Bản tin Cảnh giác dược - Số 4/2017
Độc tính trên tim, hoặc tổn thương cơ
tim do thuốc bao gồm suy tim, tổn thương
cấu trúc tim và tăng huyết áp - là tác dụng
không mong muốn đã biết của nhiều hóa
chất điều trị ung thư. Độc tính trên tim được
định nghĩa là sự xuất hiện của các triệu
chứng suy tim kết hợp với giảm phân suất
tống máu từ ≥5% đến <55%; hoặc="">55%;>
phân suất tống máu từ ≥10% đến <>
không kèm theo các triệu chứng suy tim.
Độc tính trên tim ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống và thời gian sống thêm của bệnh
nhân; đồng thời số lượng bệnh nhân được
điều trị bằng các thuốc sinh học và hóa trị
liệu có xu hướng tăng, nên bác sĩ và dược sĩ
cần chú ý phát hiện sớm độc tính trên tim
do thuốc. Độc tính trên tim được chia làm 4
nhóm: 1) Gây độc tế bào trực tiếp của hóa
trị liệu và rối loạn chức năng tim liên quan
(bao gồm dẫn chất ankyl hóa, anthracyclin,
interferon alpha, kháng thể đơn dòng, các
thuốc ức chế tyrosine kinase [TKI]; 2) Gây
thiếu máu cục bộ cơ tim (các kháng sinh
điều trị khối u, fluorouracil [5-FU], các chất
ức chế topoisomerase); 3) Gây loạn nhịp tim
(anthracyclin, các thuốc khác; do thiếu máu
cục bộ cơ tim) và 4) Viêm màng ngoài tim
(bleomycin, cyclophosphamid, cytarabin).
Bài viết này chỉ trình bày về các thuốc hóa
trị liệu chính có khả năng gây độc tính trên
tim.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 4/2017
Môc lôc Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy ThS. Đặng Bích Việt DS. Lương Anh Tùng Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - Trường Đại học Dược Hà Nội. Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 Trung tâm DI & ADR Quốc gia §éC TÝNH TR£N TIM CñA C¸C THUèC HãA TRÞ LIÖU §IÒU TRÞ UNG TH¦ 1 HIÖU QU¶ Vµ AN TOµN CñA PHèI HîP AMOXICILIN Vµ SULBACTAM 5 TæNG KÕT C¤NG T¸C B¸O C¸O ADR N¡M 2017 8 §IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC 13 Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến No.4 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 1 §éC TÝNH TR£N TIM CñA C¸C THUèC HãA TRÞ LIÖU §IÒU TRÞ UNG TH¦ Nguồn: US Pharm. 2017;42(9):HS24-HS33. Người dịch: Lê Thị Quỳnh Giang, Lương Anh Tùng Tóm tắt: Độc tính trên tim là tác dụng không mong muốn nghiêm trọng của nhiều hóa chất điều trị ung thư, có thể hồi phục hoặc không hồi phục, có tính chất cấp tính hoặc mạn tính, hoặc khởi phát muộn. Kiến thức về các dạng độc tính trên tim, cách quản lý và hiệu chỉnh liều các thuốc hóa trị liệu nhóm anthracyclin, fluorouracil, taxan, kháng thể đơn dòng và thuốc ức chế tyrosine kinase rất cần thiết để phát hiện sớm độc tính trên tim. Dược sĩ cần nhận thức được các tác dụng không mong muốn này để đưa ra các khuyến cáo phù hợp về hiệu chỉnh liều và theo dõi các tác dụng không mong muốn xuất hiện muộn của thuốc. Độc tính trên tim, hoặc tổn thương cơ tim do thuốc bao gồm suy tim, tổn thương cấu trúc tim và tăng huyết áp - là tác dụng không mong muốn đã biết của nhiều hóa chất điều trị ung thư. Độc tính trên tim được định nghĩa là sự xuất hiện của các triệu chứng suy tim kết hợp với giảm phân suất tống máu từ ≥5% đến <55%; hoặc giảm phân suất tống máu từ ≥10% đến <55% không kèm theo các triệu chứng suy tim. Độc tính trên tim ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và thời gian sống thêm của bệnh nhân; đồng thời số lượng bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc sinh học và hóa trị liệu có xu hướng tăng, nên bác sĩ và dược sĩ cần chú ý phát hiện sớm độc tính trên tim do thuốc. Độc tính trên tim được chia làm 4 nhóm: 1) Gây độc tế bào trực tiếp của hóa trị liệu và rối loạn chức năng tim liên quan (bao gồm dẫn chất ankyl hóa, anthracyclin, interferon alpha, kháng thể đơn dòng, các thuốc ức chế tyrosine kinase [TKI]; 2) Gây thiếu máu cục bộ cơ tim (các kháng sinh điều trị khối u, fluorouracil [5-FU], các chất ức chế topoisomerase); 3) Gây loạn nhịp tim (anthracyclin, các thuốc khác; do thiếu máu cục bộ cơ tim) và 4) Viêm màng ngoài tim (bleomycin, cyclophosphamid, cytarabin). Bài viết này chỉ trình bày về các thuốc hóa trị liệu chính có khả năng gây độc tính trên tim. Phân loại tổn thương Các dạng khác nhau của độc tính trên tim bao gồm dạng có hồi phục, không hồi phục, cấp tính, mạn tính và khởi phát muộn. Tổn thương không hồi phục được phân loại vào typ 1 và tổn thương có hồi phục được phân loại vào typ 2. Typ 1 (tổn thương trực tiếp) thường do liều tích lũy; tổn thương typ 2 không liên quan đến liều tích lũy. Các thuốc hóa trị liệu có thể gây tổn thương không hồi phục bao gồm các anthracyclin (daunorubicin, doxorubicin, epirubicin, idarubicin); các chất alkyl hóa (busulfan, carboplatin, carmustin, clormethin, cisplatin, cyclophosphamid, mitomycin); các taxan (docetaxel, cabazitaxel, paclitaxel); các chất ức chế topoisomerase (etoposid, tretinoin, alkaloid dừa cạn); và các thuốc kháng chuyển hóa (cladribin, cytarabin, 5-FU). Các thuốc hóa trị liệu liên quan nhiều nhất đến tổn thương typ 1 là nhóm anthracyclin. Các thuốc trong nhóm này, đặc biệt là doxorubicin, được sử dụng để điều trị ung thư vú, ung thư phụ khoa, ung thư mô liên kết (sarcoma) và u lympho. Cơ chế gây độc tính trên tim của doxorubicin là gây hoại tử và chết theo chương trình của các tế bào cơ tim sau xơ hóa cơ tim. Độc tính trên tim do doxorubicin liên quan đến hình thành các gốc tự do phụ thuộc sắt và peroxy hóa lipid trên màng ty lạp thể cơ tim, dẫn đến ức chế ADN, ARN và các protein; hậu quả làm thay đổi hoạt tính của adenylyl cyclase và phá vỡ cân bằng calci nội môi. Các anthracyclin làm tăng nguy cơ độc tính trên tim do liều tích lũy. Các kháng thể đơn dòng, nguyên nhân chính gây tổn thương typ 2, được sử dụng rộng rãi trong điều trị nhiều loại ung thư. Các thuốc gây độc tính trên tim có hồi phục trong nhóm này bao gồm trastuzumab, Trung tâm DI & ADR Quốc gia 2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2017 bevacizumab, lapatinib và sunitinib. Các thuốc này cũng có thể gây tăng huyết áp. Giảm yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu (VEGF) dẫn đến giảm nitric oxid ở thành tiểu động mạch. Trong ung thư vú, thụ thể yếu tố tăng trưởng thượng bì (HER2) dương tính liên quan đến tiến triển của bệnh và có tiên lượng xấu hơn. Trastuzumab, một kháng thể đơn dòng từ người, làm giảm 50% tỷ lệ tái phát và tăng 33% tỷ lệ sống sót cho người bệnh. Cơ chế gây độc trên tim của trastuzumab còn chưa sáng tỏ hoàn toàn; tuy nhiên việc ức chế thụ thể HER2 có thể là nguyên nhân gây độc tính. Thụ thể HER2 trên các tế bào cơ tim có vai trò quan trọng giúp bảo vệ tim khỏi tác động của các độc tố và phát triển tim trong giai đoạn phôi. Ức chế gen HER2 dẫn đến hậu quả bệnh cơ tim giãn. Điều này giúp phân biệt độc tính trên tim typ 1 và typ 2; theo đó typ 1 liên quan hơn đến rối loạn chức năng tim và suy tim lâm sàng, trong khi typ 2 có hậu quả giảm co bóp cơ tim và giảm chết tế bào cơ tim, có khả năng hồi phục cao hơn. Trong nhiều năm, chưa đưa ra được định nghĩa thống nhất về độc tính trên tim. Năm 2013, Suter và Ewer đã đề xuất tiêu chuẩn xác định thuốc gây ra các loại tổn thương khác nhau, theo đó độc tính trên tim được định nghĩa là sự suy giảm liên tục phân suất tống máu thất trái (LVEF). Hội Siêu âm tim Hoa Kỳ (Amer i can Soc ie ty o f Echocardiography) định nghĩa độc tính trên tim khi LVEF giảm từ >10% đến <53%. Ủy ban Đánh giá Tim Hoa Kỳ (Cardiac Review and Evaluation Committee) đề xuất định nghĩa rối loạn chức năng thất trái: “Giảm LVEF toàn thể hoặc nặng hơn tại vách ngăn; các triệu chứng của suy tim sung huyết; dấu hiệu liên quan đến suy tim sung huyết bao gồm nhưng không giới hạn trong các dấu hiệu sau: nhịp ngựa phi tiếng thứ 3 (S3 gallop) và/hoặc nhịp tim nhanh; giảm LVEF từ ít nhất 5% đến dưới 55% kèm theo các dấu hiệu hoặc triệu chứng của suy tim sung huyết, hoặc giảm LVEF từ ít nhất 10% đến dưới 55% và không có các dấu hiệu hoặc triệu chứng kèm theo. Quản lý độc tính trên tim Anthracyclin: Quản lý độc tính trên tim chủ yếu tập trung vào điều trị độc tính của anthracyclin. Tuy nhiên, có một số cách tiếp cận khác làm giảm nguy cơ chết tế bào cơ tim. Các nghiên cứu gần đây đánh giá việc sử dụng thuốc ức chế men chuyển và thuốc chẹn beta với mục đích dự phòng cho các bệnh nhân sử dụng hóa trị liệu. Các thuốc chẹn beta có đặc tính chống oxy hóa như carvedilol đã được chứng minh giảm nguy cơ độc tính trên tim. Dự phòng bằng thuốc ức chế men chuyển không đem lại hiệu quả trong ngăn ngừa giảm phân suất tống máu. Các thuốc hóa trị liệu kinh điển thường được coi là lựa chọn điều trị chuẩn cho nhiều bệnh lý ác tính dựa trên thói quen và dữ liệu tin cậy được thu thập trong nhiều năm hỗ trợ việc sử dụng các thuốc này. Tuy nhiên, một số thuốc trong nhóm có thể gây độc tính trên tim vì tác dụng gây độc không đặc hiệu trên các tế bào cơ tim. Trong đó, các anthracyclin, 5-FU và capecitabin có tần suất gặp độc tính cao nhất. Tần suất xuất hiện độc tính, cơ chế gây độc tính, cách quản lý và các tác dụng tiềm tàng thay đổi giữa các thuốc. Mỗi nhóm thuốc ức chế tăng trưởng khối u thông qua cơ chế gây độc tế bào; tuy nhiên, cần lưu ý cơ chế này không phải cơ chế gây độc tính trên tim. Tỷ lệ gây độc tính trên tim của các anthracyclin dao động từ 0,9% đến 26%. Tỷ lệ này phụ thuộc vào liều tích lũy và các yếu tố nguy cơ khác như tuổi của bệnh nhân. Các anthracyclin điển hình gây độc tính trên tim thông qua cơ chế oxy hóa, làm tăng các gốc tự do độc, dẫn đến xơ hóa và peroxy hóa lipid trên màng tim. Các tác dụng này có thể dẫn đến độc tính trên tim cấp tính, mạn tính hoặc khởi phát muộn. Triệu chứng cấp tính bao gồm loạn nhịp tim và tăng nồng độ troponin và BNP (brain natriuretic peptide). Các tác dụng này sẽ hồi phục 1 tuần sau khi ngừng thuốc và có thể tiếp tục sử dụng lại thuốc sau đó. Độc tính khởi phát muộn (thường xuất hiện sau vài tháng đến vài năm), gây giảm mạnh phân suất tống máu dẫn đến mất bù, tổn thương van hoặc loạn nhịp nghiêm trọng hơn. Trong các thuốc hóa trị liệu kinh điển, anthracyclin là nhóm thuốc có nhiều dữ liệu nhất về quản lý và nguy cơ độc tính trên tim. Vì vậy, một số thuốc đã được khuyến cáo sử dụng để làm giảm tần suất xuất hiện và mức độ nghiêm trọng của độc tính trên tim ở bệnh nhân dùng anthracyclin. Dexrazoxan được Hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (American Society of Clinical No.4 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 3 Oncology) khuyến cáo sử dụng để làm giảm độc tính trên tim ở những bệnh nhân ung thư vú di căn dùng liều doxorubicin >300 mg/m2. Tuy nhiên, thuốc này không được sử dụng phổ biến trong thực hành. Hướng dẫn điều trị suy tim năm 2013 của Trường môn Tim Hoa Kỳ (American College of Cardiology) và Hội Tim Hoa Kỳ (American Heart Association) phân loại bệnh nhân có nguy cơ độc tính trên tim vào nhóm A, nhóm bệnh nhân có nguy cơ suy tim tiến triển được khuyến cáo sử dụng thuốc ức chế men chuyển, thuốc chẹn thụ thể angiotensin hoặc chẹn beta như carvedilol. Các nghiên cứu cho thấy việc sử dụng các thuốc này làm giảm tần suất gặp độc tính ở quần thể bệnh nhân này. Để cải thiện tính an toàn trên tim, có thể cân nhắc dùng dạng bào chế liposom của anthracyclin (doxorubicin hoặc daunorubicin) để giảm nguy cơ rối loạn chức năng tim. 5-FU: Tỷ lệ gặp độc tính trên tim của 5-FU khoảng 20%. Thuốc gây độc tính trên tim thông qua đa cơ chế và liên quan đến cách dùng thuốc. Nếu được sử dụng với liều bolus, nguy cơ độc tính thấp hơn so với truyền tĩnh mạch liên tục. Bệnh nhân thường có biểu hiện cấp tính hoặc nặng từ đau ngực và suy tim cấp đến nhồi máu cơ tim. Cần tư vấn cho bệnh nhân về các triệu chứng đau ngực, đổ mồ hôi và buồn nôn có thể xuất hiện trong khi truyền thuốc; tuy nhiên, các biểu hiện này có thể hồi phục sau khi ngừng thuốc. Nếu các tác dụng phụ này tiếp tục xuất hiện trong lần truyền thuốc tiếp theo, phản ánh sự gia tăng nguy cơ gặp tác dụng không mong muốn trên tim, đặc biệt trong trường hợp có tiền sử bệnh mạch vành. Trong một số ít trường hợp, có thể dùng chẹn beta, chẹn kênh calci hoặc nitrat để làm giảm nguy cơ tác dụng không mong muốn trên tim. Taxan: Paclitaxel, docetaxel, cabazitaxel là nguyên nhân gây độc tính trên tim ở 2,3% đến 8% số bệnh nhân được điều trị với phác đồ chứa taxan. Độc tính trên tim tăng lên đáng kể khi dùng taxan phối hợp với anthracyclin; có thể do taxan làm tăng nồng độ trong huyết tương của doxorubicin. Bệnh nhân thường có biểu hiện chậm nhịp xoang không kèm theo triệu chứng. Hiện chưa có nhiều bằng chứng liên quan đến độc tính trên tim của taxan nên việc theo dõi thường quy chưa được khuyến cáo. Thông thường, nguy cơ độc tính của thuốc tăng cao nhất khi sử dụng phối hợp hoặc sử dụng tiếp nối phác đồ có anthracyclin. Ví dụ, khi paclitaxel và doxorubicin được dùng cách nhau từ 15 đến 30 phút, nguy cơ suy tim sung huyết là 20%; nhưng nguy cơ này sẽ giảm xuống nếu thời gian dùng thuốc cách nhau tăng lên 4 đến 6 giờ. Độc tính trên tim được ghi nhận ở 7% đến 28% số bệnh nhân dùng phác đồ chứa cyclophosphamid. Cơ chế gây độc tính trên tim của cyclophosphamid còn chưa rõ ràng nhưng được cho rằng có liên quan đến rối loạn chức năng nội mạc và co thắt mạch vành, dẫn đến rối loạn chức năng thất trái, tiến triển thành viêm màng ngoài tim hoặc viêm cơ tim xuất huyết. Kháng thể đơn dòng: Trastuzumab và pertuzumab là các kháng thể đơn dòng tái tổ hợp từ người điều trị hướng tới đích tác dụng là các thụ thể HER2. Các thuốc này được sử dụng trong điều trị ung thư vú, ung thư tụy và các ung thư khác dương tính với HER2. Khi kết hợp với các hóa trị liệu khác, thuốc này làm tăng đáng kể thời gian sống thêm toàn bộ và tỷ lệ đáp ứng khối u. Tần suất suy tim do trastuzumab dao động từ 3% đến 7% khi sử dụng đơn độc và lên đến 27% khi sử dụng phối hợp với các thuốc hóa trị liệu khác. Tỷ lệ độc tính trên tim cao nhất khi trastuzumab được dùng phối hợp với anthracyclin. Các nghiên cứu cho thấy độc tính trên tim của trastuzumab không phụ thuộc vào liều tích lũy hoặc thời gian điều trị. Pertuzumab cũng gây bệnh cơ tim nhưng tỷ lệ xuất hiện thấp. Cần tạm ngừng thuốc này ít nhất 3 tuần nếu LVEF giảm <45% kèm theo mức giảm tuyệt đối ≥10% so với giá trị ban đầu. Có thể tiếp tục sử dụng pertuzumab nếu giá trị LVEF hồi phục ≥45%. Trong vòng 3 tuần, nếu không có cải thiện về chức năng tim thì cần ngừng thuốc vĩnh viễn. Độc tính trên tim do trastuzumab liên quan đến ức chế protein HER2 và tín hiệu ErbB2 trong tế bào cơ tim, là các yếu tố cần cho sự tăng trưởng và sửa chữa của cơ tim. Việc ức chế các yếu tố này dẫn đến thiếu hụt ATP và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và sửa chữa của cơ tim. Độc tính trên tim liên quan đến trastuzumab có thể hồi phục khi ngừng thuốc hoặc xử trí phù hợp. Việc xử trí rối loạn chức năng thất trái do trastuzumab hiện chưa được thống nhất. Nên đánh giá LVEF trước khi bắt đầu sử dụng Trung tâm DI & ADR Quốc gia 4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2017 thuốc và theo dõi định kỳ thông số này trong quá trình điều trị. Cần tạm ngừng trastuzumab ít nhất 4 tuần trong trường hợp tỷ lệ giảm tuyệt đối của LVEF ≥16% so với trước điều trị; hoặc khi LVEF thấp hơn giới hạn bình thường kèm theo LVEF giảm ≥10% so với trước điều trị. Có thể tiếp tục sử dụng thuốc nếu LVEF trở về giới hạn bình thường và độ giảm tuyệt đối ≤15% so với giá trị ban đầu trong vòng 4 đến 8 tuần. Nếu LVEF giảm kéo dài (>8 tuần) hoặc có trên 3 lần ngừng thuốc do độc tính, nên ngừng thuốc vĩnh viễn. Theo một lưu đồ điều trị, nếu giá trị LVEF <40%, nên ngừng sử dụng trastuzumab và đánh giá lại sau 3 tuần. Nếu kết quả đánh giá lại LVEF <40%, nên ngừng sử dụng thuốc và điều trị rối loạn chức năng thất trái bằng ức chế men chuyển và chẹn beta. Bevacizumab là kháng thể đơn dòng tái tổ hợp từ người ức chế thụ thể VEGF, được sử dụng để điều trị nhiều loại ung thư bao gồm ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư phổi và ung thư não. Bevacizumab có thể gây suy tim, huyết khối động mạch và tĩnh mạch và tăng huyết áp nặng. Biến cố trên tim thường gặp nhất trong các thử nghiệm lâm sàng là tăng huyết áp với tỷ lệ da ... hối hợp rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 235 2,8 8 Levofloxacin 227 2,7 9 Cefuroxim 218 2,6 10 Haloperidol 206 2,5 Trung tâm DI & ADR Quốc gia 12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2017 Hướng dẫn sử dụng của các thuốc chứa testosteron. - Cho ý kiến về việc lưu hành và chỉ định của thuốc chứa rabeprazol tiêm truyền tĩnh mạch. - Cập nhật khuyến nghị của PRAC về việc tạm dừng cấp số đăng ký một số chế phẩm gadolinium. - Cập nhật khuyến cáo về thuốc tiêm methylprednisolon dạng tiêm. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Trong năm 2017, số lượng báo cáo ADR được Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh tiếp nhận tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2016, tỷ lệ báo cáo vẫn chưa đồng đều giữa các địa phương, khu vực và các tuyến bệnh viện. Do đó, công tác báo cáo ADR cần tiếp tục được thúc đẩy hơn nữa, đặc biệt tại đơn vị, địa phương chưa tham gia báo cáo ADR. Bên cạnh các ADR rối loạn toàn thân và biểu hiện trên da, các ADR liên quan đến thuốc kháng sinh, thuốc chống lao, thuốc giảm đau chống viêm không steroid (NSAID), cán bộ y tế cũng cần chú ý theo dõi, phát hiện và báo cáo các biến cố bất lợi của các nhóm thuốc khác (đặc biệt các nhóm thuốc có nguy cơ cao gây ADR, thuốc có phạm vi điều trị hẹp), các ADR trên các hệ cơ quan khác, các biến cố bất lợi cần giám sát thông qua các thăm dò chức năng chuyên sâu hay xét nghiệm cận lâm sàng. Bên cạnh đó, để phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện, từ năm 2018, Trung tâm DI & ADR Quốc gia sẽ tổng kết công tác báo cáo ADR từ tháng 11 năm trước đến hết tháng 10 của năm kế tiếp. Trong quá trình xử lý báo cáo ADR, Trung tâm nhận thấy có một số báo cáo ADR gửi từ các đơn vị và thư cảm ơn, phản hồi từ Trung tâm bị thất lạc qua đường bưu điện. Để đảm bảo việc trao đổi thông tin được đầy đủ, kịp thời, Trung tâm xin đề nghị các đơn vị tăng cường triển khai báo cáo bằng các hình thức khác (báo cáo trực tuyến, gửi thư điện tử hoặc fax) bên cạnh hình thức gửi báo cáo qua đường bưu điện về trung tâm. Cũng từ năm 2018, Trung tâm dự kiến sẽ gửi thư cảm ơn, phản hồi và các thông tin khác về ADR cho các đơn vị qua đường thư điện tử. Trong trường hợp có nhu cầu, đề nghị các đơn vị gửi công văn đề xuất 01 cán bộ đầu mối và 01 lãnh đạo khoa/phòng phụ trách công tác Cảnh giác Dược để nhận các thông tin nêu trên (công văn cần ghi rõ họ tên, chức vụ, đơn vị, số điện thoại và địa chỉ email của các cá nhân được đề xuất). Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR. No.4 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 13 §IÓM TIN C¶NH GI¸C D¦îC Lê Ngọc Quỳnh, Nguyễn Thị Tuyến, Nguyễn Mai Hoa, Lương Anh Tùng Gabapentin (Neurontin): Nguy cơ ức chế hô hấp nặng Nguy cơ ức chế hô hấp Theo bản tin Drug Safety Update tháng 10/2017 của Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Sản phẩm y tế Anh (MHRA), một cuộc rà soát về gabapentin tại châu Âu đã được tiến hành sau khi có các báo cáo về ức chế hô hấp trên bệnh nhân sử dụng thuốc này không đồng thời với các opioid. Trước đây, ức chế hô hấp đã được ghi nhận ở bệnh nhân dùng gabapentin phối hợp với các opioid. Sau khi rà soát y văn và các báo cáo tự nguyện trên toàn thế giới, cuộc rà soát trên đã đưa ra khuyến cáo nên bổ sung cảnh báo về ức chế hô hấp nặng vào thông tin sản phẩm của gabapentin (tần suất hiếm gặp, xảy ra với tỷ lệ <1/1.000 bệnh nhân). Khuyến cáo để giảm thiểu nguy cơ: Có thể cần hiệu chỉnh liều ở những bệnh nhân có tăng nguy cơ gặp ức chế hô hấp nặng này, bao gồm: - Suy giảm chức năng hô hấp hoặc mắc bệnh lý hô hấp; - Có bệnh thần kinh; - Suy thận; - Sử dụng đồng thời các thuốc ức chế thần kinh trung ương; - Bệnh nhân cao tuổi. Nhắc lại nguy cơ khi sử dụng đồng thời với opioid Bác sĩ cần thận trọng khi kê đơn gabapentin cho bệnh nhân sử dụng đồng thời với opioid. Cần theo dõi cẩn thận các dấu hiệu ức chế thần kinh trung ương, bao gồm ngủ gà, an thần, ức chế hô hấp. Liều gabapentin hoặc opioid có thể được cân nhắc giảm đi phù hợp. Quinin: Nhắc lại tác dụng kéo dài khoảng QT phụ thuộc liều và cập nhật về tương tác thuốc Theo bản tin Drug Safety Update tháng 11/2017 của MHRA, quinin có tác dụng kéo dài khoảng QT phụ thuộc liều dùng và nên sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ kéo dài khoảng QT hoặc block nhĩ thất. Các tác dụng trên tim Quinin đã được biết có tác dụng kéo dài khoảng QT. Cuộc rà soát thường kỳ của châu Âu năm 2017 đã khuyến cáo rằng thông tin sản phẩm của thuốc chứa quinin nên được bổ sung cảnh báo về tác dụng kéo dài khoảng QT phụ thuộc liều. Bác sĩ cần thận trọng khi kê đơn các thuốc chứa quinin cho bệnh nhân sẵn có các tình trạng có khả năng dẫn đến kéo Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: - Nắm được nguy cơ ức chế thần kinh trung ương, trong đó có ức chế hô hấp nặng khi sử dụng gabapentin. - Cân nhắc hiệu chỉnh liều trên bệnh nhân có nguy cơ cao ức chế hô hấp, bao gồm người cao tuổi, bệnh nhân suy giảm chức năng hô hấp, bệnh nhân mắc bệnh lý thần kinh, hô hấp hoặc suy thận và bệnh nhân sử dụng đồng thời với các thuốc ức chế thần kinh trung ương khác. Trung tâm DI & ADR Quốc gia 14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2017 dài khoảng QT, như sẵn mắc bệnh lý tim hoặc rối loạn điện giải, hoặc bệnh nhân đang dùng các thuốc khác có khả năng kéo dài khoảng QT. Bệnh nhân block nhĩ thất cũng cần thận trọng khi sử dụng thuốc này do quinin có thể làm trầm trọng thêm tình trạng giảm dẫn truyền xung động tim. Tương tác qua CYP3A4 với các thuốc khác Quinin được chuyển hóa bởi cytochrom P450 tại gan, chủ yếu bởi CYP3A4. Cuộc rà soát năm 2017 đã xác định được một nghiên cứu dược động học cho thấy nồng độ của phenobarbital hoặc carbamazepin trong huyết thanh có thể tăng lên khi dùng đồng thời các thuốc này với quinin. Mặc dù dữ liệu trong nghiên cứu này còn hạn chế, kết quả trên cho thấy bệnh nhân sử dụng đồng thời quinin và các thuốc chống động kinh trên cần được theo dõi để phát hiện độc tính có thể xảy ra. Do CYP3A4 liên quan đến chuyển hóa của nhiều thuốc, bác sĩ cần tham khảo danh sách tương tác thuốc trong tóm tắt đặc tính sản phẩm trước khi kê đơn quinin cho bệnh nhân. Levonorgestrel sử dụng trong tránh thai khẩn cấp: Cập nhật thông tin dược lý Ngày 13/11/2017, Cục Quản lý Dược đã có công văn số 18584/QLD-ĐK yêu cầu cập nhật thông tin dược lý đối với thuốc chứa levonorgestrel sử dụng trong tránh thai khẩn cấp. Theo đó: Chuyển hóa của levonorgestrel tăng lên khi sử dụng đồng thời levonorgestrel với các thuốc gây cảm ứng enzym gan, chủ yếu là thuốc gây cảm ứng enzym CYP3A4. Phối hợp efavirenz và levonorgestrel làm giảm nồng độ levonorgestrel trong huyết tương khoảng 50%. Các thuốc khác nghi ngờ có khả năng làm giảm nồng độ levonorgestrel tương tự trong huyết tương gồm các dẫn chất barbiturat (bao gồm cả primidon), phenytoin, carbamazepin, các thuốc có nguồn gốc dược liệu chứa Hypericum perforatum (St. John’s Wort), rifampicin, ritonavir, rifabutin và griseofulvin. Phụ nữ khi đã dùng thuốc cảm ứng enzym trong vòng 4 tuần trước đó, cần sử dụng biện pháp tránh thai khẩn cấp là biện pháp tránh thai không chứa hormon (ví dụ đặt vòng tránh thai trong tử cung). Đối với phụ nữ không thể hoặc không sẵn sàng đặt vòng tránh thai trong tử cung, có thể uống liều gấp đôi levonorgestrel (nghĩa là 3000 microgam trong vòng 72 giờ sau khi giao hợp không an toàn). Tuy nhiên, việc phối hợp liều gấp đôi levonorgestrel và chất cảm ứng enzym chưa được nghiên cứu đầy đủ. Citicolin đường tiêm: Cập nhật thông tin hướng dẫn sử dụng Ngày 13/11/2017, Cục Quản lý Dược đã có công văn số 18583/QLD-ĐK cập nhật hướng dẫn sử dụng đối với thuốc chứa citicolin dùng đường tiêm. Theo đó: - Citicolin chỉ được chỉ định cho giai đoạn cấp của chấn thương sọ não kèm Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: - Nắm được tác dụng kéo dài khoảng QT phụ thuộc liều dùng và thận trọng khi kê đơn quinin cho các đối tượng bệnh nhân sau: + Đang có các tình trạng có khả năng kéo dài khoảng QT như sẵn mắc bệnh lý tim hoặc rối loạn điện giải; + Đang dùng kèm các thuốc có thể kéo dài khoảng QT; + Block nhĩ thất. - Cần theo dõi bệnh nhân chặt chẽ trong trường hợp dùng quinin phối hợp với phenobarbital hoặc carbamazepin; nồng độ của các thuốc chống co giật này trong huyết thanh có thể tăng lên và gây ra độc tính. No.4 - 2017 | Bulletin of Pharmacovigilance| 15 rối loạn tri giác ở người lớn. - Liều trung bình của citicolin là 500- 750 mg trong 24 giờ. Thuốc được dùng qua đường tiêm bắp hoặc tiêm truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên đường tiêm truyền tĩnh mạch được ưu tiên sử dụng hơn so với đường tiêm bắp. Trong trường hợp tiêm tĩnh mạch, tốc độ tiêm phải chậm (3-5 phút tùy thuộc liều). Trong trường hợp truyền tĩnh mạch, tốc độ truyền phải từ 40-60 giọt/phút. - Trong trường hợp chảy máu nội sọ xuất hiện đột ngột và dai dẳng, liều khuyến cáo không vượt quá 1000 mg mỗi ngày và cần truyền với tốc độ truyền rất chậm (30 giọt/phút). - Hướng dẫn sử dụng của các thuốc chứa citicolin dùng đường tiêm cũng cần bổ sung tác dụng không mong muốn về hiện tượng kích thích có hồi phục liên quan đến việc sử dụng citicolin đã được báo cáo. Metformin: Cập nhật hướng dẫn sử dụng trong điều trị đái tháo đường typ 2 Ngày 08/11/2017, Cục Quản lý Dược đã có công văn số 18366/QLD-ĐK về việc cập nhật hướng dẫn sử dụng đối với thuốc chứa hoạt chất điều trị đái tháo đường typ 2. Theo đó, metformin bị chống chỉ định cho bệnh nhân suy thận nặng (mức lọc cầu thận ước tính [eGFR] dưới 30 mL/phút/1,73 m2); bệnh nhân đã có tiền sử quá mẫn với metformin; bệnh nhân nhiễm toan chuyển hóa cấp tính hoặc mãn tính, bao gồm cả nhiễm toan ceton do tiểu đường. Mục Liều dùng và cách dùng và Cảnh báo và thận trọng cũng được sửa đổi để phản ánh các thông tin: Mục Liều dùng và cách dùng: - Liều khuyến cáo: Liều khởi đầu đối với bệnh nhân đang không sử dụng metformin là 500 mg, một lần/ngày, dùng đường uống. Nếu bệnh nhân không gặp phản ứng có hại đường tiêu hóa và cần phải tăng liều thì có thể dùng thêm 500 mg sau mỗi khoảng thời gian điều trị từ 1 đến 2 tuần. Liều dùng của metformin cần được cân nhắc điều chỉnh trên từng bệnh nhân cụ thể dựa trên hiệu quả và độ dung nạp của bệnh nhân và không vượt quá liều tối đa được khuyến cáo là 2000 mg/ngày. - Khuyến cáo sử dụng thuốc trên bệnh nhân suy thận: + Đánh giá chức năng thận trước khi khởi đầu điều trị với metformin và đánh giá định kỳ sau đó. + Chống chỉ định metformin trên bệnh nhân có eGFR dưới 30 mL/ phút/1,73 m2 + Không khuyến cáo khởi đầu điều trị với metformin ở bệnh nhân có eGFR nằm trong khoảng 30-45 mL/phút/1,73 m2. + Ở bệnh nhân đang sử dụng metformin và có eGFR giảm xuống dưới 45 mL/phút/1,73 m2, đánh giá nguy cơ - lợi ích khi tiếp tục điều trị. + Ngừng sử dụng metformin nếu bệnh nhân có eGFR giảm xuống dưới 30 mL/phút/1,73 m2. - Ngừng sử dụng metformin khi thực hiện xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh có sử dụng thuốc cản quang chứa iod. Trên bệnh nhân có eGFR nằm trong khoảng từ 30 - 60 mL/phút/1,73 m2, bệnh nhân có tiền sử bệnh lý về gan, nghiện rượu hoặc suy tim, hoặc bệnh nhân sẽ sử dụng thuốc cản quang chứa iod qua đường động mạch, cần ngừng metformin trước hoặc tại thời điểm thực hiện xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh có sử dụng thuốc cản quang chứa iod. Đánh giá lại mức lọc cầu thận sau khi chiếu chụp 48 giờ, và chỉ sử dụng lại metformin nếu chức năng thận ổn định. Mục Cảnh báo và thận trọng được cập nhật về nguy cơ nhiễm toan lactic: Trung tâm DI & ADR Quốc gia 16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 4 -2017 Quá trình giám sát hậu mại đã ghi nhận những ca nhiễm toan lactic liên quan đến metformin, bao gồm cả trường hợp tử vong, giảm thân nhiệt, tụt huyết áp, loạn nhịp chậm kéo dài. Khởi phát của tình trạng nhiễm toan acid lactic liên quan đến metformin thường không dễ phát hiện, kèm theo các triệu chứng không điển hình như khó chịu, đau cơ, suy hô hấp, lơ mơ và đau bụng. Nhiễm toan acid lactic liên quan đến metformin được đặc trưng bằng nồng độ lactat tăng lên trong máu (>5 mmol/L), khoảng trống anion (không có bằng chứng của keto niệu hoặc keto máu), tăng tỷ lệ lactat/pyruvat và nồng độ metformin huyết tương tăng >5 microgam/mL. Yếu tố nguy cơ của nhiễm toan acid lactic liên quan đến metformin bao gồm suy thận, sử dụng đồng thời với một số thuốc nhất định (ví dụ các chất ức chế carbonic anhydrase như topiramat), từ 65 tuổi trở lên, có thực hiện chiếu chụp sử dụng thuốc cản quang, phẫu thuật và thực hiện các thủ thuật khác, tình trạng giảm oxy hít vào (ví dụ suy tim sung huyết cấp), uống nhiều rượu và suy gan. Trong trường hợp nghi ngờ có toan lactic liên quan đến metformin, nên ngừng sử dụng metformin, nhanh chóng đưa bệnh nhân đến bệnh viện và tiến hành các biện pháp xử trí. Ở những bệnh nhân đã điều trị với metformin, đã được chẩn đoán toan lactic hoặc nghi ngờ có khả năng cao bị toan lactic, khuyến cáo nhanh chóng lọc máu để điều chỉnh tình trạng nhiễm toan và loại bỏ phần metformin đã bị tích lũy (metformin hydroclorid có thể thẩm tách được với độ thanh thải 170 mL/phút trong điều kiện huyết động học tốt). Lọc máu có thể làm đảo ngược triệu chứng và hồi phục Cập nhật thông tin về sử dụng mifepriston phối hợp với misoprostol để phá thai Ngày 07/12/2017, Cục Quản lý Dược đã có công văn số 20534/QLD-ĐK về việc cập nhật thông tin về sử dụng Mife- priston phối hợp với Misoprostol để phá thai. Theo đó, thông tin trên tờ hướng dẫn sử dụng thuốc phải được cập nhật, bổ sung về Chỉ định, Liều dùng và cách dùng đối với chỉ định phá thai và Chống chỉ định phải được bổ sung đầy đủ theo “Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản” ban hành kèm theo Quyết định số 4128/QĐ-BYT ngày 29/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế”. Mục Cảnh báo và thận trọng phải bổ sung thông tin cảnh báo “Việc tự sử dụng thuốc đế phá thai có thể nguy hiểm đến tính mạng, đề nghị tuân thủ hướng dẫn của Bác sỹ điều trị và hướng dẫn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản được quy định tại Quyết định số 4128/QĐ-BYT ngày 29/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế” và in rõ ràng, đậm nét để có thể nhận biết được rõ ràng thông tin này. Các đơn vị cần tăng cường thực hiện việc theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc trong quá trình sử dụng và lưu hành; gửi báo cáo ADR (nếu có) về Trung tâm Quốc gia về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc hoặc Trung tâm khu vực về thông tin thuốc và theo dõi phản ứng có hại của thuốc TP. Hồ Chí Minh. Quý đồng nghiệp có thể tham khảo nội dung đầy đủ, chi tiết của các công văn trên tại trang web
File đính kèm:
- ban_tin_canh_giac_duoc_so_42017.pdf