Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2018

Bệnh tim mạch tiếp tục là nguyên nhân

hàng đầu gây tử vong ở cả nam và nữ giới ở

Hoa Kỳ. Một nghiên cứu về nguyên nhân tử

vong trên bệnh nhân đái tháo đường đã

đánh giá 123.205 ca tử vong trong số

823.900 người và phát hiện tử vong do mọi

nguyên nhân tăng 1,8 lần (95% CI:

1,71-1,90); tử vong liên quan đến mạch máu

tăng 2,32 lần (95% CI: 2,11-2,56); tử vong

do ung thư tăng 1,25 lần (95% CI:

1,19-1,31) và tử vong do nguyên nhân khác

tăng 1,73 lần (95% CI: 1,62-1,85). Các vấn

đề tim mạch là một trong những biến chứng

của đái tháo đường typ 1 và typ 2 không

được điều trị hoặc được kiểm soát kém.

Năm 2014, Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ

(ADA) và Hội Tim Hoa Kỳ (AHA) đã công bố

một báo cáo chung về kết cục tim mạch ở

bệnh nhân đái tháo đường typ 1 (T1DM).

Theo đó, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ lớn

đối với bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo

đường typ 1, và là yếu tố nguy cơ trung bình

với đái tháo đường typ 2 (T2DM); tăng lipid

máu và kháng insulin cũng là các yếu tố

đáng kể góp phần gây ra các bệnh tim mạch

với T2DM, và là tác nhân trung bình với

T1DM. Albumin niệu vi thể và kiểm soát

đường huyết kém là các yếu tố liên quan

chặt chẽ nhất với bệnh tim mạch ở cả T1DM

và T2DM. Các thuốc đóng vai trò quan trọng

trong điều chỉnh các yếu tố nguy cơ cũng

được đề cập trong báo cáo của ADA/AHA.

Bài viết này sẽ tập trung trao đổi về việc

kiểm soát đường huyết và sử dụng thuốc

điều trị đái tháo đường để giảm thiểu các kết

quả bất lợi trên tim mạch.

pdf 20 trang yennguyen 4460
Bạn đang xem tài liệu "Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2018

Bản tin Cảnh giác dược - Số 2/2018
Môc lôc 
Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình 
Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh 
Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy 
ThS. Đặng Bích Việt 
DS. Lương Anh Tùng 
Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - 
Trường Đại học Dược Hà Nội. 
Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội 
Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 
GI¶M THIÓU BIÕN Cè TIM M¹CH 
LI£N QUAN §ÕN C¸C THUèC CHèNG 
T¡NG §¦êNG HUYÕT ë BÖNH NH¢N 
§¸I TH¸O §¦êNG 
1 
PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC C¶N 
QUANG CHøA IOD 
6 
TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O 
PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
(Giai ®o¹n th¸ng 11/2017 
- th¸ng 4/2018) 
11 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 15 
Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến  
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
No.2 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 
GI¶M THIÓU BIÕN Cè TIM M¹CH LI£N QUAN §ÕN C¸C THUèC 
CHèNG T¡NG §¦êNG HUYÕT ë BÖNH NH¢N §¸I TH¸O §¦êNG 
Nguồn: US Pharm. 2018:43(2)32-36 
Người dịch: Từ Phạm Hiền Trang, Lương Anh Tùng 
TÓM TẮT: Bệnh tim mạch tiếp tục là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong tại Hoa Kỳ. Đái 
tháo đường (typ 1 và typ 2) làm tăng nguy cơ các biến cố tim mạch, tử vong do tim mạch và 
tử vong do ung thư. Có nhiều biện pháp giúp cải thiện kết cục tim mạch ở bệnh nhân đái 
tháo đường đã được áp dụng, bao gồm kiểm soát tăng huyết áp, điều trị rối loạn lipid máu, 
sử dụng thuốc chống kết tập tiểu cầu và kiểm soát đường huyết. Việc xác định nồng độ 
đường huyết mục tiêu hợp lý nhất dựa trên bằng chứng vẫn còn gây tranh cãi. Hiện nay đã 
có thêm nhiều bằng chứng và các phê duyệt gần đây của FDA Hoa Kỳ cho một số thuốc điều 
trị đái tháo đường, bao gồm các thuốc ức chế SGLT-2 và thuốc chủ vận GLP-1, với mục đích 
cải thiện kết cục tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. 
Bệnh tim mạch tiếp tục là nguyên nhân 
hàng đầu gây tử vong ở cả nam và nữ giới ở 
Hoa Kỳ. Một nghiên cứu về nguyên nhân tử 
vong trên bệnh nhân đái tháo đường đã 
đánh giá 123.205 ca tử vong trong số 
823.900 người và phát hiện tử vong do mọi 
nguyên nhân tăng 1,8 lần (95% CI: 
1,71-1,90); tử vong liên quan đến mạch máu 
tăng 2,32 lần (95% CI: 2,11-2,56); tử vong 
do ung thư tăng 1,25 lần (95% CI: 
1,19-1,31) và tử vong do nguyên nhân khác 
tăng 1,73 lần (95% CI: 1,62-1,85). Các vấn 
đề tim mạch là một trong những biến chứng 
của đái tháo đường typ 1 và typ 2 không 
được điều trị hoặc được kiểm soát kém. 
Năm 2014, Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 
(ADA) và Hội Tim Hoa Kỳ (AHA) đã công bố 
một báo cáo chung về kết cục tim mạch ở 
bệnh nhân đái tháo đường typ 1 (T1DM). 
Theo đó, tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ lớn 
đối với bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo 
đường typ 1, và là yếu tố nguy cơ trung bình 
với đái tháo đường typ 2 (T2DM); tăng lipid 
máu và kháng insulin cũng là các yếu tố 
đáng kể góp phần gây ra các bệnh tim mạch 
với T2DM, và là tác nhân trung bình với 
T1DM. Albumin niệu vi thể và kiểm soát 
đường huyết kém là các yếu tố liên quan 
chặt chẽ nhất với bệnh tim mạch ở cả T1DM 
và T2DM. Các thuốc đóng vai trò quan trọng 
trong điều chỉnh các yếu tố nguy cơ cũng 
được đề cập trong báo cáo của ADA/AHA. 
Bài viết này sẽ tập trung trao đổi về việc 
kiểm soát đường huyết và sử dụng thuốc 
điều trị đái tháo đường để giảm thiểu các kết 
quả bất lợi trên tim mạch. 
Một nghiên cứu tiến cứu về đái tháo 
đường tại Anh (UKPDS 33) cho thấy kiểm 
soát đường huyết tích cực (thường với 
insulin hoặc một sulfonylure) dẫn đến giảm 
đáng kể (12%; p<0,03) tất cả các tiêu chí 
liên quan đến đái tháo đường ở bệnh nhân 
T2DM. Phần lớn tác dụng là góp phần làm 
giảm các biến chứng mạch máu. Đáng chú ý, 
các chỉ tiêu lâm sàng liên quan đến đái tháo 
đường giảm 24% (p<0,005) được ghi nhận 
khi huyết áp được kiểm soát tích cực. Lợi ích 
đáng kể tiếp tục tồn tại trong 10 năm sau 
khi kết thúc thử nghiệm - giảm 9% các chỉ 
tiêu lâm sàng liên quan đến đái tháo đường 
- trong nhóm điều trị tích cực, trên những 
đối tượng ban đầu được phân ngẫu nhiên sử 
dụng liệu pháp hạ glucose máu. 
MỤC TIÊU ĐƯỜNG HUYẾT VÀ KIỂM 
SOÁT ĐƯỜNG HUYẾT 
Việc xác định mục tiêu đường huyết chính 
xác để giảm thiểu các biến cố tim mạch trên 
bệnh nhân đái tháo đường còn gặp khó 
khăn, đồng thời giá trị HbA1c mục tiêu đề 
xuất còn gây tranh cãi. Trong một số thử 
nghiệm về đái tháo đường (UKPDS, DCCT), 
các biện pháp can thiệp tích cực hơn và mức 
HbA1c thấp hơn đã cho thấy sự cải thiện các 
kết cục trên bệnh nhân. Tuy nhiên, với mục 
tiêu HbA1c thấp hơn nhiều (dưới 6%), kết 
cục tim mạch và tử vong lại trầm trọng hơn 
so với mục tiêu ở mức độ vừa phải 
(7,0-7,9%). Trong thử nghiệm ACCORD, sự 
gia tăng tỷ lệ tử vong có thể liên quan đến 
gia tăng tỷ lệ hạ đường huyết nặng trong 
nhóm điều trị tích cực, hơn nữa vẫn chưa 
xác định được liệu các mục tiêu HbA1c thấp 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2018 
hơn có đem lại lợi ích hay không trong 
trường hợp không xuất hiện hạ đường huyết 
quá mức. Mục tiêu HbA1c được chấp nhận 
phổ biến nhất với hầu hết các bệnh nhân 
T1DM và T2DM là <7,0% trong trường hợp 
có thể giảm thiểu hạ đường huyết. 
INSULIN VỚI T1DM 
T1DM không được điều trị sẽ dẫn đến tử 
vong. Chỉ có insulin ngoại sinh mới có thể 
duy trì cuộc sống ở những bệnh nhân này, 
trong khi các liệu pháp khác cũng có thể đem 
lại lợi ích nhưng chỉ có tính bổ trợ. Một số 
vấn đề chính từ công bố của ADA/AHA liên 
quan đến kiểm soát đường huyết và tác dụng 
của insulin ở bệnh nhân T1DM bao gồm: 
- Kiểm soát đường huyết tối ưu sớm ở 
bệnh nhân T1DM đem lại những lợi ích lâu 
dài đối với bệnh tim mạch. 
- Tình trạng béo phì và kháng insulin liên 
quan ở bệnh nhân T1DM đang gia tăng. 
- Dữ liệu về những thay đổi của béo phì 
hoặc kháng insulin trên bệnh nhân T1DM còn 
hạn chế. 
- Một số bằng chứng cho thấy tăng cân 
trong trường hợp có cải thiện kiểm soát 
đường huyết liên quan đến giảm nguy cơ tim 
mạch. 
Có thể nói, việc sử dụng insulin ở bệnh 
nhân T1DM hợp lý nhất (cũng như tất cả các 
thuốc điều trị T1DM hoặc T2DM) khi đạt 
được kiểm soát đường huyết phù hợp trong 
khi vẫn giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết. 
Với mục đích này, liệu pháp bơm insulin 
(insulin-pump) gần đây tỏ ra vượt trội hơn so 
với insulin tiêm dưới da (sc insulin) do có tỷ 
lệ hạ đường huyết nặng và nhiễm toan ceton 
thấp hơn. Điều này rất đáng chú ý do bơm 
insulin có thể giúp cải thiện kiểm soát đường 
huyết ở trẻ em, thanh thiếu niên và người 
trưởng thành trẻ tuổi mắc T1DM. Trong khi 
đó, với T2DM, bằng chứng lớn nhất về điều 
trị đặc hiệu làm thay đổi kết cục tim mạch 
dựa trên những thử nghiệm lâm sàng gần 
đây liên quan đến các thuốc tương đối mới. 
CÁC THUỐC ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU CHO 
T2DM 
Khác với T1DM, T2DM không hoàn toàn 
bắt buộc bệnh nhân sử dụng insulin và T2DM 
có nhiều lựa chọn điều trị khác nhau. Một số 
thuốc điều trị T2DM mới nhất, bao gồm 
thuốc ức chế kênh đồng vận chuyển 
natri-glucose 2 (SGLT-2) và thuốc tương tự 
peptid-1 giống glucagon (GLP-1), đã chứng 
minh khả năng làm giảm các biến chứng tim 
mạch trong T2DM; trong đó, một số thuốc đã 
có chỉ định trong bảo vệ tim mạch được FDA 
Hoa Kỳ phê duyệt. Do sự gia tăng liên tục dữ 
liệu trên tim mạch từ các thử nghiệm lâm 
sàng liên quan đến các thuốc điều trị T2DM, 
có thể sẽ có thêm các thuốc được công nhận 
khả năng làm giảm nguy cơ biến chứng tim 
mạch trong tương lai. Các thuốc được rà soát 
về biến chứng tim mạch dưới đây bao gồm 
metformin, thuốc ức chế SGLT-2, thuốc chủ 
vận GLP-1, thuốc ức chế dipeptidyl 
peptidase-4 (DPP-4) và các thiazolidinedion 
(TZD) (bảng 1). 
METFORMIN 
Trong các hướng dẫn điều trị, metformin 
được coi là thuốc đầu tay (trong trường hợp 
không cần điều trị bằng insulin ngay lập tức) 
phối hợp với điều chỉnh lối sống ở hầu hết 
các bệnh nhân T2DM không có rối loạn chức 
năng thận (mức lọc cầu thận ước tính 
>45 mL/phút) và không có các chống chỉ 
định khác. Thuốc thường được dung nạp tốt, 
chi phí điều trị tương đối thấp, ít có nguy cơ 
hạ đường huyết và có tác dụng làm giảm 
nồng độ HbA1c tương tự các thuốc khác 
ngoài insulin. Một số lo ngại đáng lưu ý liên 
quan đến việc sử dụng metformin bao gồm 
nhiễm toan lactic và rối loạn tiêu hóa do 
không dung nạp. 
Trong nghiên cứu UKPDS 34, những ưu 
điểm và nhược điểm của metformin trong 
kiểm soát đường huyết tích cực trên các 
bệnh nhân thừa cân mới được chẩn đoán 
mắc T2DM đã được đánh giá. So với điều trị 
thông thường, liệu pháp metformin ở những 
bệnh nhân này đạt được kết quả ấn tượng, 
làm giảm 32% (p=0,002) về bất kỳ chỉ tiêu 
nào liên quan đến đái tháo đường. Metformin 
có thể làm giảm đột quỵ (p=0,032), giảm tử 
vong do mọi nguyên nhân (p=0,021) và giảm 
42% tử vong do đái tháo đường (p=0,017). 
So với các thuốc khác, bao gồm các 
sulfonylure và insulin, metformin gây tăng 
cân ít hơn và ít có nguy cơ hạ đường huyết 
hơn. Có mối lo ngại trên những bệnh nhân 
đã dùng sulfonylure với liều tối đa được phân 
ngẫu nhiên sử dụng metformin sớm (bệnh 
nhân chưa có triệu chứng tăng đường 
No.2 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 
Bảng 1: Một số thuốc và nhóm thuốc chống tăng đường huyết 
Tên thuốc Nhóm Cơ chế tác dụng Thử nghiệm lâm sàng/Lợi ích 
trên tim mạch và lợi ích khác 
Insulin Hormon 
peptid 
Chất điều phối chính của 
quá trình vận chuyển 
glucose vào trong tế bào, 
bao gồm gan, mỡ và mô cơ. 
Có nhiều tác dụng đồng hóa 
bổ sung. 
Đây là hormon bổ sung cần thiết 
cho bệnh nhân T1DM. 
Metformin Biguanid Chủ yếu làm giảm quá trình 
hình thành glucose ở gan, 
kết hợp với các tác dụng 
khác ở mức độ khiêm tốn 
nhưng có thể đem lại lợi 
ích. 
UKPDS 34: Có liên quan đến giảm 
đột quỵ, tử vong do mọi nguyên 
nhân và tử vong liên quan đến 
đái tháo đường. Một số nghiên 
cứu cho thấy có cải thiện kết cục 
tim mạch, đặc biệt khi so sánh với 
các sulfonylure. 
Glipizid và 
một số thuốc 
khác 
Sulfonylure Tăng tiết insulin nội sinh từ 
tế bào beta tuyến tụy. 
UKPDS 33: Giảm 12% mọi chỉ tiêu 
liên quan đến đái tháo đường (so 
với liệu pháp không sử dụng 
thuốc); chủ yếu góp phần giảm 
thiểu biến cố mạch máu nhỏ. 
Empagliflozin, 
canagliflozin 
và một số 
thuốc khác 
Thuốc ức 
chế 
SGLT-2 
Giảm ngưỡng bài tiết qua 
thận của glucose và bài tiết 
đồng thời natri và nước. 
EMPA-RED OUTCOME: Giảm 14% 
các trường hợp tử vong do tim 
mạch, nhồi máu cơ tim không gây 
tử vong, đột quỵ không gây tử 
vong. 
CANVAS: Giảm tử vong do tim 
mạch, nhưng có thể tăng nguy cơ 
cắt cụt chi. 
Liraglutid, 
exenatid, 
semaglutid và 
một số thuốc 
khác 
Thuốc 
tương tự 
GLP-1 
Bài tiết insulin phụ thuộc 
glucose từ các tế bào beta 
tuyến tụy, giảm bài tiết 
glucagon, chậm tháo rỗng 
dạ dày, gây chán ăn. 
LEADER: Làm giảm đáng kể tử 
vong do tim mạch. 
SUSTAIN-6: Làm giảm nhồi máu 
cơ tim không gây tử vong lần đầu 
và đột quỵ không gây tử vong lần 
đầu. 
Sitagliptin, 
saxagliptin, 
alogliptin và 
một số thuốc 
khác 
Thuốc ức 
chế DPP-4 
Tăng nồng độ GLP-1 nội 
sinh; có tác dụng tương tự 
như các thuốc tương tự 
GLP-1 nhưng với mức độ 
yếu hơn. 
Theo dữ liệu hiện có, lợi ích trên 
tim mạch hạn chế, nhưng không 
tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim; có 
thể liên quan đến gia tăng nhập 
viện do suy tim. 
Pioglitazon và 
một số thuốc 
khác 
Thiazoli-
dinedion 
Hoạt hóa thụ thể tăng sinh 
peroxisom, tăng nhạy cảm 
với insulin. 
Chống chỉ định với suy tim; chưa 
ghi nhận lợi ích đặc hiệu trên tim 
mạch và có lo ngại liên quan đến 
rosiglitazon. 
Ghi chú: DPP-4: dipeptidyl peptidase 4; GLP-1: peptid-1 giống glucagon; SGLT-2: kênh đồng 
vận chuyển natri - glucose 2. 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2018 
huyết); tỷ lệ tử vong do đái tháo đường 
trong nhóm này tăng 96% (p=0,039). Tiếp 
tục phân tích không phát hiện nguy cơ đáng 
kể tử vong do đái tháo đường liên quan đến 
phối hợp thuốc. Tóm lại, metformin làm giảm 
đột quỵ, tử vong do mọi nguyên nhân và tử 
vong liên quan đến đái tháo đường so với 
điều trị thông thường. 
Một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng 
khác liên quan đến metformin và các 
sulfonylure cũng đã được đánh giá. Đây là 
nghiên cứu tiến cứu, mù đôi, tiến hành trên 
304 bệnh nhân mắc T2DM và bệnh động 
mạch vành. Các đối tượng tham gia nghiên 
cứu được phân ngẫu nhiên sử dụng 
metformin hoặc glipizid trong 3 năm. Các 
nhóm bệnh nhân này đạt kết quả kiểm soát 
đường huyết tương tự nhau (HbA1c trung 
bình tương ứng 7,0% và 7,1%). Nhóm bệnh 
nhân sử dụng metformin xuất hiện ít hơn 
đáng kể các biến cố tim mạch (bao gồm tử 
vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim không 
gây tử vong, đột quỵ không gây tử vong 
hoặc thủ thuật tái thông động mạch). Không 
có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ tử vong giữa 
các nhóm. Tỷ số nguy cơ (hazard ratio) với 
các biến cố tim mạch trong thời gian theo dõi 
trung bình 5 năm là 0,54 (95% CI: 
0,30-0,90, p<0,03). 
THUỐC ỨC CHẾ SGLT-2 
Thuốc ức chế SGLT-2 được chỉ định cho 
bệnh nhân T2DM không đạt được nồng độ 
HbA1c mục tiêu thông qua điều chỉnh lối 
sống. Hầu hết các hướng dẫn điều trị khuyến 
cáo sử dụng thuốc ức chế SGLT-2 như là liệu 
pháp bổ sung cho metformin, mặc dù sử 
dụng đơn độc loại thuốc này có thể đem lại 
hiệu quả. Việc sử dụng nhóm thuốc này liên 
tục gia tăng kể từ khi được đưa ra thị trường 
do có nhiều tác dụng tích cực, bao gồm nguy 
cơ hạ đường huyết thấp; mức độ giảm 
HbA1c đáng chú ý; bài tiết thẩm thấu 
glucose tại thận và mất calo tương ứng; và 
giảm huyết áp vừa phải. Tuy nhiên, các 
thuốc này có nguy cơ gây nhiễm toan ceton 
(nồng độ đường huyết bình thường), tổn 
thương thận cấp, nhiễm trùng tiết niệu - sinh 
dục và có chi phí điều trị cao. Các báo cáo 
gần đây cho thấy có hiện tượng tăng cắt cụt 
chi dưới, đặc biệt với canagliflozin. Do đó, 
cần sử dụng thuốc thận trọng hoặc tránh sử 
dụng trên các bệnh nhân có bệnh mạch máu 
ngoại biên. 
Thử nghiệm EMPA-REG OUTCOME cho 
thấy empagliflozin làm giảm nguy cơ tương 
đối của tử vong do tim mạch 38% so với giả 
dược (p<0,001) với thời gian theo dõi trung 
bình 3,1 năm. Nói cách khác, thuốc này làm 
giảm chung 14% chỉ tiêu bất lợi chính trên 
tim mạch bao gồm tử vong do tim mạch, 
nhồi máu cơ tim không gây tử vong và đột 
quỵ không gây tử vong. Kết quả này nên 
được giải thích một cách thận trọng và có thể 
không phù hợp cho tất cả các bệnh nhân 
T2DM, vì trên 99% các bệnh nhân tham gia 
nghiên cứu EMPA-REG OUTCOME có bệnh 
tim mạch. 
Gần đây, thử nghiệm CANVAS cho thấy 
canagliflozin làm giảm các biến cố tim mạch, 
nhưng có thể tăng nguy cơ cắt cụt chi. 
Nhánh dự phòng tiên phát của nghiên cứu 
CANVAS cho thấy mức giảm vừa phải (và 
không có ý nghĩa thống kê) các biến cố tim 
mạch; những bệnh nhân này có nguy cơ mắc 
bệnh tim mạch nhưng thấp hơn so với các 
bệnh nhân trong thử nghiệm EMPA-REG 
OUTCOME. Nhánh dự phòng thứ phát của 
CANVAS cho thấy mức giảm mạnh hơn nguy 
cơ tương đối ở bệnh nhân đã gặp biến cố tim 
mạch trước đó. Cuối cùng, CANVAS cho thấy 
canagliflozin làm giảm tỷ lệ tử vong do tim 
mạch, đột quỵ không gây tử  ... tion 2002; 
105: 2259-2264. 
5. Mehran R, Aymong ED, Nikolsky E, et al. A 
simple risk score for prediction of contrast
-induced nephropathy after percutaneous 
coronary intervention: development and 
initial validation. J Am Coll Cardiol. 2004; 
44: 1393-1399. 
6. Nguyễn Thu Hương. Évaluation de la 
néphropathie induite par les produits de 
contraste à l'hôpipal de transport à hanoi. 
Luận văn Thạc sĩ Dược học Trường Đại 
học Toulouse III năm 2016. 
7. Bùi Thị Ngọc Thực, Vũ Đình Hòa, Phạm 
Minh Thông, Trần Nhân Thắng, Dương 
Đức Hùng, Cẩn Tuyết Nga, Nguyễn Thu 
Minh, Nguyễn Hoàng Anh. 2015. Phân tích 
đặc điểm bệnh thận do thuốc cản quang 
chứa iod sử dụng trong chẩn đoán hình 
ảnh tại Bệnh viện Bạch Mai. Tạp chí Dược 
học. Năm 2015, số 11, tr.9-13,37. 
TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC 
(Giai ®o¹n th¸ng 11/2017 - th¸ng 4/2018) 
Trần Ngân Hà 
Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2017 
đến hết tháng 4/2018, Trung tâm DI & ADR 
Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. 
Hồ Chí Minh đã tiếp nhận 5641 báo cáo ADR 
(tương ứng với 58,2% tổng số báo cáo năm 
2017). Trong đó, 4903 báo cáo ADR được gửi 
từ các cơ sở khám, chữa bệnh và 752 báo 
cáo ADR xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các 
đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm 
(trong đó có 14 báo cáo trùng với báo cáo từ 
các cơ sở khám, chữa bệnh). Số lượng báo 
cáo ADR lũy tiến theo tháng được thể hiện 
trong hình 1. Số lượng báo cáo ADR giảm 
trong tháng 2/2018 và có xu hướng tăng dần 
lại vào các tháng sau đó. 
Báo cáo ADR từ các cơ sở khám, chữa 
bệnh 
Tính đến hết ngày 30/4/2018, 606 cơ sở 
khám bệnh, chữa bệnh của 63 tỉnh, thành 
phố trong cả nước đã gửi báo cáo ADR. Phần 
lớn báo cáo vẫn được gửi từ các đơn vị ở 
vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam 
bộ, từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa 
khoa và bệnh viện thuộc khối công lập (bảng 
1). Trong đó, Hà Nội và thành phố Hồ Chí 
Minh có số lượng báo cáo cao nhất (tương 
ứng 20,4% và 20,2% tổng số báo cáo nhận 
được của cả nước). Thành phố Đà Nẵng là 
địa phương có công tác báo cáo ADR hiệu 
quả nhất với số báo cáo/1 triệu dân cao nhất 
trong cả nước (180,7 báo cáo/1 triệu dân) 
(bảng 2). Các đơn vị có số lượng báo cáo 
ADR cao tập trung tại Hà Nội và TP. Hồ Chí 
Minh. Bệnh viện Bạch Mai là đơn vị có số báo 
cáo ADR nhiều nhất trong cả nước, chiếm 
6,0% tổng số báo cáo ADR từ các đơn vị 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2018 
Tháng 
Số 
lượng 
báo 
cáo 
ADR 
Hình 1: Số lượng báo cáo ADR từ tháng 11/2017 đến tháng 4/2018 
khám, chữa bệnh (bảng 3). Ngoài ra, Bệnh 
viện Vinmec Times City là bệnh viện tư nhân 
có số lượng báo cáo nhiều nhất (chiếm 3,6% 
tổng số báo cáo từ các cơ sở khám, chữa 
bệnh), chỉ sau Bệnh viện Bạch Mai về số 
lượng báo cáo. 
Đối tượng gửi báo cáo chủ yếu là dược sĩ 
(39,9%), bác sĩ - y sĩ (24,4%) và tiếp theo là 
điều dưỡng và nữ hộ sinh (21,8%) (hình 2). 
Trong số 4903 báo cáo có 32 báo cáo về 
chất lượng thuốc. Vì vậy, thông tin về thuốc 
nghi ngờ được thống kê trên 4871 báo cáo. 
Tổng số thuốc nghi ngờ được báo cáo là 6142 
thuốc (tỷ lệ vẫn duy trì 1,26 thuốc/1 báo 
cáo). Phản ứng có hại xảy ra chủ yếu khi sử 
dụng thuốc theo đường tiêm/truyền tĩnh 
mạch (chiếm 57,6% tổng số báo cáo). Các 
thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo thuộc 
4 nhóm chính: Kháng sinh (cefotaxim, 
ceftriaxon, ciprofloxacin, ceftazidim, 
amoxicilin/acid clavulanic và levofloxacin), các 
thuốc điều trị lao (ethambutol và rifampicin/
isoniazid/pyrazinamid), thuốc giảm đau, 
chống viêm (diclofenac, paracetamol) và 
thuốc chống loạn thần (haloperidol). 
Cefotaxim vẫn là thuốc nghi ngờ gây ra ADR 
được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 10,9% 
(bảng 4). 
Báo cáo ADR từ các đơn vị sản xuất, 
kinh doanh dược phẩm 
Trong giai đoạn từ tháng 11/2017 đến 
tháng 4/2018, 29 đơn vị sản xuất và kinh 
doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR và 35 
đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã 
gửi báo cáo tổng hợp định kỳ về Trung tâm 
DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR 
khu vực TP. Hồ Chí Minh. 
Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt Nam 
đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh 
dược phẩm ghi nhận là 752, trong đó có 409 
báo cáo nghiêm trọng (chiếm 54,4%). Các 
đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm có số 
lượng báo cáo ADR nhiều nhất được tổng hợp 
trong bảng 5. Ngoài ra, các chế phẩm đang 
được lưu hành trên thị trường được báo cáo 
nhiều nhất là erlotinib (28,7%), dung dịch 
thẩm phân màng bụng (21,5%), bevacizumab 
(5,9%), capecitabin (5,1%) và imatinib 
(4,0%). 
Báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng 
(SAE) từ các nghiên cứu thử nghiệm lâm 
sàng 
Từ tháng 11/2017 đến hết tháng 04/2018, 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã nhận được 
853 báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng 
trong 58 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng 
được ghi nhận tại 48 tổ chức nhận thử tại 
Việt Nam. 
No.2 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 13 
Bảng 1: Phân loại báo cáo ADR về vị trí địa lý, tuyến và loại hình đơn vị gửi báo cáo 
Số báo cáo 
Tỷ lệ % 
(n=4903) 
Vị trí 
địa lý 
Tây Bắc Bộ 125 2,5 
Đông Bắc Bộ 462 9,4 
Đồng bằng sông Hồng 1324 27,0 
Bắc Trung Bộ 412 8,4 
Nam Trung Bộ 546 11,1 
Đông Nam Bộ 1208 24,6 
Đồng bằng sông Cửu Long 826 16,8 
Tuyến 
Trung ương 753 15,4 
Tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương 2267 46,2 
Quận/huyện 1159 23,6 
Cơ sở y tế ngành 121 2,5 
Bệnh viện trực thuộc các trường đại học 118 2,4 
Cơ sở khám, chữa bệnh tư nhân 485 9,9 
Loại 
hình 
Đa khoa 3347 68,3 
Chuyên khoa 1556 31,7 
Bảng 2: Danh sách 10 tỉnh/thành phố gửi báo cáo ADR nhiều nhất 
STT Tỉnh/thành phố Số báo cáo 
Số báo cáo/ 
1 triệu dân* 
Tỷ lệ % 
(n=4903) 
1 Hà Nội 1002 136,7 20,4 
2 TP. Hồ Chí Minh 992 119,6 20,2 
3 An Giang 238 110,2 4,9 
4 Cần Thơ 204 162,2 4,2 
5 Đà Nẵng 189 180,7 3,9 
6 Nghệ An 185 59,6 3,8 
7 Quảng Ninh 127 103,7 2,6 
8 Bắc Giang 105 63,3 2,1 
9 Đồng Nai 96 32,4 2,0 
10 Thái Nguyên 94 76,6 1,9 
*Dân số tính theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2016 
Bảng 3: Danh sách 10 cơ sở khám, chữa bệnh gửi báo cáo ADR nhiều nhất 
STT Đơn vị gửi báo cáo 
Tỉnh/ 
thành phố 
Số báo 
cáo 
Tỷ lệ (%) 
(n=4903) 
1 Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội 292 6,0 
2 Bệnh viện Vinmec Times City Hà Nội 150 3,1 
3 Bệnh viện Phổi Trung ương Hà Nội 143 2,9 
4 Bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh 138 2,8 
5 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP. Hồ Chí Minh 132 2,7 
6 Bệnh viện Đa khoa Trung tâm An Giang An Giang 88 1,8 
7 Bệnh viện Chợ Rẫy TP. Hồ Chí Minh 63 1,3 
8 Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng Đà Nẵng 61 1,2 
9 Bệnh viện Da Liễu TP. Hồ Chí Minh TP. Hồ Chí Minh 56 1,1 
10 Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre 53 1,1 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2018 
Hình 2: Nhân viên y tế gửi báo cáo ADR 
Bảng 4: Danh sách 11 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất 
STT Hoạt chất Số lượng 
Tỷ lệ % 
(n=4871) 
1 Cefotaxim 531 10,9 
2 Diclofenac 275 5,6 
3 Ceftriaxon 267 5,5 
4 Ciprofloxacin 249 5,1 
5 Ceftazidim 213 4,4 
6 Amoxicilin/acid clavulanic 168 3,4 
7 Ethambutol 163 3,3 
8 Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 146 3,0 
9 Levofloxacin 129 2,6 
10 Haloperidol 119 2,4 
11 Paracetamol 119 2,4 
Bảng 5: Danh sách 10 đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm gửi báo cáo ADR 
nhiều nhất 
STT Đơn vị báo cáo Số báo cáo 
Tỷ lệ % 
(n=752) 
1 VPĐD Hoffmann La Roche Ltd 349 46,4 
2 VPĐD Baxter Healthcare (Asia) Pte Ltd 162 21,5 
3 VPĐD Novartis Pharma Services AG 49 6,5 
4 VPĐD Janssen - Cilag Ltd 30 4,0 
5 VPĐD Boehringer Ingelheim Int GmbH 21 2,8 
6 VPĐD GlaxoSmithKline Pte Ltd 21 2,8 
7 Công ty Sanofi - Aventis Việt Nam 20 2,7 
8 VPĐD Pfizer (Thailand) Ltd 17 2,3 
9 VPĐD Merck Sharp & Dohme (Asia) Ltd 16 2,1 
10 VPĐD Astellas Pharma Singapore Pte Ltd 10 1,3 
No.2 - 2018| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 
§IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 
Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Mai Hoa 
Kết luận 
Nhìn chung, cơ cấu báo cáo ADR trong 
khoảng thời gian 06 tháng (từ tháng 11/2017 
đến tháng 4/2018) vẫn tương tự so với giai 
đoạn 3 tháng trước đó. Số lượng báo cáo 
ADR được tiếp nhận là 5641 (tương ứng với 
58,2% tổng số báo cáo năm 2017). Số lượng 
báo cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa 
phương, khu vực và các tuyến bệnh viện. 
Dược sĩ là đối tượng chính tham gia báo cáo 
ADR và cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò 
của mình trong công tác đảm bảo an toàn 
thuốc nói chung và hoạt động theo dõi, báo 
cáo ADR nói riêng. Bên cạnh việc báo cáo 
ADR của các thuốc được sử dụng nhiều 
(thuốc kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc 
giảm đau, chống viêm) và các phản ứng có 
hại thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng 
phản vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập 
trung báo cáo phản ứng có hại của các thuốc 
mới được sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại 
mới chưa được ghi nhận và các phản ứng có 
hại cần xét nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm 
dò chức năng chuyên biệt. 
Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân 
trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và 
cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và 
mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp 
để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát 
ADR. 
Thông tin liên quan đến ADR của các 
thuốc chứa chymotrypsin: Khuyến cáo 
từ Cục Quản lý Dược Việt Nam 
Ngày 21/6/2018, Cục Quản lý Dược đã có 
công văn số 11615/QLD-TT cung cấp thông 
tin liên quan đến ADR của các thuốc chứa 
chymotrypsin (alpha-chymotrypsin). 
Theo đó, trong quá trình tập hợp thông 
tin và tổng kết dữ liệu theo thời gian từ năm 
2010 đến hết tháng 5/2018, Trung tâm DI & 
ADR Quốc gia nhận thấy có sự gia tăng rất 
lớn các báo cáo về phàn ứng có hại, trong đó 
có nhiều báo cáo nghiêm trọng liên quan đến 
các chế phẩm khác nhau của hoạt chất 
chymotrypsin (alpha-chymotrypsin) tại Việt 
Nam. Một nghiên cứu đánh giá sự hình thành 
tín hiệu phản vệ từ dữ liệu báo cáo ADR tự 
nguyện tai Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 
2014 cho kết quả có tín hiệu phản vệ đối với 
các chế phẩm chứa chymotrypsin 
(alpha-chymotrypsin). Ngoài ra, theo cập 
nhật về tín hiệu Cảnh giác Dược từ Trung 
tâm giám sát thuốc toàn cầu của Tổ chức Y 
tế Thế giới (UMC), tín hiệu về sốc phản vệ 
của chymotrypsin (alpha-chymotrypsin) đã 
được chú ý. Dược thư Quốc gia Việt Nam 
2015 cũng đã có khuyến cáo về khả năng 
gây dị ứng nặng (bao gồm sốc phản vệ) sau 
khi tiêm bắp do tính kháng nguyên của 
chymotrypsin (alpha-chymotrypsin). 
Để đảm bảo sử dụng các thuốc chứa 
chymotrypsin (alpha-chymotrypsin) đường 
tiêm an toàn, hợp lý, Cục Quản lý Dược đề 
nghị các bệnh viện, viện có giường bệnh trực 
thuộc Bộ Y tế; Sở Y tế các tỉnh, thành phố 
trực thuộc Trung ương thông báo cho các cơ 
sở khám bệnh, chữa bệnh trên địa bàn thực 
hiện các yêu cầu sau: 
- Tuân thủ chỉ định, chống chỉ định, thận 
trọng, liều dùng của thuốc, chú ý tương tác 
thuốc khi kê đơn thuốc có chứa chymotrypsin 
(alpha-chymotrypsin) đường tiêm; 
- Chỉ sử dụng thuốc sau khi đã khám sàng 
lọc, phân loại bệnh nhân, tránh sử dụng 
thuốc tiêm có chứa chymotrypsin 
(alpha-chymotrypsin) cho những đối tượng 
bệnh nhân có nguy cơ cao xảy ra phản vệ/
sốc phản vệ; 
- Tăng cường tuân thủ quy trình tiêm 
t h u ố c c ó c h ứ a c h y m o t r y p s i n 
(alpha-chymotrypsin); 
- Phối hợp các đơn vị kinh doanh thuốc có 
chứa chymotrypsin (alpha-chymotrypsin) 
đường tiêm tăng cường theo dõi, phát hiện 
và xử trí các trường hợp xảy ra phản ứng có 
hại của thuốc này (nếu có) và gửi báo cáo 
phản ứng có hại của thuốc về Trung tâm DI 
 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 
16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 2 -2018 
& ADR Quốc gia hoặc Trung tâm DI & ADR 
Khu vực Tp. Hồ Chí Minh. 
Nguy cơ thải ghép tạng liên quan đến 
lenalidomid: Khuyến cáo từ Health 
Canada 
Theo Bản tin Health Product InfoWatch 
tháng 5/2018 của Cơ quan Quản lý Y tế 
Canada (Health Canada), nguy cơ thải ghép 
tạng mới được bổ sung vào phần Cảnh báo, 
Thận trọng và Phản ứng có hại và 
phần Thông tin dành cho người bệnh trên 
thông tin sản phẩm của thuốc chứa 
lenalidomid tại Canada. 
Giới hạn sử dụng Keytruda và 
Tecentriq trong điều trị ung thư biểu 
mô đường niệu: Khuyến cáo từ EMA 
Dữ liệu sơ bộ từ 2 thử nghiệm lâm sàng 
gần đây cho thấy tỷ lệ sống của bệnh nhân 
giảm khi sử dụng Keytruda (pembrolizumab) 
và Tecentriq (atezolizumab) là lựa chọn đầu 
tay trong điều trị ung thư biểu mô đường 
niệu (ung thư bàng quang và đường tiết 
niệu) trên bệnh nhân có biểu hiện PD-L1 
thấp. Vì vậy, ngày 01/6/2018, EMA đã 
khuyến cáo giới hạn việc lựa chọn đầu tay 
các thuốc này trong điều trị ung thư biểu mô 
đường niệu. Theo đó, Keytruda và Tecentriq 
chỉ nên là liệu pháp điều trị đầu tay cho bệnh 
nhân ung thư biểu mô đường niệu có biểu 
hiện PD-L1 cao. 
Đánh giá này được thực hiện bởi Ủy ban 
thuốc sử dụng cho người (CHMP). Ý kiến của 
CHMP sẽ tiếp tục được gửi đến Ủy ban châu 
Âu (EC) để ban hành quyết định pháp lý cuối 
cùng trên toàn Châu Âu. 
Thông tin dành cho cán bộ y tế: 
- Các trường hợp thải ghép tạng đã được 
báo cáo liên quan đến việc sử dụng 
lenalinomid, trong đó có một số trường hợp 
tử vong. 
- Phản ứng thải ghép tạng có thể khởi 
phát cấp tính, xảy ra trong 1-3 đợt điều trị 
với lenalinomid. 
- Lợi ích của việc sử dụng lenalinomid so 
với nguy cơ thải ghép tạng nên được đánh 
giá ở bệnh nhân có tiền sử ghép tạng trước 
khi bắt đầu điều trị với lenalinomid. 
- Dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng của 
phản ứng thải ghép tạng nên được giám sát 
chặt chẽ, bao gồm các triệu chứng giả cúm 
(sốt, ớn lạnh, đau nhức cơ thể, buồn nôn, 
ho, nhịp thở ngắn, mệt mỏi), đau ở vùng 
ghép, nước tiểu ít, tăng cân đột ngột hoặc 
các triệu chứng đặc hiệu khác liên quan đến 
từng loại cấy ghép. Nên ngừng sử dụng 
lenalinomid trong trường hợp xảy ra thải 
ghép tạng. 
Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: 
- Dữ liệu sơ bộ từ 2 thử nghiệm lâm sàng 
Keynote-361 và IMvigor130 cho thấy tỷ lệ 
sống của bệnh nhân giảm khi sử dụng 
Keytruda và Tecentriq so với điều trị bằng 
hóa trị liệu ở bệnh nhân ung thư biểu mô 
đường niệu di căn hoặc tiến triển tại chỗ mà 
chưa điều trị trước đó và có khối u có biểu 
hiện PD-L1 thấp. 
- Dựa trên dữ liệu từ các thử nghiệm vẫn 
đang được tiến hành, chỉ định của Keytruda 
và Tecentriq được sửa đổi như sau: 
Keytruda: 
+ Chỉ định đơn trị liệu điều trị ung thư 
biểu mô đường niệu di căn hoặc tiến triển tại 
chỗ ở bệnh nhân đã điều trị hóa trị liệu chứa 
platinum trước đó. 
+ Chỉ định đơn trị liệu điều trị ung thư 
biểu mô đường niệu di căn hoặc tiến triển tại 
chỗ ở bệnh nhân không đủ điều kiện hóa trị 
liệu chứa platinum và các khối u có biểu 
hiện PD-L1 với điểm CPS ≥10. 
Tecentriq: 
+ Chỉ định đơn trị liệu điều trị ung thư 
biểu mô đường niệu di căn hoặc tiến triển tại 
chỗ ở bệnh nhân người lớn sau khi hóa trị 
liệu chứa platinum trước đó; hoặc ở bệnh 
nhân không đủ điều kiện trị liệu với cisplatin 
và các khối u có biểu hiện PD-L1 ≥5%. 
- Không có sự thay đổi nào về việc sử 
dụng Keytruda hoặc Tecentriq ở bệnh nhân 
đang điều trị hóa trị liệu ung thư biểu mô 
đường niệu hoặc ở bệnh nhân điều trị các 
loại ung thư khác mà 2 thuốc này đã được 
cấp phép chỉ định. 
Quý đồng nghiệp có thể tham khảo 
nội dung văn bản trên tại trang web 

File đính kèm:

  • pdfban_tin_canh_giac_duoc_so_22018.pdf