Công nghệ Sinh học Nông nghiệp

Alan Larson cho rằng việc quản l{ công nghệ

sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học

góp phần tăng cường tự do buôn bán các thiết

bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng

đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát

triển. Larson còn cho rằng công nghệ sinh học –

một trong những loại công nghệ mới mang

nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta

– đóng vai trò quan trọng đối với sự thịnh

vượng trong tương lai của thế giới đến nỗi mà

chúng ta không thể không quan tâm.

Công nghệ sinh học là một trong những loại

công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong

thời đại của chúng ta. Việc tăng cường sử dụng

và buôn bán các sản phẩm tạo ra nhờ áp dụng

công nghệ sinh học nông nghiệp đang thúc đẩy

sự phồn thịnh ở cả các nước phát triển và các

nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong khi Hoa

Kỳ và nhiều quốc gia khác đang mở rộng việc

phát triển và sử dụng các sản phẩm công nghệ

sinh học an toàn thì một vài nước lại áp đặt

những hạn chế vô lý đối với các sản phẩm này.

Những hạn chế đó đe doạ hệ thống thương mại

quốc tế và đang ngăn cản các nước đang phát

triển khám phá tiềm năng to lớn của công nghệ

sinh học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

cho các công dân của mình.

CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ KHÍA CẠNH

PHÁT TRIỂN

Năm 2000, tổng dân số thế giới là khoảng 6 tỉ và

theo dự kiến sẽ tăng lên 9 tỉ vào năm 2050. Vì

vậy, nhu cầu lương thực sẽ tăng lên trên một

hành tinh ngày càng đông dân. Sản xuất lương

thực cũng phải tăng lên mà vẫn giữ được một

môi trường bền vững. Từ năm 1980, 50% năng

suất nông nghiệp tăng lên ở các nước đang phát

triển là nhờ cải tiến công nghệ sản xuất hạt

giống. Chất lượng hạt giống được nâng cao nhờ

cải tiến các phương pháp truyền thống, phát triển

các giống cây lai thông thường và công nghệ

sinh học. Mặc dù không phải là một phương

thuốc chữa bách bệnh, song công nghệ sinh học

có thể có một đóng góp quan trọng.

Công nghệ sinh học nông nghiệp giải quyết được

vấn đề tăng năng suất cây trồng mà vẫn đáp ứng

tiêu chuẩn đảm bảo môi trường bền vững. Ở Hoa

Kỳ, việc tăng sử dụng công nghệ sinh học nông

nghiệp đang dẫn đến giảm sử dụng thuốc trừ sâu

và tăng cường áp dụng các phương pháp canh

tác có lợi cho môi trường ví dụ như phương

pháp canh tác ―không làm đất‖, một phương

pháp làm giảm tình trạng xói mòn đất trồng và

rửa trôi phân bón. Năng suất canh tác tăng lên có

nghĩa là trên cùng một diện tích đất trồng trọt có

thể sản xuất ra nhiều lương thực hơn. Do áp lực

dân số sẽ tăng lên trong những năm tới, việc đủ

khả năng trồng trọt để đáp ứng nhu cầu lương

thực của dân số thế giới mà không xâm phạm tới

những yếu tố môi trường đóng vai trò sống còn

đối với trái đất, ví dụ như các rừng nhiệt đới, sẽ

mang lại lợi ích to lớn cho môi trường.

pdf 41 trang yennguyen 4140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Công nghệ Sinh học Nông nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghệ Sinh học Nông nghiệp

Công nghệ Sinh học Nông nghiệp
1 
K i n h t ế 
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz Tập 8, Số 3 Tháng 9/2003 
Công nghệ Sinh học 
Nông nghiệp 
1 
K i n h t ế 
Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz Tập 8, Số 3 Tháng 9/2003 
Công nghệ Sinh học 
Nông nghiệp 
3 
Khoa học và công nghệ đã giúp mang lại một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp vào thế kỉ 20 ở 
nhiều nơi trên thế giới. Tạp chí Triển vọng Kinh tế số ra lần này tập trung nêu rõ xem những tiến bộ về 
công nghệ sinh học có thể được điều chỉnh như thế nào nhằm mang lại lợi ích cho thế giới ở thế kỉ 21, đặc 
biệt là những nước đang phát triển. 
Nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc động vật và thực 
vật từ lâu đã là mục tiêu của ngành khoa học nông nghiệp. Đó cũng vẫn là mục tiêu của công nghệ sinh 
học nông nghiệp, loại công nghệ có thể đóng vai trò là một công cụ quan trọng trong việc giảm nạn đói và 
đáp ứng nhu cầu lương thực của một hành tinh với dân số đang gia tăng về số lượng và tuổi thọ, trong 
khi vẫn giảm được những tác động tiêu cực đối với môi trường do các hoạt động trồng trọt gây ra. 
Trong một môi trường quy định và chính sách thuận lợi, công nghệ sinh học có vô vàn tiềm năng tạo ra 
những giống cây trồng chịu được thời tiết khắc nghiệt, chống được các loại dịch bệnh và các loài gây hại; 
cần dùng ít hóa chất hơn; đồng thời cung cấp nhiều dinh dưỡng hơn cho con người và những gia súc sử 
dụng chúng. Tuy nhiên, vẫn còn có những tranh cãi xung quanh loại công nghệ mới này. Tạp chí điện tử 
lần này đề cập tới những cuộc tranh cãi đang tiếp diễn, đồng thời đưa ra cơ sở khoa học đúng đắn cho 
việc sử dụng loại công nghệ này. 
Vào tháng 6 năm 2003, các bộ trưởng nông nghiệp, y tế và môi trường từ hơn 110 quốc gia đã nhóm họp 
tại California và đã trực tiếp thấy được công nghệ, trong đó có công nghệ sinh học, có thể làm tăng năng 
suất và giảm tình trạng thiếu lương thực trên toàn cầu như thế nào. Bằng cách chia sẻ thông tin về việc 
công nghệ có thể làm tăng năng suất nông nghiệp, chúng ta có thể góp phần giảm tình trạng thiếu lương 
thực trên thế giới. 
Đóng góp bài viết cho Tạp chí lần này có Thứ trưởng Ngoại giao Alan Larson, Thứ trưởng Nông nghiệp J.B. 
Penn, Phó Giám đốc Cục Quản l{ Thực phẩm và Dược phẩm Lester Crawford, và Đại sứ Tony Hall, Đại diện 
của Mỹ tại Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc. Những quan chức này đề cập đến 
một loạt các vấn đề từ cơ sở khoa học của công nghệ sinh học tới an toàn lương thực và các vấn đề nhãn 
mác sản phẩm. Bên cạnh những bài viết của họ, Tạp chí lần này còn nhận được sự đóng góp của một 
nhóm những nhà nghiên cứu và học giả có uy tín trên thế giới, một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kz về 
Nghị định thư An toàn Sinh học Cartagena và các nguồn tin bổ sung khác. 
Ann M. 
Venenan 
Bộ trưởng 
Bộ Nông nghiệp Hoa Kz 
TRIỂN VỌNG KINH TẾ 
Công nghệ Sinh học Nông nghiệp 
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Tập 8, Số 3, tháng 9/2003 Tạp chí Điện tử 
3 
Khoa học và công nghệ đã giúp mang lại một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp vào thế kỉ 20 ở 
nhiều nơi trên thế giới. Tạp chí Triển vọng Kinh tế số ra lần này tập trung nêu rõ xem những tiến bộ về 
công nghệ sinh học có thể được điều chỉnh như thế nào nhằm mang lại lợi ích cho thế giới ở thế kỉ 21, đặc 
biệt là những nước đang phát triển. 
Nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc động vật và thực 
vật từ lâu đã là mục tiêu của ngành khoa học nông nghiệp. Đó cũng vẫn là mục tiêu của công nghệ sinh 
học nông nghiệp, loại công nghệ có thể đóng vai trò là một công cụ quan trọng trong việc giảm nạn đói và 
đáp ứng nhu cầu lương thực của một hành tinh với dân số đang gia tăng về số lượng và tuổi thọ, trong 
khi vẫn giảm được những tác động tiêu cực đối với môi trường do các hoạt động trồng trọt gây ra. 
Trong một môi trường quy định và chính sách thuận lợi, công nghệ sinh học có vô vàn tiềm năng tạo ra 
những giống cây trồng chịu được thời tiết khắc nghiệt, chống được các loại dịch bệnh và các loài gây hại; 
cần dùng ít hóa chất hơn; đồng thời cung cấp nhiều dinh dưỡng hơn cho con người và những gia súc sử 
dụng chúng. Tuy nhiên, vẫn còn có những tranh cãi xung quanh loại công nghệ mới này. Tạp chí điện tử 
lần này đề cập tới những cuộc tranh cãi đang tiếp diễn, đồng thời đưa ra cơ sở khoa học đúng đắn cho 
việc sử dụng loại công nghệ này. 
Vào tháng 6 năm 2003, các bộ trưởng nông nghiệp, y tế và môi trường từ hơn 110 quốc gia đã nhóm họp 
tại California và đã trực tiếp thấy được công nghệ, trong đó có công nghệ sinh học, có thể làm tăng năng 
suất và giảm tình trạng thiếu lương thực trên toàn cầu như thế nào. Bằng cách chia sẻ thông tin về việc 
công nghệ có thể làm tăng năng suất nông nghiệp, chúng ta có thể góp phần giảm tình trạng thiếu lương 
thực trên thế giới. 
Đóng góp bài viết cho Tạp chí lần này có Thứ trưởng Ngoại giao Alan Larson, Thứ trưởng Nông nghiệp J.B. 
Penn, Phó Giám đốc Cục Quản l{ Thực phẩm và Dược phẩm Lester Crawford, và Đại sứ Tony Hall, Đại diện 
của Mỹ tại Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc. Những quan chức này đề cập đến 
một loạt các vấn đề từ cơ sở khoa học của công nghệ sinh học tới an toàn lương thực và các vấn đề nhãn 
mác sản phẩm. Bên cạnh những bài viết của họ, Tạp chí lần này còn nhận được sự đóng góp của một 
nhóm những nhà nghiên cứu và học giả có uy tín trên thế giới, một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kz về 
Nghị định thư An toàn Sinh học Cartagena và các nguồn tin bổ sung khác. 
Ann M. 
Venenan 
Bộ trưởng 
Bộ Nông nghiệp Hoa Kz 
TRIỂN VỌNG KINH TẾ 
Công nghệ Sinh học Nông nghiệp 
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Tập 8, Số 3, tháng 9/2003 Tạp chí Điện tử 
5 
◘ TRỌNG TÂM 
NHỮNG KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH SÁCH CNSH QUỐC TẾ CỦA MỸ 9 
Alan Larson, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Vấn đề Kinh tế, Thương mại và Nông nghiệp 
Larson cho rằng việc quản lý công nghệ sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học góp phần tăng cƣờng tự do buôn bán 
các thiết bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát triển. Larson còn cho rằng 
công nghệ sinh học – một trong những loại công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta – đóng vai trò 
quan trọng đối với sự thịnh vƣợng trong tƣơng lai của thế giới đến nỗi mà chúng ta không thể không quan tâm. 
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN 15 
J.B. Penn, Thứ trưởng Nông nghiệp phụ trách Dịch vụ Trồng trọt và Nông nghiệp Đối ngoại 
Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng đóng một vai trò lớn trong việc thúc đẩy năng suất nông nghiệp tăng nhanh đồng thời 
vẫn góp phần bảo vệ môi trƣờng cho các thế hệ tƣơng lai. Đó là lời bình luận của J.B. Penn, ông cho rằng công nghệ sinh học 
đơn giản là một công cụ khác để cải thiện mùa màng trong lịch sử trồng trọt lâu đời. 
QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG NÔNG NGHIỆP 21 
Lester M. Crawford, Phó Giám đốc, Cục Lương thực và Dược phẩm Hoa Kz 
Công nghệ sinh học mang lại những lợi thế rõ rệt so với các công nghệ lai giống truyền thống do nguy cơ về những đặc điểm bất 
lợi có thể đƣợc giảm thiểu. Đó là quan điểm của Crawford, một tiến sỹ về thuốc thú y, ông lập luận rằng không có cơ sở khoa 
học nào yêu cầu một sản phẩm phải đƣợc dán nhãn mác để chỉ ra rằng sản phẩm hoặc các thành phần của nó đƣợc sản xuất 
theo công nghệ sinh học. 
MỘT NẠN ĐÓI XANH Ở CHÂU PHI? 31 
Đại sứ Tony P. Hall, Phái đoàn của Hoa Kỳ tại các Cơ quan Nông Lương của Liên Hợp Quốc 
Ông Tony Hall cho rằng những nƣớc đang đối mặt với nạn đói phải xem xét những hậu quả tức thời, nghiêm trọng của việc 
không chấp thuận viện trợ lƣơng thực có sử dụng công nghệ sinh học. Ông nói không có lý do gì biện minh cho việc các nƣớc từ 
chối ăn thực phẩm mà ngƣời dân Mỹ ăn hàng ngày và đã đƣợc kiểm nghiệm nghiêm ngặt. 
NGHỊ ĐỊNH THƯ CARTAGENA VỀ AN TOÀN SINH HỌC 37 
Nghị định thƣ về An toàn Sinh học, có hiệu lực vào ngày 11/9/2003, sẽ tạo cho các nƣớc cơ hội thu thập thông tin trƣớc khi nhập 
khẩu những sản phẩm sử dụng công nghệ sinh học mới. Tuy nhiên Nghị định thƣ không giải quyết các vấn đề về an toàn thực 
phẩm và không đòi hỏi dán nhãn sản phẩm dành cho ngƣời tiêu dùng. 
◘ BÌNH LUẬN 
VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP TRONG VIỆN TRỢ LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI 43 
Bruce Chassy, Giáo sư và Phó Giám đốc Điều hành Trung tâm Công nghệ Sinh học của Đại học Illinois Urbana-
Champaign 
Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng góp phần vào việc giảm bớt nạn đói kinh niên, đặc biệt tại vùng hạ Sahara của châu Phi, 
nơi đã bị lỡ “Cuộc Cách Mạng Xanh” trong thập kỷ 60 và 70. Đó là lời bình luận của Bruce Chassy. Ông khuyến khích tăng 
cƣờng đầu tƣ công cộng vào nghiên cứu, giáo dục và đào tạo trong nông nghiệp ở các cấp địa phƣơng, quốc gia và khu vực. 
TRIỂN VỌNG KINH TẾ 
Tạp chí Diện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz 
NỘI DUNG 
CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP 
5 
◘ TRỌNG TÂM 
NHỮNG KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH SÁCH CNSH QUỐC TẾ CỦA MỸ 9 
Alan Larson, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Vấn đề Kinh tế, Thương mại và Nông nghiệp 
Larson cho rằng việc quản lý công nghệ sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học góp phần tăng cƣờng tự do buôn bán 
các thiết bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát triển. Larson còn cho rằng 
công nghệ sinh học – một trong những loại công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta – đóng vai trò 
quan trọng đối với sự thịnh vƣợng trong tƣơng lai của thế giới đến nỗi mà chúng ta không thể không quan tâm. 
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN 15 
J.B. Penn, Thứ trưởng Nông nghiệp phụ trách Dịch vụ Trồng trọt và Nông nghiệp Đối ngoại 
Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng đóng một vai trò lớn trong việc thúc đẩy năng suất nông nghiệp tăng nhanh đồng thời 
vẫn góp phần bảo vệ môi trƣờng cho các thế hệ tƣơng lai. Đó là lời bình luận của J.B. Penn, ông cho rằng công nghệ sinh học 
đơn giản là một công cụ khác để cải thiện mùa màng trong lịch sử trồng trọt lâu đời. 
QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG NÔNG NGHIỆP 21 
Lester M. Crawford, Phó Giám đốc, Cục Lương thực và Dược phẩm Hoa Kz 
Công nghệ sinh học mang lại những lợi thế rõ rệt so với các công nghệ lai giống truyền thống do nguy cơ về những đặc điểm bất 
lợi có thể đƣợc giảm thiểu. Đó là quan điểm của Crawford, một tiến sỹ về thuốc thú y, ông lập luận rằng không có cơ sở khoa 
học nào yêu cầu một sản phẩm phải đƣợc dán nhãn mác để chỉ ra rằng sản phẩm hoặc các thành phần của nó đƣợc sản xuất 
theo công nghệ sinh học. 
MỘT NẠN ĐÓI XANH Ở CHÂU PHI? 31 
Đại sứ Tony P. Hall, Phái đoàn của Hoa Kỳ tại các Cơ quan Nông Lương của Liên Hợp Quốc 
Ông Tony Hall cho rằng những nƣớc đang đối mặt với nạn đói phải xem xét những hậu quả tức thời, nghiêm trọng của việc 
không chấp thuận viện trợ lƣơng thực có sử dụng công nghệ sinh học. Ông nói không có lý do gì biện minh cho việc các nƣớc từ 
chối ăn thực phẩm mà ngƣời dân Mỹ ăn hàng ngày và đã đƣợc kiểm nghiệm nghiêm ngặt. 
NGHỊ ĐỊNH THƯ CARTAGENA VỀ AN TOÀN SINH HỌC 37 
Nghị định thƣ về An toàn Sinh học, có hiệu lực vào ngày 11/9/2003, sẽ tạo cho các nƣớc cơ hội thu thập thông tin trƣớc khi nhập 
khẩu những sản phẩm sử dụng công nghệ sinh học mới. Tuy nhiên Nghị định thƣ không giải quyết các vấn đề về an toàn thực 
phẩm và không đòi hỏi dán nhãn sản phẩm dành cho ngƣời tiêu dùng. 
◘ BÌNH LUẬN 
VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP TRONG VIỆN TRỢ LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI 43 
Bruce Chassy, Giáo sư và Phó Giám đốc Điều hành Trung tâm Công nghệ Sinh học của Đại học Illinois Urbana-
Champaign 
Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng góp phần vào việc giảm bớt nạn đói kinh niên, đặc biệt tại vùng hạ Sahara của châu Phi, 
nơi đã bị lỡ “Cuộc Cách Mạng Xanh” trong thập kỷ 60 và 70. Đó là lời bình luận của Bruce Chassy. Ông khuyến khích tăng 
cƣờng đầu tƣ công cộng vào nghiên cứu, giáo dục và đào tạo trong nông nghiệp ở các cấp địa phƣơng, quốc gia và khu vực. 
TRIỂN VỌNG KINH TẾ 
Tạp chí Diện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz 
NỘI DUNG 
CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP 
7 
V¨n phßng c¸c Ch­¬ng tr×nh Th«ng tin Quèc tÕ, Bé Ngo¹i giao Hoa Kú cung cÊp c¸c s¶n phÈm vµ dÞch 
vô gi¶i thÝch vÒ chÝnh s¸ch, x· héi vµ c¸c gi¸ trÞ cña Mü. V¨n phßng xuÊt b¶n n¨m t¹p chÝ ®iÖn tö nghiªn cøu 
nh÷ng vÊn ®Ò cèt lâi mµ hiÖn nay n­íc Mü vµ céng ®ång quèc tÕ ®ang ph¶i ®èi mÆt. Tê b¸o nµy gåm n¨m chñ 
®Ò (TriÓn väng kinh tÕ, Nh÷ng vÊn ®Ò toµn cÇu, Nh÷ng vÊn ®Ò vÒ d©n chñ, Ch­¬ng tr×nh nghÞ sù chÝnh s¸ch ®èi 
ngo¹i Mü, X· héi vµ c¸c gi¸ trÞ Mü), cung cÊp c¸c th«ng tin ph©n tÝch b×nh luËn vµ c¬ b¶n vÒ c¸c lÜnh vùc chñ 
®Ò. 
TÊt c¶ c¸c sè ®Òu ®­îc xuÊt b¶n b»ng tiÕng Anh, tiÕng Ph¸p, tiÕng Bå §µo Nha vµ tiÕng T©y Ban Nha 
vµ nh÷ng sè chän läc cßn ®­îc xuÊt b¶n b»ng tiÕng ArËp vµ tiÕng Nga. Nh÷ng sè b»ng tiÕng Anh xuÊt b¶n 
c¸ch nhau kho¶ng mét th¸ng. C¸c sè dÞch sang tiÕng kh¸c xuÊt b¶n sau sè tiÕng Anh tõ 2 ®Õn 4 tuÇn. 
C¸c ý kiÕn nªu trªn c¸c tê b¸o kh«ng nhÊt thiÕt ph¶n ¶nh quan ®iÓm hoÆc chÝnh s¸ch cña chÝnh phñ Mü. 
Bé Ngo¹i giao Mü kh«ng chÞu tr¸ch nhiÖm vÒ néi dung vµ kh¶ n¨ng truy cËp th­êng xuyªn ®Õn c¸c Websites 
kÕt nèi víi c¸c b¸o, tr¸ch nhiÖm ®ã hoµn toµn thuéc vÒ c¸c nhµ qu¶n trÞ c¸c Websites nµy. C¸c bµi b¸o cã thÓ 
®­îc dÞch vµ ®¨ng l¹i ë n­íc ngoµi trõ c¸c bµi cã yªu cÇu xin phÐp b¶n quyÒn. 
C¸c sè b¸o hiÖn hµnh hoÆc sè cò cã thÓ t×m thÊy trªn trang chñ cña Phßng c¸c Ch­¬ng tr×nh th«ng tin 
quèc tÕ trªn m¹ng World Wide Web theo ®Þa chØ:  C¸c bµi b¸o ®­îc 
l­u d­íi nhiÒu d¹ng kh¸c nhau ®Ó tiÖn xem trùc tuyÕn, truyÒn t¶i xuèng vµ in ra. 
C¸c ý kiÕn ®ãng gãp xin göi ®Õn §¹i sø qu¸n Mü hoÆc göi ®Õn toµ so¹n ®Þa chØ: 
 Editor, Economic Perspectives 
 IIP/T/GIC 
 U.S. Department of State 
 301 4th Street, S.W. 
 Washington, DC 20547 
 United States of America 
 E-mail: ejecon@pd.state.gov 
Chịu trách nhiệm xuất bản 
Judith Siegel 
Tổng biên tập Jonathan Schaffer 
Thư ký tòa soạn Andrzej Zwaniecki 
Phó tổng biên tập Wayne Hall 
 Christian Larson 
Cộng tác viên Berta Gomez 
Linda Johnson 
Alyson McFarland 
Kathryn McConnell 
Bruce Odessey 
Harriet Rusin 
Phụ trách mỹ thuật Sylvia Scott 
Thiết kế trang bìa Thaddeus Miksinski 
Ban biên tập James Bullock 
George Clack 
Judith Siegel 
VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC ÁP DỤNG CHO CÂY TRỒNG TRONG HỆ THỐNG LƯƠNG 
THỰC THẾ GIỚI 
53 
A. M. Shelton,Giáo sư Côn trùng học,ĐHTH Cornell/Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp Bang New York 
Giáo sƣ A.M. Shelton cho rằng ở cấp độ phân tử, các sinh vật khá giống nhau. Chính tính tƣơng đồng này cho phép cấy ghép 
thành công những gien mong muốn giữa các loại sinh vật, do đó, công nghệ cấy ghép gien là một công cụ hữu hiệu hơn nhiều 
so với biện pháp lai tạo giống truyền thống trong việc cải thiện năng suất cây trồng và thúc đẩy các biện pháp sản xuất có lợi cho 
môi trƣờng. 
CẢI THIỆN NGÀNH NÔNG NGHIỆP CHĂN NUÔI NHỜ CÔNG NGHỆ SINH HỌC 63 
Terry D. Etherton, Giáo sư danh dự về Dinh dưỡng Động vật, ĐHTH Bang Pennsylvania 
Thức ăn gia súc đƣợc sản xuất bằng công nghệ sinh học đã chứng tỏ đƣợc khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm lƣợng 
chất thải của gia súc và hạ thấp lƣợng độc tố có thể gây bệnh cho gia súc. Thức ... truyền thông mới mà cho 
đến nay công chúng và các nhóm ủng hộ vẫn 
chưa có được. Ở thời của mình, Khair Beg đã bị 
xúc phạm khi biết rằng các quán cà phê đã trở 
thành một nguồn thông tin xác thực về những 
điều đang diễn ra trên lãnh địa của ông ta. Cũng 
giống như vậy, Internet đã trở thành một công cụ 
truyền thông quan trọng hơn các biện pháp 
truyền thống như quảng cáo trên tivi. 
75 
Vậy thì có thể làm gì trong hoàn cảnh này, đặc 
biệt là với những nước đang phát triển hiện là 
tiêu điểm sự chú ý của những người ủng hộ và 
chỉ trích công nghệ sinh học? Hoạt động trong 
môi trường truyền thông toàn cầu mới sẽ đòi hỏi 
đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm công nghệ 
sinh học, tăng số lượng các tổ chức tham gia, 
đẩy mạnh nghiên cứu chính sách về ngành sinh 
vật học và xã hội, và phải có vai trò lãnh đạo 
chính trị mạnh mẽ hơn. 
SẢN PHẨM LÊN TIẾNG TỐT HƠN NGÔN TỪ 
Phần nhiều cuộc tranh luận về vai trò của công 
nghệ sinh học tại các nước đang phát triển dựa 
trên những lập luận giả định mà không có sản 
phẩm thật trong tay các nhà sản xuất hay người 
tiêu dùng. Trong hoàn cảnh ấy, trao đổi thông tin 
và đối thoại là không đủ cho đến khi có một đơn 
vị tham chiếu thực tế. Nói cách khác, phản bác 
tuyên bố của những người chỉ trích không quan 
trọng bằng việc thể hiện những lợi ích của sản 
phẩm thực trên thị trường. 
Có thể thực hiện tốt điều này thông qua việc 
phối hợp nỗ lực của các nhà khoa học địa 
phương, các doanh nhân, các nhà hoạch định 
chính sách và các tổ chức xã hội dân sự hợp 
pháp. Có đầy đủ chứng cứ cho thấy rằng những 
lo ngại về độ an toàn của các sản phẩm mới có 
xu hướng giảm đi khi người dân địa phương 
tham gia và sở hữu nhiều hơn các công nghệ 
mới. Tương tự như vậy, sự tham gia của người 
địa phương vào công nghệ mới làm tăng cường 
mức độ tin tưởng vào công nghệ mới, do đó làm 
giảm yêu cầu phải có các quy định về an toàn 
không dựa trên cơ sở khoa học. Ví dụ, lời nói 
của một nông dân ở Nam Phi khẳng định tác 
động tích cực của bông biến đổi gien đối với sự 
thịnh vượng của mình có trọng lượng hơn cả 
ngàn thông cáo báo chí ồn ào và những tiêu đề 
trống rỗng từ cả hai phía của cuộc tranh luận. 
Điều này có nghĩa là việc mở rộng phạm vi ứng 
dụng công nghệ sinh học không chỉ nâng cao sự 
hiểu biết về loại công nghệ này mà còn tạo ra 
thông tin cần thiết để thuyết phục công chúng về 
tính thích hợp và hữu dụng nó. Vì thế, việc mở 
rộng phạm vi sản phẩm là một khía cạnh then 
chốt của cuộc tranh luận. Điều này đặc biệt quan 
trọng tại những nước đang phát triển quan tâm 
đến việc sử dụng công nghệ mới để nâng cao sản 
phẩm địa phương và đa dạng hóa nguồn lương 
thực của họ. 
Ví dụ, thông tin về sự phát triển của các loại cây 
trồng có khả năng chống chịu khô hạn sẽ thích 
hợp với các nước châu Phi, trong khi đó các khu 
vực khác có thể quan tâm đến các sản phẩm 
khác. Cách nhìn này cũng cho thấy rằng những 
cuộc tranh luận chung chung về vai trò của công 
nghệ sinh học hầu như không có tính thiết thực 
trừ phi được đặt trong khuôn khổ nhu cầu và ứng 
dụng ở địa phương. 
Việc thiếu sự tin tưởng thực sự vào công nghệ 
mới tạo ra một khoảng trống thường được lấp 
đầy bởi những thông tin sai lệch về nguy cơ và 
lợi ích của loại công nghệ mới này. Những nước 
có chương trình nghiên cứu công nghệ sinh học 
riêng như Kenya và Nam Phi có một quan điểm 
thấu đáo hơn về loại công nghệ này. 
MỞ RỘNG LỰC LƯỢNG ỦNG HỘ 
Giải quyết vấn đề trao đổi thông tin về công 
nghệ sinh học đòi hỏi phải nâng cao hiểu biết về 
môi trường truyền thông đang biến đổi. Môi 
trường này bao gồm một mạng lưới phức tạp các 
nguồn thông tin và các lãnh tụ tư tưởng cũng 
như những công cụ truyền thông mới mà cho 
đến nay công chúng và các nhóm ủng hộ vẫn 
chưa có được. Ở thời của mình, Khair Beg đã bị 
xúc phạm khi biết rằng các quán cà phê đã trở 
thành một nguồn thông tin xác thực về những 
điều đang diễn ra trên lãnh địa của ông ta. Cũng 
giống như vậy, Internet đã trở thành một công cụ 
truyền thông quan trọng hơn các biện pháp 
truyền thống như quảng cáo trên tivi. 
77 
Nhưng không giống như thời của Khair Beg, 
môi trường truyền thông mới mang tính toàn 
cầu, tạo điều kiện phổ biến thông tin rộng rãi và 
tạo ra sự cảm thông giữa nhiều tổ chức hoạt 
động khác nhau, bao gồm cả những tổ chức có lẽ 
không chịu tác động của công nghệ mới. Những 
cộng đồng trên mạng này được xây dựng xung 
quanh một tổ hợp hòm thư phức tạp không dễ gì 
tiếp cận. Việc sửa chữa những thông tin sai lệch 
được phổ biến thông qua những kênh như thế rất 
khó thực hiện do tính phức tạp của hệ thống 
mạng. 
Trong khi các nhà hoạt động có xu hướng sử 
dụng một loạt phong trào xã hội đa dạng để thực 
hiện mục đích của mình, những người ủng hộ lại 
có xu hướng tập trung vào việc sử dụng những 
thể chế tập trung hóa mà ảnh hưởng của những 
thể chế này rất nhỏ trong môi trường truyền 
thông hiện đại. Việc tạo ra tính đa dạng cần thiết 
đòi hỏi phải mở rộng cơ sở của các phong trào 
xã hội đề cao vai trò của khoa học và công nghệ 
đối với sự thịnh vượng của con người. 
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của 
cuộc tranh luận về công nghệ sinh học là vai trò 
của các phương tiện truyền thông đại chúng. Ví 
dụ, tại châu Âu, ngành truyền thông có một vai 
trò quan trọng trong việc khuyếch đại lập luận 
của những người chỉ trích hoặc tạo ra sự nghi 
ngờ về quan điểm mà những người ủng hộ công 
nghệ mới đưa ra. Ngược lại, sự ủng hộ vai trò 
của khoa học thường không có tính luận chiến 
quen thuộc ở các biên tập viên báo chí. 
Những cách tiếp cận đòi hỏi sự tham gia nhiều 
hơn vào quá trình ra chính sách hiện đang thách 
thức quan điểm truyền thống cho rằng khoa học 
dựa trên các sự việc bất biến có thể được chuyển 
tải từ chính quyền xuống dân chúng. Nói cách 
khác, thông tin khoa học đang được đưa ra để 
thực hành dân chủ. 
Cuộc tranh luận về công nghệ sinh học đã thúc 
đẩy công chúng chuyển sang bàn thảo các vấn 
đề kỹ thuật. Một mặt, xã hội đang buộc phải giải 
quyết những vấn đề vốn mang tính kỹ thuật, mặt 
khác, cộng đồng khoa học đang chịu áp lực phải 
chấp nhận những vấn đề phi kỹ thuật như những 
yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết sách. 
NGHĨ VỀ TƯƠNG LAI 
Các cơ quan nghiên cứu thiên về chính sách và 
các cơ quan tham mưu đóng một vai trò quan 
trọng trong cuộc chiến về ngôn từ. Điều đáng 
chú ý là những người chỉ trích công nghệ sinh 
học đã có nỗ lực đáng kể trong việc tạo liên 
minh với các cơ quan nghiên cứu, bao gồm cả 
các khoa của trường đại học. Phần nhiều các nội 
dung được dùng để đặt vấn đề về độ an toàn của 
công nghệ sinh học thường được sự xác nhận 
của một cơ quan nghiên cứu. Song nhìn chung 
còn thiếu những nghiên cứu chính sách khách 
quan về vai trò của công nghệ sinh học trong xã 
hội, và do đó những người tìm cách thể hiện một 
cách nhìn khác có rất ít cơ hội để thu được thông 
tin đáng tin cậy. 
Việc thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống về sự 
tương tác giữa sinh vật học và xã hội là một trở 
ngại lớn trong nỗ lực thu hút quần chúng tham 
gia đối thoại về công nghệ sinh học. Điều này 
đặc biệt quan trọng khi xét đến thực tế là những 
tiến bộ trong sinh vật học gây ra những vấn đề 
đạo đức và sinh thái mới gắn liền với các ngành 
vật lý học và hóa học. Ví dụ, lo ngại về việc 
không thể thu hồi sản phẩm một khi được tung 
ra thị trường được nhấn mạnh hơn khi đề cập 
đến việc đưa các phát minh sinh học vào trong 
môi trường. 
DẪN ĐƯỜNG 
Phần nhiều cuộc tranh luận của công chúng 
nhằm mục đích tác động đến chính sách của 
chính phủ về công nghệ sinh học. Về mặt này, 
năng lực của các chính phủ trong việc đánh giá 
77 
Nhưng không giống như thời của Khair Beg, 
môi trường truyền thông mới mang tính toàn 
cầu, tạo điều kiện phổ biến thông tin rộng rãi và 
tạo ra sự cảm thông giữa nhiều tổ chức hoạt 
động khác nhau, bao gồm cả những tổ chức có lẽ 
không chịu tác động của công nghệ mới. Những 
cộng đồng trên mạng này được xây dựng xung 
quanh một tổ hợp hòm thư phức tạp không dễ gì 
tiếp cận. Việc sửa chữa những thông tin sai lệch 
được phổ biến thông qua những kênh như thế rất 
khó thực hiện do tính phức tạp của hệ thống 
mạng. 
Trong khi các nhà hoạt động có xu hướng sử 
dụng một loạt phong trào xã hội đa dạng để thực 
hiện mục đích của mình, những người ủng hộ lại 
có xu hướng tập trung vào việc sử dụng những 
thể chế tập trung hóa mà ảnh hưởng của những 
thể chế này rất nhỏ trong môi trường truyền 
thông hiện đại. Việc tạo ra tính đa dạng cần thiết 
đòi hỏi phải mở rộng cơ sở của các phong trào 
xã hội đề cao vai trò của khoa học và công nghệ 
đối với sự thịnh vượng của con người. 
Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của 
cuộc tranh luận về công nghệ sinh học là vai trò 
của các phương tiện truyền thông đại chúng. Ví 
dụ, tại châu Âu, ngành truyền thông có một vai 
trò quan trọng trong việc khuyếch đại lập luận 
của những người chỉ trích hoặc tạo ra sự nghi 
ngờ về quan điểm mà những người ủng hộ công 
nghệ mới đưa ra. Ngược lại, sự ủng hộ vai trò 
của khoa học thường không có tính luận chiến 
quen thuộc ở các biên tập viên báo chí. 
Những cách tiếp cận đòi hỏi sự tham gia nhiều 
hơn vào quá trình ra chính sách hiện đang thách 
thức quan điểm truyền thống cho rằng khoa học 
dựa trên các sự việc bất biến có thể được chuyển 
tải từ chính quyền xuống dân chúng. Nói cách 
khác, thông tin khoa học đang được đưa ra để 
thực hành dân chủ. 
Cuộc tranh luận về công nghệ sinh học đã thúc 
đẩy công chúng chuyển sang bàn thảo các vấn 
đề kỹ thuật. Một mặt, xã hội đang buộc phải giải 
quyết những vấn đề vốn mang tính kỹ thuật, mặt 
khác, cộng đồng khoa học đang chịu áp lực phải 
chấp nhận những vấn đề phi kỹ thuật như những 
yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết sách. 
NGHĨ VỀ TƯƠNG LAI 
Các cơ quan nghiên cứu thiên về chính sách và 
các cơ quan tham mưu đóng một vai trò quan 
trọng trong cuộc chiến về ngôn từ. Điều đáng 
chú ý là những người chỉ trích công nghệ sinh 
học đã có nỗ lực đáng kể trong việc tạo liên 
minh với các cơ quan nghiên cứu, bao gồm cả 
các khoa của trường đại học. Phần nhiều các nội 
dung được dùng để đặt vấn đề về độ an toàn của 
công nghệ sinh học thường được sự xác nhận 
của một cơ quan nghiên cứu. Song nhìn chung 
còn thiếu những nghiên cứu chính sách khách 
quan về vai trò của công nghệ sinh học trong xã 
hội, và do đó những người tìm cách thể hiện một 
cách nhìn khác có rất ít cơ hội để thu được thông 
tin đáng tin cậy. 
Việc thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống về sự 
tương tác giữa sinh vật học và xã hội là một trở 
ngại lớn trong nỗ lực thu hút quần chúng tham 
gia đối thoại về công nghệ sinh học. Điều này 
đặc biệt quan trọng khi xét đến thực tế là những 
tiến bộ trong sinh vật học gây ra những vấn đề 
đạo đức và sinh thái mới gắn liền với các ngành 
vật lý học và hóa học. Ví dụ, lo ngại về việc 
không thể thu hồi sản phẩm một khi được tung 
ra thị trường được nhấn mạnh hơn khi đề cập 
đến việc đưa các phát minh sinh học vào trong 
môi trường. 
DẪN ĐƯỜNG 
Phần nhiều cuộc tranh luận của công chúng 
nhằm mục đích tác động đến chính sách của 
chính phủ về công nghệ sinh học. Về mặt này, 
năng lực của các chính phủ trong việc đánh giá 
79 
những thông tin sẵn có và sử dụng chúng để đưa 
ra quyết sách là một phần quan trọng của cuộc 
tranh luận. Vai trò lãnh đạo chính trị về công 
nghệ sinh học và sự tồn tại của những tổ chức 
cần thiết tư vấn về khoa học và công nghệ là một 
khía cạnh quan trọng trong việc quản lý các 
công nghệ mới. 
Những cuộc tranh luận về công nghệ mới sẽ 
càng sôi nổi hơn trong tương lai, và các chính 
phủ sẽ ngày càng chịu nhiều áp lực phải giải 
quyết những vấn đề này. Song tư vấn về khoa 
học và công nghệ sẽ là không đủ trừ phi các 
chính phủ coi khoa học và công nghệ là một 
phần không thể tách rời của quá trình phát triển. 
Về mặt này, việc nâng cao năng lực lãnh đạo để 
giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ sẽ 
đóng góp vào việc quản lý có hiệu quả các cuộc 
tranh luận của công chúng về công nghệ mới nói 
chung và công nghệ sinh học nói riêng. 
Nhìn chung, tính chất của các công nghệ mới 
xuất hiện - đặc biệt là những công nghệ dựa trên 
ngành sinh vật học - và môi trường truyền thông 
đang biến đổi đang đặt ra sự cần thiết phải nhìn 
lại chiến lược thúc đẩy vai trò của công nghệ 
sinh học trong xã hội. Cộng đồng khoa học 
không những cần phải thể hiện vai trò lãnh đạo 
rõ ràng, mà còn phải điều chỉnh các phương 
pháp truyền thông của mình để thích hợp với độ 
phức tạp gia tăng và nhu cầu đa dạng của cộng 
đồng thế giới. Rút cục, phạm vi ứng dụng của 
các sản phẩm được tạo ra nhờ công nghệ sinh 
học để phục vụ nhân loại sẽ giải quyết cuộc 
tranh luận này chứ không phải những tuyên bố 
trống rỗng của những người chỉ trích và ủng hộ. 
————— 
Ghi chú: Những { kiến trình bày trong bài viết 
này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay 
chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kz. 
79 
những thông tin sẵn có và sử dụng chúng để đưa 
ra quyết sách là một phần quan trọng của cuộc 
tranh luận. Vai trò lãnh đạo chính trị về công 
nghệ sinh học và sự tồn tại của những tổ chức 
cần thiết tư vấn về khoa học và công nghệ là một 
khía cạnh quan trọng trong việc quản lý các 
công nghệ mới. 
Những cuộc tranh luận về công nghệ mới sẽ 
càng sôi nổi hơn trong tương lai, và các chính 
phủ sẽ ngày càng chịu nhiều áp lực phải giải 
quyết những vấn đề này. Song tư vấn về khoa 
học và công nghệ sẽ là không đủ trừ phi các 
chính phủ coi khoa học và công nghệ là một 
phần không thể tách rời của quá trình phát triển. 
Về mặt này, việc nâng cao năng lực lãnh đạo để 
giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ sẽ 
đóng góp vào việc quản lý có hiệu quả các cuộc 
tranh luận của công chúng về công nghệ mới nói 
chung và công nghệ sinh học nói riêng. 
Nhìn chung, tính chất của các công nghệ mới 
xuất hiện - đặc biệt là những công nghệ dựa trên 
ngành sinh vật học - và môi trường truyền thông 
đang biến đổi đang đặt ra sự cần thiết phải nhìn 
lại chiến lược thúc đẩy vai trò của công nghệ 
sinh học trong xã hội. Cộng đồng khoa học 
không những cần phải thể hiện vai trò lãnh đạo 
rõ ràng, mà còn phải điều chỉnh các phương 
pháp truyền thông của mình để thích hợp với độ 
phức tạp gia tăng và nhu cầu đa dạng của cộng 
đồng thế giới. Rút cục, phạm vi ứng dụng của 
các sản phẩm được tạo ra nhờ công nghệ sinh 
học để phục vụ nhân loại sẽ giải quyết cuộc 
tranh luận này chứ không phải những tuyên bố 
trống rỗng của những người chỉ trích và ủng hộ. 
————— 
Ghi chú: Những { kiến trình bày trong bài viết 
này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay 
chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kz. 
88 
Trung t©m Th«ng tin - T­ liÖu 
Phßng Th«ng tin - V¨n hãa 
§¹i sø qu¸n Hîp chñng quèc Hoa Kú 
TÇng 3, Rose Garden Tower, 6 Ngäc Kh¸nh, Hµ Néi 
Tel: (844) 831-4580 – Fax: (844) 831-4601 – Email: irchanoi@state.gov 
- 32 - 
Trung tâm Hoa Kỳ 
Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ 
Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội 
Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov 

File đính kèm:

  • pdfcong_nghe_sinh_hoc_nong_nghiep.pdf