng/giảm liều Không có thông tin Có Không Không tái sử dụng Không có thông tin 
i 
ii 
iii 
iv 
16. Các thuốc dùng đồng thời (Ngoại trừ các thuốc dùng điều trị/ khắc phục hậu quả của ADR) 
Tên thuốc Dạng bào chế, hàm lượng 
Ngày điều trị (ngày/tháng/năm) 
Tên thuốc Dạng bào chế, hàm lượng 
Ngày điều trị (ngày/tháng/năm) 
Bắt đầu Kết thúc Bắt đầu Kết thúc 

File đính kèm:

  • pdfban_tin_canh_giac_duoc_so_22016.pdf