Công nghệ Sinh học Nông nghiệp
Alan Larson cho rằng việc quản l{ công nghệ
sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học
góp phần tăng cường tự do buôn bán các thiết
bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng
đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát
triển. Larson còn cho rằng công nghệ sinh học –
một trong những loại công nghệ mới mang
nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta
– đóng vai trò quan trọng đối với sự thịnh
vượng trong tương lai của thế giới đến nỗi mà
chúng ta không thể không quan tâm.
Công nghệ sinh học là một trong những loại
công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong
thời đại của chúng ta. Việc tăng cường sử dụng
và buôn bán các sản phẩm tạo ra nhờ áp dụng
công nghệ sinh học nông nghiệp đang thúc đẩy
sự phồn thịnh ở cả các nước phát triển và các
nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong khi Hoa
Kỳ và nhiều quốc gia khác đang mở rộng việc
phát triển và sử dụng các sản phẩm công nghệ
sinh học an toàn thì một vài nước lại áp đặt
những hạn chế vô lý đối với các sản phẩm này.
Những hạn chế đó đe doạ hệ thống thương mại
quốc tế và đang ngăn cản các nước đang phát
triển khám phá tiềm năng to lớn của công nghệ
sinh học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống
cho các công dân của mình.
CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ KHÍA CẠNH
PHÁT TRIỂN
Năm 2000, tổng dân số thế giới là khoảng 6 tỉ và
theo dự kiến sẽ tăng lên 9 tỉ vào năm 2050. Vì
vậy, nhu cầu lương thực sẽ tăng lên trên một
hành tinh ngày càng đông dân. Sản xuất lương
thực cũng phải tăng lên mà vẫn giữ được một
môi trường bền vững. Từ năm 1980, 50% năng
suất nông nghiệp tăng lên ở các nước đang phát
triển là nhờ cải tiến công nghệ sản xuất hạt
giống. Chất lượng hạt giống được nâng cao nhờ
cải tiến các phương pháp truyền thống, phát triển
các giống cây lai thông thường và công nghệ
sinh học. Mặc dù không phải là một phương
thuốc chữa bách bệnh, song công nghệ sinh học
có thể có một đóng góp quan trọng.
Công nghệ sinh học nông nghiệp giải quyết được
vấn đề tăng năng suất cây trồng mà vẫn đáp ứng
tiêu chuẩn đảm bảo môi trường bền vững. Ở Hoa
Kỳ, việc tăng sử dụng công nghệ sinh học nông
nghiệp đang dẫn đến giảm sử dụng thuốc trừ sâu
và tăng cường áp dụng các phương pháp canh
tác có lợi cho môi trường ví dụ như phương
pháp canh tác ―không làm đất‖, một phương
pháp làm giảm tình trạng xói mòn đất trồng và
rửa trôi phân bón. Năng suất canh tác tăng lên có
nghĩa là trên cùng một diện tích đất trồng trọt có
thể sản xuất ra nhiều lương thực hơn. Do áp lực
dân số sẽ tăng lên trong những năm tới, việc đủ
khả năng trồng trọt để đáp ứng nhu cầu lương
thực của dân số thế giới mà không xâm phạm tới
những yếu tố môi trường đóng vai trò sống còn
đối với trái đất, ví dụ như các rừng nhiệt đới, sẽ
mang lại lợi ích to lớn cho môi trường.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghệ Sinh học Nông nghiệp
1 K i n h t ế Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz Tập 8, Số 3 Tháng 9/2003 Công nghệ Sinh học Nông nghiệp 1 K i n h t ế Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz Tập 8, Số 3 Tháng 9/2003 Công nghệ Sinh học Nông nghiệp 3 Khoa học và công nghệ đã giúp mang lại một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp vào thế kỉ 20 ở nhiều nơi trên thế giới. Tạp chí Triển vọng Kinh tế số ra lần này tập trung nêu rõ xem những tiến bộ về công nghệ sinh học có thể được điều chỉnh như thế nào nhằm mang lại lợi ích cho thế giới ở thế kỉ 21, đặc biệt là những nước đang phát triển. Nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc động vật và thực vật từ lâu đã là mục tiêu của ngành khoa học nông nghiệp. Đó cũng vẫn là mục tiêu của công nghệ sinh học nông nghiệp, loại công nghệ có thể đóng vai trò là một công cụ quan trọng trong việc giảm nạn đói và đáp ứng nhu cầu lương thực của một hành tinh với dân số đang gia tăng về số lượng và tuổi thọ, trong khi vẫn giảm được những tác động tiêu cực đối với môi trường do các hoạt động trồng trọt gây ra. Trong một môi trường quy định và chính sách thuận lợi, công nghệ sinh học có vô vàn tiềm năng tạo ra những giống cây trồng chịu được thời tiết khắc nghiệt, chống được các loại dịch bệnh và các loài gây hại; cần dùng ít hóa chất hơn; đồng thời cung cấp nhiều dinh dưỡng hơn cho con người và những gia súc sử dụng chúng. Tuy nhiên, vẫn còn có những tranh cãi xung quanh loại công nghệ mới này. Tạp chí điện tử lần này đề cập tới những cuộc tranh cãi đang tiếp diễn, đồng thời đưa ra cơ sở khoa học đúng đắn cho việc sử dụng loại công nghệ này. Vào tháng 6 năm 2003, các bộ trưởng nông nghiệp, y tế và môi trường từ hơn 110 quốc gia đã nhóm họp tại California và đã trực tiếp thấy được công nghệ, trong đó có công nghệ sinh học, có thể làm tăng năng suất và giảm tình trạng thiếu lương thực trên toàn cầu như thế nào. Bằng cách chia sẻ thông tin về việc công nghệ có thể làm tăng năng suất nông nghiệp, chúng ta có thể góp phần giảm tình trạng thiếu lương thực trên thế giới. Đóng góp bài viết cho Tạp chí lần này có Thứ trưởng Ngoại giao Alan Larson, Thứ trưởng Nông nghiệp J.B. Penn, Phó Giám đốc Cục Quản l{ Thực phẩm và Dược phẩm Lester Crawford, và Đại sứ Tony Hall, Đại diện của Mỹ tại Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc. Những quan chức này đề cập đến một loạt các vấn đề từ cơ sở khoa học của công nghệ sinh học tới an toàn lương thực và các vấn đề nhãn mác sản phẩm. Bên cạnh những bài viết của họ, Tạp chí lần này còn nhận được sự đóng góp của một nhóm những nhà nghiên cứu và học giả có uy tín trên thế giới, một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kz về Nghị định thư An toàn Sinh học Cartagena và các nguồn tin bổ sung khác. Ann M. Venenan Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa Kz TRIỂN VỌNG KINH TẾ Công nghệ Sinh học Nông nghiệp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Tập 8, Số 3, tháng 9/2003 Tạp chí Điện tử 3 Khoa học và công nghệ đã giúp mang lại một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp vào thế kỉ 20 ở nhiều nơi trên thế giới. Tạp chí Triển vọng Kinh tế số ra lần này tập trung nêu rõ xem những tiến bộ về công nghệ sinh học có thể được điều chỉnh như thế nào nhằm mang lại lợi ích cho thế giới ở thế kỉ 21, đặc biệt là những nước đang phát triển. Nâng cao năng suất và những đặc tính tốt của các sản phẩm lương thực có nguồn gốc động vật và thực vật từ lâu đã là mục tiêu của ngành khoa học nông nghiệp. Đó cũng vẫn là mục tiêu của công nghệ sinh học nông nghiệp, loại công nghệ có thể đóng vai trò là một công cụ quan trọng trong việc giảm nạn đói và đáp ứng nhu cầu lương thực của một hành tinh với dân số đang gia tăng về số lượng và tuổi thọ, trong khi vẫn giảm được những tác động tiêu cực đối với môi trường do các hoạt động trồng trọt gây ra. Trong một môi trường quy định và chính sách thuận lợi, công nghệ sinh học có vô vàn tiềm năng tạo ra những giống cây trồng chịu được thời tiết khắc nghiệt, chống được các loại dịch bệnh và các loài gây hại; cần dùng ít hóa chất hơn; đồng thời cung cấp nhiều dinh dưỡng hơn cho con người và những gia súc sử dụng chúng. Tuy nhiên, vẫn còn có những tranh cãi xung quanh loại công nghệ mới này. Tạp chí điện tử lần này đề cập tới những cuộc tranh cãi đang tiếp diễn, đồng thời đưa ra cơ sở khoa học đúng đắn cho việc sử dụng loại công nghệ này. Vào tháng 6 năm 2003, các bộ trưởng nông nghiệp, y tế và môi trường từ hơn 110 quốc gia đã nhóm họp tại California và đã trực tiếp thấy được công nghệ, trong đó có công nghệ sinh học, có thể làm tăng năng suất và giảm tình trạng thiếu lương thực trên toàn cầu như thế nào. Bằng cách chia sẻ thông tin về việc công nghệ có thể làm tăng năng suất nông nghiệp, chúng ta có thể góp phần giảm tình trạng thiếu lương thực trên thế giới. Đóng góp bài viết cho Tạp chí lần này có Thứ trưởng Ngoại giao Alan Larson, Thứ trưởng Nông nghiệp J.B. Penn, Phó Giám đốc Cục Quản l{ Thực phẩm và Dược phẩm Lester Crawford, và Đại sứ Tony Hall, Đại diện của Mỹ tại Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc. Những quan chức này đề cập đến một loạt các vấn đề từ cơ sở khoa học của công nghệ sinh học tới an toàn lương thực và các vấn đề nhãn mác sản phẩm. Bên cạnh những bài viết của họ, Tạp chí lần này còn nhận được sự đóng góp của một nhóm những nhà nghiên cứu và học giả có uy tín trên thế giới, một báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kz về Nghị định thư An toàn Sinh học Cartagena và các nguồn tin bổ sung khác. Ann M. Venenan Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Hoa Kz TRIỂN VỌNG KINH TẾ Công nghệ Sinh học Nông nghiệp Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Tập 8, Số 3, tháng 9/2003 Tạp chí Điện tử 5 ◘ TRỌNG TÂM NHỮNG KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH SÁCH CNSH QUỐC TẾ CỦA MỸ 9 Alan Larson, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Vấn đề Kinh tế, Thương mại và Nông nghiệp Larson cho rằng việc quản lý công nghệ sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học góp phần tăng cƣờng tự do buôn bán các thiết bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát triển. Larson còn cho rằng công nghệ sinh học – một trong những loại công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta – đóng vai trò quan trọng đối với sự thịnh vƣợng trong tƣơng lai của thế giới đến nỗi mà chúng ta không thể không quan tâm. CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN 15 J.B. Penn, Thứ trưởng Nông nghiệp phụ trách Dịch vụ Trồng trọt và Nông nghiệp Đối ngoại Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng đóng một vai trò lớn trong việc thúc đẩy năng suất nông nghiệp tăng nhanh đồng thời vẫn góp phần bảo vệ môi trƣờng cho các thế hệ tƣơng lai. Đó là lời bình luận của J.B. Penn, ông cho rằng công nghệ sinh học đơn giản là một công cụ khác để cải thiện mùa màng trong lịch sử trồng trọt lâu đời. QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG NÔNG NGHIỆP 21 Lester M. Crawford, Phó Giám đốc, Cục Lương thực và Dược phẩm Hoa Kz Công nghệ sinh học mang lại những lợi thế rõ rệt so với các công nghệ lai giống truyền thống do nguy cơ về những đặc điểm bất lợi có thể đƣợc giảm thiểu. Đó là quan điểm của Crawford, một tiến sỹ về thuốc thú y, ông lập luận rằng không có cơ sở khoa học nào yêu cầu một sản phẩm phải đƣợc dán nhãn mác để chỉ ra rằng sản phẩm hoặc các thành phần của nó đƣợc sản xuất theo công nghệ sinh học. MỘT NẠN ĐÓI XANH Ở CHÂU PHI? 31 Đại sứ Tony P. Hall, Phái đoàn của Hoa Kỳ tại các Cơ quan Nông Lương của Liên Hợp Quốc Ông Tony Hall cho rằng những nƣớc đang đối mặt với nạn đói phải xem xét những hậu quả tức thời, nghiêm trọng của việc không chấp thuận viện trợ lƣơng thực có sử dụng công nghệ sinh học. Ông nói không có lý do gì biện minh cho việc các nƣớc từ chối ăn thực phẩm mà ngƣời dân Mỹ ăn hàng ngày và đã đƣợc kiểm nghiệm nghiêm ngặt. NGHỊ ĐỊNH THƯ CARTAGENA VỀ AN TOÀN SINH HỌC 37 Nghị định thƣ về An toàn Sinh học, có hiệu lực vào ngày 11/9/2003, sẽ tạo cho các nƣớc cơ hội thu thập thông tin trƣớc khi nhập khẩu những sản phẩm sử dụng công nghệ sinh học mới. Tuy nhiên Nghị định thƣ không giải quyết các vấn đề về an toàn thực phẩm và không đòi hỏi dán nhãn sản phẩm dành cho ngƣời tiêu dùng. ◘ BÌNH LUẬN VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP TRONG VIỆN TRỢ LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI 43 Bruce Chassy, Giáo sư và Phó Giám đốc Điều hành Trung tâm Công nghệ Sinh học của Đại học Illinois Urbana- Champaign Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng góp phần vào việc giảm bớt nạn đói kinh niên, đặc biệt tại vùng hạ Sahara của châu Phi, nơi đã bị lỡ “Cuộc Cách Mạng Xanh” trong thập kỷ 60 và 70. Đó là lời bình luận của Bruce Chassy. Ông khuyến khích tăng cƣờng đầu tƣ công cộng vào nghiên cứu, giáo dục và đào tạo trong nông nghiệp ở các cấp địa phƣơng, quốc gia và khu vực. TRIỂN VỌNG KINH TẾ Tạp chí Diện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz NỘI DUNG CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP 5 ◘ TRỌNG TÂM NHỮNG KHÍA CẠNH THƯƠNG MẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHÍNH SÁCH CNSH QUỐC TẾ CỦA MỸ 9 Alan Larson, Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách Vấn đề Kinh tế, Thương mại và Nông nghiệp Larson cho rằng việc quản lý công nghệ sinh học nông nghiệp dựa trên cơ sở khoa học góp phần tăng cƣờng tự do buôn bán các thiết bị công nghệ sinh học an toàn và sử dụng đúng đắn loại công nghệ này nhằm thúc đẩy phát triển. Larson còn cho rằng công nghệ sinh học – một trong những loại công nghệ mới mang nhiều hứa hẹn nhất trong thời đại của chúng ta – đóng vai trò quan trọng đối với sự thịnh vƣợng trong tƣơng lai của thế giới đến nỗi mà chúng ta không thể không quan tâm. CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THẾ GIỚI ĐANG PHÁT TRIỂN 15 J.B. Penn, Thứ trưởng Nông nghiệp phụ trách Dịch vụ Trồng trọt và Nông nghiệp Đối ngoại Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng đóng một vai trò lớn trong việc thúc đẩy năng suất nông nghiệp tăng nhanh đồng thời vẫn góp phần bảo vệ môi trƣờng cho các thế hệ tƣơng lai. Đó là lời bình luận của J.B. Penn, ông cho rằng công nghệ sinh học đơn giản là một công cụ khác để cải thiện mùa màng trong lịch sử trồng trọt lâu đời. QUAN NIỆM VỀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG NÔNG NGHIỆP 21 Lester M. Crawford, Phó Giám đốc, Cục Lương thực và Dược phẩm Hoa Kz Công nghệ sinh học mang lại những lợi thế rõ rệt so với các công nghệ lai giống truyền thống do nguy cơ về những đặc điểm bất lợi có thể đƣợc giảm thiểu. Đó là quan điểm của Crawford, một tiến sỹ về thuốc thú y, ông lập luận rằng không có cơ sở khoa học nào yêu cầu một sản phẩm phải đƣợc dán nhãn mác để chỉ ra rằng sản phẩm hoặc các thành phần của nó đƣợc sản xuất theo công nghệ sinh học. MỘT NẠN ĐÓI XANH Ở CHÂU PHI? 31 Đại sứ Tony P. Hall, Phái đoàn của Hoa Kỳ tại các Cơ quan Nông Lương của Liên Hợp Quốc Ông Tony Hall cho rằng những nƣớc đang đối mặt với nạn đói phải xem xét những hậu quả tức thời, nghiêm trọng của việc không chấp thuận viện trợ lƣơng thực có sử dụng công nghệ sinh học. Ông nói không có lý do gì biện minh cho việc các nƣớc từ chối ăn thực phẩm mà ngƣời dân Mỹ ăn hàng ngày và đã đƣợc kiểm nghiệm nghiêm ngặt. NGHỊ ĐỊNH THƯ CARTAGENA VỀ AN TOÀN SINH HỌC 37 Nghị định thƣ về An toàn Sinh học, có hiệu lực vào ngày 11/9/2003, sẽ tạo cho các nƣớc cơ hội thu thập thông tin trƣớc khi nhập khẩu những sản phẩm sử dụng công nghệ sinh học mới. Tuy nhiên Nghị định thƣ không giải quyết các vấn đề về an toàn thực phẩm và không đòi hỏi dán nhãn sản phẩm dành cho ngƣời tiêu dùng. ◘ BÌNH LUẬN VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP TRONG VIỆN TRỢ LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI 43 Bruce Chassy, Giáo sư và Phó Giám đốc Điều hành Trung tâm Công nghệ Sinh học của Đại học Illinois Urbana- Champaign Công nghệ sinh học có nhiều tiềm năng góp phần vào việc giảm bớt nạn đói kinh niên, đặc biệt tại vùng hạ Sahara của châu Phi, nơi đã bị lỡ “Cuộc Cách Mạng Xanh” trong thập kỷ 60 và 70. Đó là lời bình luận của Bruce Chassy. Ông khuyến khích tăng cƣờng đầu tƣ công cộng vào nghiên cứu, giáo dục và đào tạo trong nông nghiệp ở các cấp địa phƣơng, quốc gia và khu vực. TRIỂN VỌNG KINH TẾ Tạp chí Diện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kz NỘI DUNG CÔNG NGHỆ SINH HỌC NÔNG NGHIỆP 7 V¨n phßng c¸c Ch¬ng tr×nh Th«ng tin Quèc tÕ, Bé Ngo¹i giao Hoa Kú cung cÊp c¸c s¶n phÈm vµ dÞch vô gi¶i thÝch vÒ chÝnh s¸ch, x· héi vµ c¸c gi¸ trÞ cña Mü. V¨n phßng xuÊt b¶n n¨m t¹p chÝ ®iÖn tö nghiªn cøu nh÷ng vÊn ®Ò cèt lâi mµ hiÖn nay níc Mü vµ céng ®ång quèc tÕ ®ang ph¶i ®èi mÆt. Tê b¸o nµy gåm n¨m chñ ®Ò (TriÓn väng kinh tÕ, Nh÷ng vÊn ®Ò toµn cÇu, Nh÷ng vÊn ®Ò vÒ d©n chñ, Ch¬ng tr×nh nghÞ sù chÝnh s¸ch ®èi ngo¹i Mü, X· héi vµ c¸c gi¸ trÞ Mü), cung cÊp c¸c th«ng tin ph©n tÝch b×nh luËn vµ c¬ b¶n vÒ c¸c lÜnh vùc chñ ®Ò. TÊt c¶ c¸c sè ®Òu ®îc xuÊt b¶n b»ng tiÕng Anh, tiÕng Ph¸p, tiÕng Bå §µo Nha vµ tiÕng T©y Ban Nha vµ nh÷ng sè chän läc cßn ®îc xuÊt b¶n b»ng tiÕng ArËp vµ tiÕng Nga. Nh÷ng sè b»ng tiÕng Anh xuÊt b¶n c¸ch nhau kho¶ng mét th¸ng. C¸c sè dÞch sang tiÕng kh¸c xuÊt b¶n sau sè tiÕng Anh tõ 2 ®Õn 4 tuÇn. C¸c ý kiÕn nªu trªn c¸c tê b¸o kh«ng nhÊt thiÕt ph¶n ¶nh quan ®iÓm hoÆc chÝnh s¸ch cña chÝnh phñ Mü. Bé Ngo¹i giao Mü kh«ng chÞu tr¸ch nhiÖm vÒ néi dung vµ kh¶ n¨ng truy cËp thêng xuyªn ®Õn c¸c Websites kÕt nèi víi c¸c b¸o, tr¸ch nhiÖm ®ã hoµn toµn thuéc vÒ c¸c nhµ qu¶n trÞ c¸c Websites nµy. C¸c bµi b¸o cã thÓ ®îc dÞch vµ ®¨ng l¹i ë níc ngoµi trõ c¸c bµi cã yªu cÇu xin phÐp b¶n quyÒn. C¸c sè b¸o hiÖn hµnh hoÆc sè cò cã thÓ t×m thÊy trªn trang chñ cña Phßng c¸c Ch¬ng tr×nh th«ng tin quèc tÕ trªn m¹ng World Wide Web theo ®Þa chØ: C¸c bµi b¸o ®îc lu díi nhiÒu d¹ng kh¸c nhau ®Ó tiÖn xem trùc tuyÕn, truyÒn t¶i xuèng vµ in ra. C¸c ý kiÕn ®ãng gãp xin göi ®Õn §¹i sø qu¸n Mü hoÆc göi ®Õn toµ so¹n ®Þa chØ: Editor, Economic Perspectives IIP/T/GIC U.S. Department of State 301 4th Street, S.W. Washington, DC 20547 United States of America E-mail: ejecon@pd.state.gov Chịu trách nhiệm xuất bản Judith Siegel Tổng biên tập Jonathan Schaffer Thư ký tòa soạn Andrzej Zwaniecki Phó tổng biên tập Wayne Hall Christian Larson Cộng tác viên Berta Gomez Linda Johnson Alyson McFarland Kathryn McConnell Bruce Odessey Harriet Rusin Phụ trách mỹ thuật Sylvia Scott Thiết kế trang bìa Thaddeus Miksinski Ban biên tập James Bullock George Clack Judith Siegel VAI TRÕ CỦA CÔNG NGHỆ SINH HỌC ÁP DỤNG CHO CÂY TRỒNG TRONG HỆ THỐNG LƯƠNG THỰC THẾ GIỚI 53 A. M. Shelton,Giáo sư Côn trùng học,ĐHTH Cornell/Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp Bang New York Giáo sƣ A.M. Shelton cho rằng ở cấp độ phân tử, các sinh vật khá giống nhau. Chính tính tƣơng đồng này cho phép cấy ghép thành công những gien mong muốn giữa các loại sinh vật, do đó, công nghệ cấy ghép gien là một công cụ hữu hiệu hơn nhiều so với biện pháp lai tạo giống truyền thống trong việc cải thiện năng suất cây trồng và thúc đẩy các biện pháp sản xuất có lợi cho môi trƣờng. CẢI THIỆN NGÀNH NÔNG NGHIỆP CHĂN NUÔI NHỜ CÔNG NGHỆ SINH HỌC 63 Terry D. Etherton, Giáo sư danh dự về Dinh dưỡng Động vật, ĐHTH Bang Pennsylvania Thức ăn gia súc đƣợc sản xuất bằng công nghệ sinh học đã chứng tỏ đƣợc khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm lƣợng chất thải của gia súc và hạ thấp lƣợng độc tố có thể gây bệnh cho gia súc. Thức ... truyền thông mới mà cho đến nay công chúng và các nhóm ủng hộ vẫn chưa có được. Ở thời của mình, Khair Beg đã bị xúc phạm khi biết rằng các quán cà phê đã trở thành một nguồn thông tin xác thực về những điều đang diễn ra trên lãnh địa của ông ta. Cũng giống như vậy, Internet đã trở thành một công cụ truyền thông quan trọng hơn các biện pháp truyền thống như quảng cáo trên tivi. 75 Vậy thì có thể làm gì trong hoàn cảnh này, đặc biệt là với những nước đang phát triển hiện là tiêu điểm sự chú ý của những người ủng hộ và chỉ trích công nghệ sinh học? Hoạt động trong môi trường truyền thông toàn cầu mới sẽ đòi hỏi đa dạng hóa hơn nữa các sản phẩm công nghệ sinh học, tăng số lượng các tổ chức tham gia, đẩy mạnh nghiên cứu chính sách về ngành sinh vật học và xã hội, và phải có vai trò lãnh đạo chính trị mạnh mẽ hơn. SẢN PHẨM LÊN TIẾNG TỐT HƠN NGÔN TỪ Phần nhiều cuộc tranh luận về vai trò của công nghệ sinh học tại các nước đang phát triển dựa trên những lập luận giả định mà không có sản phẩm thật trong tay các nhà sản xuất hay người tiêu dùng. Trong hoàn cảnh ấy, trao đổi thông tin và đối thoại là không đủ cho đến khi có một đơn vị tham chiếu thực tế. Nói cách khác, phản bác tuyên bố của những người chỉ trích không quan trọng bằng việc thể hiện những lợi ích của sản phẩm thực trên thị trường. Có thể thực hiện tốt điều này thông qua việc phối hợp nỗ lực của các nhà khoa học địa phương, các doanh nhân, các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức xã hội dân sự hợp pháp. Có đầy đủ chứng cứ cho thấy rằng những lo ngại về độ an toàn của các sản phẩm mới có xu hướng giảm đi khi người dân địa phương tham gia và sở hữu nhiều hơn các công nghệ mới. Tương tự như vậy, sự tham gia của người địa phương vào công nghệ mới làm tăng cường mức độ tin tưởng vào công nghệ mới, do đó làm giảm yêu cầu phải có các quy định về an toàn không dựa trên cơ sở khoa học. Ví dụ, lời nói của một nông dân ở Nam Phi khẳng định tác động tích cực của bông biến đổi gien đối với sự thịnh vượng của mình có trọng lượng hơn cả ngàn thông cáo báo chí ồn ào và những tiêu đề trống rỗng từ cả hai phía của cuộc tranh luận. Điều này có nghĩa là việc mở rộng phạm vi ứng dụng công nghệ sinh học không chỉ nâng cao sự hiểu biết về loại công nghệ này mà còn tạo ra thông tin cần thiết để thuyết phục công chúng về tính thích hợp và hữu dụng nó. Vì thế, việc mở rộng phạm vi sản phẩm là một khía cạnh then chốt của cuộc tranh luận. Điều này đặc biệt quan trọng tại những nước đang phát triển quan tâm đến việc sử dụng công nghệ mới để nâng cao sản phẩm địa phương và đa dạng hóa nguồn lương thực của họ. Ví dụ, thông tin về sự phát triển của các loại cây trồng có khả năng chống chịu khô hạn sẽ thích hợp với các nước châu Phi, trong khi đó các khu vực khác có thể quan tâm đến các sản phẩm khác. Cách nhìn này cũng cho thấy rằng những cuộc tranh luận chung chung về vai trò của công nghệ sinh học hầu như không có tính thiết thực trừ phi được đặt trong khuôn khổ nhu cầu và ứng dụng ở địa phương. Việc thiếu sự tin tưởng thực sự vào công nghệ mới tạo ra một khoảng trống thường được lấp đầy bởi những thông tin sai lệch về nguy cơ và lợi ích của loại công nghệ mới này. Những nước có chương trình nghiên cứu công nghệ sinh học riêng như Kenya và Nam Phi có một quan điểm thấu đáo hơn về loại công nghệ này. MỞ RỘNG LỰC LƯỢNG ỦNG HỘ Giải quyết vấn đề trao đổi thông tin về công nghệ sinh học đòi hỏi phải nâng cao hiểu biết về môi trường truyền thông đang biến đổi. Môi trường này bao gồm một mạng lưới phức tạp các nguồn thông tin và các lãnh tụ tư tưởng cũng như những công cụ truyền thông mới mà cho đến nay công chúng và các nhóm ủng hộ vẫn chưa có được. Ở thời của mình, Khair Beg đã bị xúc phạm khi biết rằng các quán cà phê đã trở thành một nguồn thông tin xác thực về những điều đang diễn ra trên lãnh địa của ông ta. Cũng giống như vậy, Internet đã trở thành một công cụ truyền thông quan trọng hơn các biện pháp truyền thống như quảng cáo trên tivi. 77 Nhưng không giống như thời của Khair Beg, môi trường truyền thông mới mang tính toàn cầu, tạo điều kiện phổ biến thông tin rộng rãi và tạo ra sự cảm thông giữa nhiều tổ chức hoạt động khác nhau, bao gồm cả những tổ chức có lẽ không chịu tác động của công nghệ mới. Những cộng đồng trên mạng này được xây dựng xung quanh một tổ hợp hòm thư phức tạp không dễ gì tiếp cận. Việc sửa chữa những thông tin sai lệch được phổ biến thông qua những kênh như thế rất khó thực hiện do tính phức tạp của hệ thống mạng. Trong khi các nhà hoạt động có xu hướng sử dụng một loạt phong trào xã hội đa dạng để thực hiện mục đích của mình, những người ủng hộ lại có xu hướng tập trung vào việc sử dụng những thể chế tập trung hóa mà ảnh hưởng của những thể chế này rất nhỏ trong môi trường truyền thông hiện đại. Việc tạo ra tính đa dạng cần thiết đòi hỏi phải mở rộng cơ sở của các phong trào xã hội đề cao vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự thịnh vượng của con người. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc tranh luận về công nghệ sinh học là vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng. Ví dụ, tại châu Âu, ngành truyền thông có một vai trò quan trọng trong việc khuyếch đại lập luận của những người chỉ trích hoặc tạo ra sự nghi ngờ về quan điểm mà những người ủng hộ công nghệ mới đưa ra. Ngược lại, sự ủng hộ vai trò của khoa học thường không có tính luận chiến quen thuộc ở các biên tập viên báo chí. Những cách tiếp cận đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn vào quá trình ra chính sách hiện đang thách thức quan điểm truyền thống cho rằng khoa học dựa trên các sự việc bất biến có thể được chuyển tải từ chính quyền xuống dân chúng. Nói cách khác, thông tin khoa học đang được đưa ra để thực hành dân chủ. Cuộc tranh luận về công nghệ sinh học đã thúc đẩy công chúng chuyển sang bàn thảo các vấn đề kỹ thuật. Một mặt, xã hội đang buộc phải giải quyết những vấn đề vốn mang tính kỹ thuật, mặt khác, cộng đồng khoa học đang chịu áp lực phải chấp nhận những vấn đề phi kỹ thuật như những yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết sách. NGHĨ VỀ TƯƠNG LAI Các cơ quan nghiên cứu thiên về chính sách và các cơ quan tham mưu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến về ngôn từ. Điều đáng chú ý là những người chỉ trích công nghệ sinh học đã có nỗ lực đáng kể trong việc tạo liên minh với các cơ quan nghiên cứu, bao gồm cả các khoa của trường đại học. Phần nhiều các nội dung được dùng để đặt vấn đề về độ an toàn của công nghệ sinh học thường được sự xác nhận của một cơ quan nghiên cứu. Song nhìn chung còn thiếu những nghiên cứu chính sách khách quan về vai trò của công nghệ sinh học trong xã hội, và do đó những người tìm cách thể hiện một cách nhìn khác có rất ít cơ hội để thu được thông tin đáng tin cậy. Việc thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống về sự tương tác giữa sinh vật học và xã hội là một trở ngại lớn trong nỗ lực thu hút quần chúng tham gia đối thoại về công nghệ sinh học. Điều này đặc biệt quan trọng khi xét đến thực tế là những tiến bộ trong sinh vật học gây ra những vấn đề đạo đức và sinh thái mới gắn liền với các ngành vật lý học và hóa học. Ví dụ, lo ngại về việc không thể thu hồi sản phẩm một khi được tung ra thị trường được nhấn mạnh hơn khi đề cập đến việc đưa các phát minh sinh học vào trong môi trường. DẪN ĐƯỜNG Phần nhiều cuộc tranh luận của công chúng nhằm mục đích tác động đến chính sách của chính phủ về công nghệ sinh học. Về mặt này, năng lực của các chính phủ trong việc đánh giá 77 Nhưng không giống như thời của Khair Beg, môi trường truyền thông mới mang tính toàn cầu, tạo điều kiện phổ biến thông tin rộng rãi và tạo ra sự cảm thông giữa nhiều tổ chức hoạt động khác nhau, bao gồm cả những tổ chức có lẽ không chịu tác động của công nghệ mới. Những cộng đồng trên mạng này được xây dựng xung quanh một tổ hợp hòm thư phức tạp không dễ gì tiếp cận. Việc sửa chữa những thông tin sai lệch được phổ biến thông qua những kênh như thế rất khó thực hiện do tính phức tạp của hệ thống mạng. Trong khi các nhà hoạt động có xu hướng sử dụng một loạt phong trào xã hội đa dạng để thực hiện mục đích của mình, những người ủng hộ lại có xu hướng tập trung vào việc sử dụng những thể chế tập trung hóa mà ảnh hưởng của những thể chế này rất nhỏ trong môi trường truyền thông hiện đại. Việc tạo ra tính đa dạng cần thiết đòi hỏi phải mở rộng cơ sở của các phong trào xã hội đề cao vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự thịnh vượng của con người. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc tranh luận về công nghệ sinh học là vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng. Ví dụ, tại châu Âu, ngành truyền thông có một vai trò quan trọng trong việc khuyếch đại lập luận của những người chỉ trích hoặc tạo ra sự nghi ngờ về quan điểm mà những người ủng hộ công nghệ mới đưa ra. Ngược lại, sự ủng hộ vai trò của khoa học thường không có tính luận chiến quen thuộc ở các biên tập viên báo chí. Những cách tiếp cận đòi hỏi sự tham gia nhiều hơn vào quá trình ra chính sách hiện đang thách thức quan điểm truyền thống cho rằng khoa học dựa trên các sự việc bất biến có thể được chuyển tải từ chính quyền xuống dân chúng. Nói cách khác, thông tin khoa học đang được đưa ra để thực hành dân chủ. Cuộc tranh luận về công nghệ sinh học đã thúc đẩy công chúng chuyển sang bàn thảo các vấn đề kỹ thuật. Một mặt, xã hội đang buộc phải giải quyết những vấn đề vốn mang tính kỹ thuật, mặt khác, cộng đồng khoa học đang chịu áp lực phải chấp nhận những vấn đề phi kỹ thuật như những yếu tố đầu vào của quá trình ra quyết sách. NGHĨ VỀ TƯƠNG LAI Các cơ quan nghiên cứu thiên về chính sách và các cơ quan tham mưu đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến về ngôn từ. Điều đáng chú ý là những người chỉ trích công nghệ sinh học đã có nỗ lực đáng kể trong việc tạo liên minh với các cơ quan nghiên cứu, bao gồm cả các khoa của trường đại học. Phần nhiều các nội dung được dùng để đặt vấn đề về độ an toàn của công nghệ sinh học thường được sự xác nhận của một cơ quan nghiên cứu. Song nhìn chung còn thiếu những nghiên cứu chính sách khách quan về vai trò của công nghệ sinh học trong xã hội, và do đó những người tìm cách thể hiện một cách nhìn khác có rất ít cơ hội để thu được thông tin đáng tin cậy. Việc thiếu các nghiên cứu có tính hệ thống về sự tương tác giữa sinh vật học và xã hội là một trở ngại lớn trong nỗ lực thu hút quần chúng tham gia đối thoại về công nghệ sinh học. Điều này đặc biệt quan trọng khi xét đến thực tế là những tiến bộ trong sinh vật học gây ra những vấn đề đạo đức và sinh thái mới gắn liền với các ngành vật lý học và hóa học. Ví dụ, lo ngại về việc không thể thu hồi sản phẩm một khi được tung ra thị trường được nhấn mạnh hơn khi đề cập đến việc đưa các phát minh sinh học vào trong môi trường. DẪN ĐƯỜNG Phần nhiều cuộc tranh luận của công chúng nhằm mục đích tác động đến chính sách của chính phủ về công nghệ sinh học. Về mặt này, năng lực của các chính phủ trong việc đánh giá 79 những thông tin sẵn có và sử dụng chúng để đưa ra quyết sách là một phần quan trọng của cuộc tranh luận. Vai trò lãnh đạo chính trị về công nghệ sinh học và sự tồn tại của những tổ chức cần thiết tư vấn về khoa học và công nghệ là một khía cạnh quan trọng trong việc quản lý các công nghệ mới. Những cuộc tranh luận về công nghệ mới sẽ càng sôi nổi hơn trong tương lai, và các chính phủ sẽ ngày càng chịu nhiều áp lực phải giải quyết những vấn đề này. Song tư vấn về khoa học và công nghệ sẽ là không đủ trừ phi các chính phủ coi khoa học và công nghệ là một phần không thể tách rời của quá trình phát triển. Về mặt này, việc nâng cao năng lực lãnh đạo để giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ sẽ đóng góp vào việc quản lý có hiệu quả các cuộc tranh luận của công chúng về công nghệ mới nói chung và công nghệ sinh học nói riêng. Nhìn chung, tính chất của các công nghệ mới xuất hiện - đặc biệt là những công nghệ dựa trên ngành sinh vật học - và môi trường truyền thông đang biến đổi đang đặt ra sự cần thiết phải nhìn lại chiến lược thúc đẩy vai trò của công nghệ sinh học trong xã hội. Cộng đồng khoa học không những cần phải thể hiện vai trò lãnh đạo rõ ràng, mà còn phải điều chỉnh các phương pháp truyền thông của mình để thích hợp với độ phức tạp gia tăng và nhu cầu đa dạng của cộng đồng thế giới. Rút cục, phạm vi ứng dụng của các sản phẩm được tạo ra nhờ công nghệ sinh học để phục vụ nhân loại sẽ giải quyết cuộc tranh luận này chứ không phải những tuyên bố trống rỗng của những người chỉ trích và ủng hộ. ————— Ghi chú: Những { kiến trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kz. 79 những thông tin sẵn có và sử dụng chúng để đưa ra quyết sách là một phần quan trọng của cuộc tranh luận. Vai trò lãnh đạo chính trị về công nghệ sinh học và sự tồn tại của những tổ chức cần thiết tư vấn về khoa học và công nghệ là một khía cạnh quan trọng trong việc quản lý các công nghệ mới. Những cuộc tranh luận về công nghệ mới sẽ càng sôi nổi hơn trong tương lai, và các chính phủ sẽ ngày càng chịu nhiều áp lực phải giải quyết những vấn đề này. Song tư vấn về khoa học và công nghệ sẽ là không đủ trừ phi các chính phủ coi khoa học và công nghệ là một phần không thể tách rời của quá trình phát triển. Về mặt này, việc nâng cao năng lực lãnh đạo để giải quyết các vấn đề khoa học và công nghệ sẽ đóng góp vào việc quản lý có hiệu quả các cuộc tranh luận của công chúng về công nghệ mới nói chung và công nghệ sinh học nói riêng. Nhìn chung, tính chất của các công nghệ mới xuất hiện - đặc biệt là những công nghệ dựa trên ngành sinh vật học - và môi trường truyền thông đang biến đổi đang đặt ra sự cần thiết phải nhìn lại chiến lược thúc đẩy vai trò của công nghệ sinh học trong xã hội. Cộng đồng khoa học không những cần phải thể hiện vai trò lãnh đạo rõ ràng, mà còn phải điều chỉnh các phương pháp truyền thông của mình để thích hợp với độ phức tạp gia tăng và nhu cầu đa dạng của cộng đồng thế giới. Rút cục, phạm vi ứng dụng của các sản phẩm được tạo ra nhờ công nghệ sinh học để phục vụ nhân loại sẽ giải quyết cuộc tranh luận này chứ không phải những tuyên bố trống rỗng của những người chỉ trích và ủng hộ. ————— Ghi chú: Những { kiến trình bày trong bài viết này không nhất thiết phản ánh quan điểm hay chính sách của Bộ Ngoại giao Hoa Kz. 88 Trung t©m Th«ng tin - T liÖu Phßng Th«ng tin - V¨n hãa §¹i sø qu¸n Hîp chñng quèc Hoa Kú TÇng 3, Rose Garden Tower, 6 Ngäc Kh¸nh, Hµ Néi Tel: (844) 831-4580 – Fax: (844) 831-4601 – Email: irchanoi@state.gov - 32 - Trung tâm Hoa Kỳ Phòng Thông tin-Văn hóa, Đại sứ quán Hoa Kỳ Tầng 1, Rose Garden Tower, 170 Ngọc Khánh, Hà Nội Tel: (04) 3850-5000; Fax: (04) 3850-5048; Email: HanoiAC@state.gov
File đính kèm:
- cong_nghe_sinh_hoc_nong_nghiep.pdf