Đặc tính dụng học của tình thái nhận thức trong truyện trinh thám của Conan Doyle đối chiếu với bản dịch tiếng Việt
TÓM TẮT
Bài báo này khảo sát các đặc tính dụng học của dấu hiệu tình thái nhận thức được sử dụng trong
truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng. Bài báo sử dụng phương pháp phân
tích định tính, định lượng và phương pháp so sánh đối chiếu để khảo sát các phương tiện ngữ nghĩa thể
hiện các đặc tính dụng học của tình thái nhận thức. Kết quả khảo sát chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt giữa cách thể hiện các dấu hiệu che chắn trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Chúng tôi hi vọng rằng bài báo sẽ phần nào giúp người Việt Nam học tiếng Anh có khả năng sử dụng tốt hơn những dấu hiệu che chắn của tình thái nhận thức trong giao tiếp và trong dịch thuật.
Bạn đang xem tài liệu "Đặc tính dụng học của tình thái nhận thức trong truyện trinh thám của Conan Doyle đối chiếu với bản dịch tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc tính dụng học của tình thái nhận thức trong truyện trinh thám của Conan Doyle đối chiếu với bản dịch tiếng Việt
63 Tập 11, Số 2, 2017 ĐẶC TÍNH DỤNG HỌC CỦA TÌNH THÁI NHẬN THỨC TRONG TRUYỆN TRINH THÁM CỦA CONAN DOYLE ĐỐI CHIẾU VỚI BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT NGUYỄN THỊ THU HẠNH Khoa Ngoại Ngữ, Trường Đại học Quy Nhơn TÓM TẮT Bài báo này khảo sát các đặc tính dụng học của dấu hiệu tình thái nhận thức được sử dụng trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng. Bài báo sử dụng phương pháp phân tích định tính, định lượng và phương pháp so sánh đối chiếu để khảo sát các phương tiện ngữ nghĩa thể hiện các đặc tính dụng học của tình thái nhận thức. Kết quả khảo sát chỉ ra những nét tương đồng và dị biệt giữa cách thể hiện các dấu hiệu che chắn trong hai ngôn ngữ Anh và Việt. Chúng tôi hi vọng rằng bài báo sẽ phần nào giúp người Việt Nam học tiếng Anh có khả năng sử dụng tốt hơn những dấu hiệu che chắn của tình thái nhận thức trong giao tiếp và trong dịch thuật. Từ khóa: Đặc tính dụng học, tình thái nhận thức, truyện trinh thám, Conan Doyle, bản dịch, tương đồng và dị biệt. ABSTRACT Pragmatic Features of Epistemic Modality in Conan Doyle’s Detective Stories versus their Vietnamese Translational Equivalents This paper examined the pragmatic features of epistemic modality used in Conan Doyle’s detective stories vs. their Vietnamese translational equivalents. The study was conducted with qualitative, quantitative and contrastive approaches to examine the semantic features in signaling the pragmatic features of epistemic modality. The most significant findings of the study are the similarities and differences between English and Vietnamese ways of expressing hedges. The study hopefully helps Vietnamese learners of English have better use of hedges of epistemic modality in communication and in translation. Key words: Pragmatic features, epistemic modality, detective stories, Conan Doyle, translational equivalents, similarities and differences. 1. Đặt vấn đề Khi chúng ta đề cập đến những nguyên lý hội thoại chính là ta đang nói đến nguyên lý cộng tác và nguyên lý lịch sự trong giao tiếp. Bàn về nguyên lý lịch sự, ta không thể nào không nói đến “thể diện” và “giữ thể diện” trong hội thoại. Người Việt Nam ta có những châm ngôn như: “Lời nói là gói vàng” hay “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”; điều đó chứng tỏ rằng người Việt Nam ta rất coi trọng sự tinh tế và khéo léo trong nói năng, trong ứng xử; vì vậy tần số xuất hiện của việc lựa lời như thế này là khá cao trong giao tiếp tiếng Việt. Sự linh hoạt và uyển chuyển trong giao tiếp rất Email: hanhnguyendhqn@yahoo.com Ngày nhận bài: 29/3/2016; ngày nhận đăng: 20/3/2016 Tạp chí Khoa học - Trường ĐH Quy Nhơn, ISSN: 1859-0357, Tập 11, Số 2, 20 7, Tr. 63-73 64 cần thiết vì nhờ đó mà thông báo của chúng ta sẽ được người nghe chấp nhận hay bị họ bác bỏ; vì trong quá trình giao tiếp, người nghe không phải lúc nào cũng đóng vai trò thụ động. Thế nên, chúng ta cần phải linh hoạt, uyển chuyển trong giao tiếp để khỏi làm phương hại đến người nghe và thể hiện chứng cứ của những điều ta thông báo. Việc lựa lời hay nói khác là rào đón/ che chắn (hedges) được sử dụng khi các hành vi trong hội thoại có nguy cơ bị đe dọa. Rào đón được xem như là hiện tượng ngôn ngữ mang đậm đặc tính tâm lý, tinh thần và bản sắc văn hóa của dân tộc, làm cho phát ngôn trở nên uyển chuyển hơn và hiệu quả hơn. Dựa vào tính chất thông tin, nhu cầu tạo lập và duy trì quan hệ giao tiếp mà người nói có sự linh hoạt trong cách thức và nội dung phát ngôn của mình. Theo Từ điển Tiếng Việt (1994), Hoàng Phê định nghĩa: “Rào đón là nói có tính chất ngăn ngừa trước sự hiểu lầm hay phản ứng về điều mình sắp nói” (tr. 792). Như vậy, rõ ràng là sử dụng ngôn ngữ không chỉ để giao tiếp hay để nói về các sự tình mà còn để diễn đạt ý tưởng hay ý kiến của ta về sự việc nào đó. Mọi ngành nghề trong cuộc sống, chúng tôi thiết nghĩ, bất cứ ai khi đã dùng ngôn ngữ để giao tiếp thì rất cần đến khả năng sử dụng các đặc tính dụng học của tình thái nhận thức, đặc biệt các nhà trinh thám càng cần đến khả năng này để nêu ý tưởng, thảo luận hay tranh luận... Trong bài viết này, chúng tôi mô tả và phân tích các đặc tính dụng học của tình thái nhận thức trong tiểu thuyết “A Study in Scarlet” (gồm 2 phần với 14 chương, 100 trang) và hai truyện ngắn “Scandal ở Bohemia” (25 trang) và “The Blue Carbuncle” (17 trang) của nhà văn Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng của nhóm dịch giả: Lê Khánh, Đỗ Tư Nghĩa, Vương Thảo et al. Dữ liệu sử dụng để phân tích trong bài báo này được chúng tôi chọn lựa một cách ngẫu nhiên từ trọn bộ The Complete Sherlock Holmes - All 4 novels and 56 short stories. 2. Cơ sở lí luận Theo Nguyễn Thiện Giáp (2000: 11), ngữ dụng học (linguistic pragmatics) là bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu cách sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là cách sử dụng ngôn ngữ trong những ngữ cảnh cụ thể để đạt được những mục đích cụ thể. Cũng theo Nguyễn Thiện Giáp (2000: 15-6), ngữ dụng học nghiên cứu nghĩa với tư cách là cái được thông báo bởi người nói (người viết) và là cái được giải thích bởi người nghe (người đọc). Do đó, nó phải chú ý phân tích cái mà người ta muốn nói qua phát ngôn của họ hơn là cái mà tự thân ý nghĩa các từ và các cú đoạn trong phát ngôn đó có thể có. Ngữ dụng học phải nghiên cứu những ý nghĩa trong dự định của con người, những điều mà họ cho là đúng, mục đích hoặc ý định của họ và các kiểu hành động của họ khi nói. Như thế có nghĩa là, ngữ dụng học nghiên cứu ý nghĩa của người nói. Ngữ dụng học đòi hỏi phải thăm dò người nghe xem họ suy luận như thế nào về cái được nói để có thể giải thích được ý định của người nói. Kiểu nghiên cứu này khảo sát rất nhiều cái không được nói, nhưng lại thừa nhận là một phần của những điều được thông báo. Có thể nói đó là sự nghiên cứu cái nghĩa vô hình. Ngữ dụng học nghiên cứu hiện tượng cái được thông báo lớn hơn là cái được nói như thế nào. Theo Holmes (1995: 73-7), dấu hiệu che chắn trong giao tiếp có thể được hiện thực hóa bằng nhiều phương tiện khác nhau như ngôn điệu (prosody), lối nói cường điệu, uyển ngữ, từ chỉ Nguyễn Thị Thu Hạnh 65 Tập 11, Số 2, 2017 mức độ (ví dụ: khí, rất, quá, lắm, cực kì), câu hỏi đuôi (ví dụ: Anh không thích kiểu tóc này phải không?), nói vòng hay sử dụng những từ thể hiện sự dè dặt (hình như, có lẽ, có thể), các tiểu từ tình thái (à, ư, nhỉ, nhé) và nhiều phương tiện ngôn ngữ khác. Cung cấp thông tin cho người khác là một trong những mục đích quan trọng nhất của hội thoại. Khi ta biết điều gì đó mới mẻ, ta sẽ rất sẵn lòng cung cấp nó cho người khác. Theo tôi, dù ta rất mong muốn được chia sẻ thông tin đó, ta cũng cần phải chắc chắn về những gì ta sẽ thông báo, đó chính là đặc tính về chất của thông báo. Thêm vào đó, khi ta thật sự chắc chắn hay nghi ngờ về những điều ta muốn cung cấp cho người khác, ta cũng cần có chiến lược giao tiếp. Chẳng hạn khi ta muốn tranh luận điều gì đó, ta cần phải có cách để bày tỏ quan điểm của mình, để thuyết phục người nghe, khéo léo cho họ thấy cái sai và nhẹ nhàng hướng họ về điều chúng ta mong muốn. Thái độ và lời lẽ của ta đối với họ rất là quan trọng, họ cảm thấy được tôn trọng, thể diện không bị đe dọa, không bị xúc phạm... chính vì thế khả năng thành công của cuộc tranh luận đó là rất cao. 3. Các đặc tính dụng học của tình thái nhận thức trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng 3.1. Tình thái nhận thức được sử dụng như những dấu hiệu che chắn trong tăng cường lực ngôn trung (booster the illocutionary force) Trong việc cung cấp thông tin, tùy theo mức độ chứng cứ có được mà người nói có thể lựa chọn cách anh/ cô ấy thích để thông báo điều gì đó cho người khác, để thể hiện mức độ cam kết của mình với nội dung thông tin và tự tin vào kiến thức mình có. Điều đó phụ thuộc vào sự chắc chắn của chứng cứ hoặc nội dung của điều khẳng định của người nói. Theo Lakoff (1975: 76), động cơ của việc sử dụng dấu hiệu che chắn trong giao tiếp là phép lịch sự. Để có một giao tiếp thành công và hiệu quả, thay vì thể hiện yêu cầu và chỉ thị mạnh, người nói có thể thể hiện ý định của mình một cách khéo léo, nhẹ nhàng hoặc người nói cũng có thể gián tiếp thể hiện ý định của mình. Hành vi lời nói gián tiếp như vậy, được coi là những dấu hiệu che chắn trong tăng cường lực ngôn trung, góp phần khẳng định giá trị của các thông tin, tăng cường cam kết với sự thật của phát ngôn, nhấn mạnh sự phán đoán của người nói, hay để tìm kiếm sự thỏa hiệp, 3.1.1. Khẳng định giá trị của các thông tin (To confirm the validity of information) Chúng ta cùng quan sát những ví dụ sau đây: (1) That, however, is surely impossible. His high character, his profession, his antecedents would all forbid it. [5; 51] Dù sao, chắc chắn là không thể nào có chuyện đó. Tính tình nó, nghề nghiệp nó, những hành vi đã qua của nó sẽ chứng minh cho nó. [2; 57] (2) “You are sure that she has not sent it yet?” “I am sure.” [6; 229] Ngài có chắc là cô ta chưa gửi nó đi. Chắc chắn. [3; 566] 66 (3) - If this man could afford to buy so expensive a hat three years ago, and has had no hat since, then he has assuredly gone down in the world. - Well, that is clear enough, certainly. [7; 354] - Nếu người đàn ông này đã mua được cái mũ đắt giá như thế hồi ba năm về trước, và từ đó đến nay không sắm nổi một cái mũ mới, thì chắc chắn ông ta đã sa sút rồi. - Vâng, điều đó đã rõ. [4; 644] Trong các phương châm hội thoại của Grice (1975), phương châm về lượng liên quan đến sự thật và niềm tin là chúng ta nên nói những gì ta tin là đúng và dựa vào bằng chứng; chúng ta không nên nói những gì ta không tin vào sự chính xác của nó hoặc không có bằng chứng. Theo phương châm này, khi phát ngôn, người nói cho rằng mỗi lời nói ra đều dựa vào niềm tin và chứng cứ sẵn có của mình. Vì vậy, bất cứ khi nào người nói cảm thấy hoặc nhận thức rằng anh/ cô ấy không có đủ bằng chứng và quá ít tự tin về sự thật của nội dung mệnh đề, anh/ cô ấy thể hiện kiến thức của mình bằng cách làm cho sự thật của phát ngôn ít biểu lộ hơn. Trên thực tế, trong truyện trinh thám của Conan Doyle, chúng tôi tìm ra nhiều ví dụ có sử dụng các dấu hiệu tình thái nhận thức như: surely, sure, could, assuredly, certainly và trong bản dịch tiếng Việt tương ứng như chắc, chắc chắn như trong những ví dụ (1) - (3) mà chúng tôi vừa nêu trên nhằm khẳng định giá trị chắc chắn của thông tin và giá trị này là rất quan trọng trong việc suy luận và suy đoán của thám tử... 3.1.2. Tăng cường cam kết với sự thật của phát ngôn (To boost the commitment to the truth of the utterance) Những dấu hiệu giao tiếp evidently, obvious(ly), indeed, no doubt, proof trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bằng chứng, rõ ràng, chắc chắn, thật chẳng sai trong bản dịch tiếng Việt tương ứng không đơn giản thể hiện rằng người nói có chứng cứ về những gì họ muốn thông báo, mà những dấu hiệu này còn được xem là những dấu hiệu tình thái mạnh, được sử dụng để thể hiện sự chắc chắn cao của người nói về một sự tình nào đó; hay nói cách khác, người nói muốn tăng cường cam kết với sự thật của phát ngôn. Quan sát những ví dụ sau: (4) It is obvious that he has less foresight now than formerly, which is a distinct proof of a weakening nature. [7; 355] Rõ ràng bây giờ ông ta ít phòng xa hơn, đây là bằng chứng về sự sa sút. [4; 644] (5) The name is no doubt familiar to you. [6; 227] Cái tên chắc chắn là quen thuộc với ông. [3; 564] (6) Indeed! My mistress told me that you were likely to call. [6; 242] Thật chẳng sai! Bà chủ tôi bảo rằng thế nào ông cũng ghé đến. [3; 579] Nguyễn Thị Thu Hạnh 67 Tập 11, Số 2, 2017 Trong ví dụ (4), Conan Doyle sử dụng tính từ tình thái “obvious” để chắc chắn rằng tính phòng xa của người đàn ông hiện tại không bằng trước kia, và để chắc chắn hơn nữa những gì mình vừa thông báo, ông dùng thêm danh từ tình thái “proof” như là một minh chứng rõ ràng, là bằng chứng không thể chối cãi được về sự sa sút kinh tế của người đàn ông ấy, điều này làm cho ông ta không còn cẩn thận đề phòng như trước đây khi ông còn khá giả. Hay như “no doubt” trong (5) và “Indeed!” trong (6) cũng khẳng định chắc chắn điều người nói đang đề cập. Trong (5), người nói muốn người nghe đừng quanh co, trốn tránh nữa vì chắc chắn cái tên đó hết sức quen thuộc với ông. Khi nghe đến cái tên ấy, ông ta không thể nào chối rằng mình không quen biết người đó được. Còn trong (6), người giúp việc muốn khẳng định với Sherlock Holmes về tài tiên đoán của bà chủ mình. Rõ ràng, bà chủ đoán chắc rằng Holmes sẽ ghé thăm nhà bà một lần nữa vì muốn tìm cho ra tấm hình mà lần ghé thăm trước ông đã bỏ qua một vị trí rất khả nghi. Bà đã nói về việc đó với người giúp việc trước khi bà rời nhà đi xa cùng với vị hôn phu của mình và tấm hình, hòng thoát khỏi sự truy tìm của Holmes. Trong cả ba ví dụ trên, các dịch giả đều thể hiện đúng tinh thần của bản gốc trong truyện dịch của mình nhờ vào các dấu hiệu tình thái trong tiếng Việt: rõ ràng, bằng chứng, chắc chắn và thật chẳng sai! 3.1.3. Nhấn mạnh sự phán đoán của người nói (To stress the speaker’s judgment) Để nhấn mạnh sự phán đoán của mình, người nói cũng có thể sử dụng một vài dấu hiệu tình thái như những động từ tri nhận tình thái (modal cognitive verbs), chúng ta hãy quan sát các ví dụ sau: (7) Nothing could be more successful. I know that her word is inviolate. The photograph is now as safe as if it were in the fire. [6; 243] Không có gì thành công hơn. Tôi biết rằng lời nói của cô ta chắc như đinh đóng cột. Tấm ảnh đó, bây giờ an toàn như thể nó nằm trong lửa vậy. [3; 581] (8) I knew that he would be true to me, for I knew one or two things about him. [7; 367] (Không được dịch sang tiếng Việt) (9) - “Wedlock suits you,” he remarked. “I think, Watson, that you have put on seven and a half pounds since I saw you.” - “Seven!” I answered. [6; 221] - Hôn nhân hợp với anh, Watson ạ, anh đã lên bảy cân rưỡi, kể từ lần sau cùng chúng ta gặp nhau. - Bảy thôi. [3; 559] Rõ ràng, trong những ví dụ trên những động từ tri nhận tình thái như I knew, I think cũng được Conan Doyle dùng để nhấn mạnh sự phán đoán của người nói trong truyện trinh thám của mình, mà chính xác đó là những suy luận, đánh giá của nhà thám tử đại tài Sherlock Holmes, nhưng hầu hết những đánh giá này không được nhóm dịch giả của Lê Khánh chuyển dịch sang tiếng Việt, vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng người nói tiếng Anh trong truyện trinh thám của 68 Conan Doyle sử dụng các loại động từ tình thái để nhấn mạnh sự suy luận, suy đoán và đánh giá thường xuyên hơn so với người nói tiếng Việt trong bản dịch của nhóm dịch giả Lê Khánh. 3.1.4. Tìm kiếm sự thỏa hiệp (To seek agreement) Trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng, chúng tôi cũng tìm thấy ở những ví dụ khác, người nói sử dụng các dấu hiệu tình thái nhận thức như những dấu hiệu che chắn để tìm kiếm sự thỏa hiệp, ví dụ: (10) You don’t mind the smell of strong tobacco, I hope? ... g hàm ý dụng học của bản gốc, nhưng có một vài phát ngôn hoàn toàn không được nhóm dịch giả dịch chuyển sang tiếng Việt, có nghĩa là họ đã bỏ hẳn những câu này trong bản dịch của họ, như trong ví dụ (8); và có một số phát ngôn khác được dịch sang tiếng Việt nhưng không hề tìm thấy chút bóng dáng của các dấu hiệu tình thái tiếng Việt tương ứng nào trong đó cả, như trong ví dụ (9). Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng người nói tiếng Anh trong truyện trinh thám của Conan Doyle thường sử dụng những dấu hiệu tình thái nhận thức để thể hiện những giá trị dụng học này nhiều hơn so với người nói tiếng Việt trong bản dịch tiếng Việt của nhóm dịch giả Lê Khánh. Từ những minh họa trên đây về những đặc tính dụng học của những dấu hiệu che chắn trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng, chúng tôi xin tóm tắt trong bảng 1 dưới đây: Nguyễn Thị Thu Hạnh 69 Tập 11, Số 2, 2017 Bảng 1. Ý nghĩa dụng học của tình thái nhận thức trong tăng cường lực ngôn trung trong ngữ liệu Ý nghĩa dụng học của tình thái nhận thức trong tăng cường lực ngôn trung Trong truyện trinh thám của Conan Doyle Trong bản dịch tiếng Việt tương ứng Khẳng định giá trị của các thông tin + + Tăng cường cam kết với sự thật của phát ngôn + + Nhấn mạnh sự phán đoán của người nói + +/- Tìm kiếm sự thỏa hiệp + + Chú thích: Dấu + là có thể hiện ý nghĩa đó Dấu – là không thể hiện ý nghĩa 3.2. Tình thái nhận thức được sử dụng như dấu hiệu che chắn trong giảm nhẹ lực ngôn trung (mitigate the illocutionary force) Theo Brown và Levinson (1987), thể diện (face) là hình ảnh của bản thân trước công chúng của một cá nhân. Nó liên quan đến ý thức xã hội và tình cảm của mỗi cá nhân và mong muốn được người khác thừa nhận. Hai tác giả này đã lưu ý những hoạt động ngôn ngữ không được làm tổn thương thông qua sự phân biệt hai phương diện của thể diện, đó là: - Thể diện dương tính (positive face): là những điều mà mỗi người muốn mình được khẳng định, được những người khác tôn trọng. - Thể diện âm tính (negative face): là những điều mà mỗi người muốn mình được là “người lớn”, không bị ai cản trở hành động. Yule (2001: 121) phát biểu: “Khi chúng ta cố gắng giữ thể diện cho người khác, chúng ta có thể chú ý nhu cầu thể diện âm tính hay nhu cầu thể diện dương tính của họ”. Do đó, người tham gia hội thoại nên lựa chọn chiến lược phù hợp để giảm thiểu nguy cơ mất mặt của chính mình hoặc của người cùng tham gia hội thoại. Bên cạnh đó, người nói còn có thể sử dụng các dấu hiệu chứng cứ thấp để giảm tính hiển nhiên của thông tin và làm nhẹ bớt lực chỉ trích trong lời nói của mình. Người nói đôi khi có thể sử dụng các dấu hiệu che chắn để tránh làm tổn thương người nghe khi đề cập tới những điều không thể chấp nhận hay có thể làm người nghe không hài lòng. Hơn nữa, nhờ những dấu hiệu che chắn, người nói cũng có thể sử dụng dấu hiệu chứng cứ thấp trong phát ngôn của mình để thể hiện thái độ thận trọng trong lập luận, và thể hiện sự miễn cưỡng và do dự trong suy đoán 3.2.1. Để thể hiện thái độ thận trọng trong lập luận (To show the cautious attitude in reasoning) Thông tin được chuyển đến cho những người khác có thể có những đặc tính về chất. Thỉnh thoảng, người nói chắc chắn về một điều gì đó hơn những người khác; nhưng trái lại, đôi khi, anh ta có lẽ không hoàn toàn chắc chắn về nguồn của thông tin đó. Thế nên kết quả là, người nói hoặc người viết có xu hướng chất hóa thông báo của mình để anh ta không phải chịu trách nhiệm về tính chính xác hoàn toàn của nguồn thông tin mà anh ta cung cấp cho người khác. Việc sử dụng các dấu hiệu chứng cứ, với mức độ tin cậy dù mạnh/ yếu hoặc cao/ thấp đều có thể được nhìn nhận là cách khắc phục sự vi phạm phương châm về chất của người nói (the speaker’s flouting maxim of quality). 70 Việc vi phạm phương châm về chất của người nói chỉ ra rằng họ có rất ít bằng chứng về những gì họ vừa thông báo và do đó họ không mấy chắc chắn về mức độ tin cậy của những thông tin mà họ cung cấp cho người khác. Có lẽ những gì người nói thông báo rất ít rõ ràng và chủ yếu dựa vào quá trình suy luận của chính mình. Vì vậy, việc sử dụng một chứng cứ mạnh hay yếu được xem như là biểu hiện của sự vi phạm phương châm của người nói nhằm cho người nghe manh mối về hàm ý của mình trong thông báo đó, người nghe được yêu cầu không xử lý các nội dung của thông báo trên như một điều đúng sự thật. Quan sát những ví dụ sau: (11) This Godfrey Norton was evidently an important factor in the matter. He was a lawyer. That sounded ominous. What was the relation between them, and what the object of his repeated visits? Was she his client, his friend, or his mistress? If the former, she had probably transferred the photograph to his keeping. If the latter, it was less likely. [6; 231) Anh chàng Notơn này đến thăm một ngày hai lần với mục đích gì? Phải chăng Iren là thân chủ của anh ta, là bạn, là người yêu? Nếu là thân chủ, có lẽ cô ta đã giao tấm hình cho anh ta giữ. Nếu là bạn thì ít có khả năng đó. [3; 569] (12) It is most unlikely that she carries it about with her. It is cabinet size. Too large for easy concealment about a woman’s dress. [6; 237] Nó quá lớn, khó giấu vào áo phụ nữ, chắc cô ta không mang nó bên mình. [3; 574] (13) One tallow stain, or even two, might come by chance; but when I see no less than five, I think that there can be little doubt that the individual must be brought into frequent contact with burning tallow–walks upstairs at night probably with his hat in one hand and a guttering candle in the other. [7; 355] Một vết mỡ đèn cầy, có thể là do tình cờ, nhưng khi tôi thấy không dưới một vết, thì tôi nghĩ rằng ông ta thường xuyên tiếp xúc với thứ mỡ đó. Có thể do đi bộ lên cầu thang vào ban đêm, một tay cầm mũ, còn tay kia cầm đèn. [4; 645] Những ví dụ (11), (12) và (13) trên đây diễn tả mức độ chắc chắn thấp, chúng cho thấy rằng người nói không quá chắc chắn về mức độ tin cậy của thông báo mà anh ta vừa nói ra; ngược lại, anh ta suy luận các thông tin trên nhờ vào tiến trình suy luận của mình. Khi đưa ra những thông báo đó, bằng kiến thức của mình, Holmes chỉ đơn thuần là suy đoán mà không biết chắc chắn về sự thật của sự tình. Các dấu hiệu chứng cứ như likely, unlikely, probably trong truyện trinh thám của Conan Doyle và có thể, chắc, có lẽ, có khả năng trong bản dịch tiếng Việt thể hiện sự chắc chắn thấp của người nói đối với sự tình mà anh ta thông báo. Nói cách khác, chúng được sử dụng để tỏ thái độ thận trọng của Sherlock Holmes trong lập luận. Nguyễn Thị Thu Hạnh 71 Tập 11, Số 2, 2017 3.2.2. Để thể hiện sự miễn cưỡng và do dự trong suy đoán (To show reluctance and hesitation in speculating) Nhìn chung, chúng ta thường né tránh những cực điểm khi chúng ta có sự miễn cưỡng hay do dự trong việc đưa ra lời khẳng định. Khi chúng ta thừa nhận hạn chế của chúng ta về kiến thức, chúng ta cũng có thể sử dụng các dấu hiệu tình thái nhận thức để chuyển tải sự chắc chắn thấp của mình hoặc để từ chối sự khẳng định tuyệt đối. Khi chúng ta sử dụng các cấu trúc như I guess/ suppose, It may/ might/ could, maybe, perhaps, It seems to me, I’m afraid... trong tiếng Anh và có lẽ, dường như, e rằng, dám. trong tiếng Việt, có nghĩa là chúng ta muốn thể hiện sự miễn cưỡng hay ngần ngừ, do dự. Những dấu hiệu tình thái đó có thể giúp chúng ta đạt được sự chú ý của người nghe và thúc đẩy cuộc thảo luận và lấy ý kiến của họ về những gì ta đang trình bày. Chúng ta hãy xem xét các ví dụ dưới đây: (14) If I know anything o’ that young man, he’ll be back with a speed that would whip electro-telegraphs. [5; 80] Nếu nó đúng là con người như cha biết, nó sẽ trở về nhanh hơn điện tín. [2; 89] (15) - Would he not consider it as too dangerous? - Not at all. If my view of the case is correct, and I have every reason to believe that it is, this man would rather risk anything than lose the ring. [5; 42] - Liệu hắn có cho là quá nguy hiểm không? - Không đâu. Con người ấy dám liều mọi chuyện hơn là để mất chiếc nhẫn. [2; 46] (16) “It was lost, if I remember aright, at the Hotel Cosmopolitan,” I remarked. [7; 356] Nó bị mất tại khách sạn Quốc tế - Tôi xen vào câu chuyện. [4; 645] (17) Or rather, I fancy, of that goose. It was one bird, I imagine, in which you were interested–white, with a black bar across the tail. [7; 365] Con ngỗng ấy màu trắng, có đường sọc ngang qua đuôi. [4; 658] (18) Mr. Henry Baker, I believe. [7; 359] (Không được dịch sang tiếng Việt) Những ví dụ chúng tôi vừa đề cập trên đây có sử dụng những dấu hiệu che chắn nhằm để người nghe nhìn nhận tính chính xác của thông báo. Tất cả những ví dụ về dấu hiệu che chắn như If I know anything, If my view of the case is correct, if I remember aright, I fancy, I believe thể hiện rằng người nói nhận thức rất rõ ràng về các phương châm của Grice, và bên cạnh đó họ còn đang cố gắng quán triệt nó. Theo quan sát của chúng tôi, trong năm ví dụ trên, những người nói tiếng Anh trong truyện Conan Doyle thường sử dụng các dấu hiệu che chắn để rào đón, che chắn cho phát ngôn của mình, để lôi kéo sự quan tâm của người nghe và chờ đợi sự thảo luận của họ, 72 nhưng người nói tiếng Việt trong bản dịch tương ứng thể hiện rằng họ không thường dùng chiến lược này. Quả vậy, trong cả 5 phát ngôn trên đều được Conan Doyle sử dụng dấu hiệu tình thái nhận thức như là dấu hiệu rào đón, che chắn nhưng trong bản dịch chỉ có một phát ngôn duy nhất là phát ngôn (14), được dịch sang tiếng Việt có sử dụng dấu hiệu che chắn tương ứng; điều đó chứng tỏ rằng các dịch giả chưa làm nổi bật ý định che chắn của người viết tiếng Anh. Ngoài ra, cũng có những trường hợp, trong quá trình dịch thuật người dịch có thể thêm thắt đôi chút cho bản dịch của mình có bản sắc của người bản ngữ, để bản dịch dễ hiểu hơn và nhanh đi vào lòng người, nhưng vấn đề này không hề được nhóm dịch giả của Lê Khánh thể hiện trong các bản dịch này với những dấu hiệu tình thái nhận thức như là các dấu hiệu che chắn. Cụ thể là chúng tôi hầu như không thể tìm ra bất kỳ phát ngôn nào không có dấu hiệu che chắn trong truyện trinh thám của Conan Doyle mà lại có dấu hiệu che chắn trong bản dịch tiếng Việt. Qua những phân tích trên đây, chúng ta có thể thấy rằng người nói tiếng Anh trong truyện Conan Doyle muốn thể hiện tinh thần hợp tác trong hội thoại hơn người nói tiếng Việt trong bản dịch tương ứng, hay nói cách khác, họ muốn thể hiện sự miễn cưỡng và do dự trong tiến trình suy đoán một điều gì đó. Từ những phát hiện trên đây về ý nghĩa dụng học của những dấu hiệu che chắn nhằm giảm nhẹ lực ngôn trung trong truyện trinh thám của Conan Doyle và bản dịch tiếng Việt tương ứng, chúng tôi muốn tóm tắt chúng trong bảng sau: Bảng 2. Ý nghĩa dụng học của những dấu hiệu tình thái nhận thức trong giảm nhẹ lực ngôn trung trong ngữ liệu Ý nghĩa dụng học của những dấu hiệu tình thái nhận thức trong giảm nhẹ lực ngôn trung Trong truyện trinh thám của Conan Doyle Trong bản dịch tiếng Việt Để thể hiện thái độ thận trọng trong lập luận + + Để thể hiện sự miễn cưỡng và do dự trong suy đoán + + (hiếm) / - 4. Kết luận Nhìn chung, người nói có thể sử dụng dấu hiệu chứng cứ đáng tin cậy ở mức độ cao hay thấp để che chắn, rào đón cho thông báo hay để thể hiện phép lịch sự của mình. Trong phát ngôn, nếu người nói có sử dụng dấu hiệu chứng cứ cao, có nghĩa là anh ta muốn nhấn mạnh sự chắc chắn của mình về nội dung của phát ngôn đó, cũng có thể anh ta đang cố gắng thuyết phục người nghe bằng phép suy luận, hoặc lý luận trong lập luận. Ngược lại, người nói có thể sử dụng dấu hiệu chứng cứ thấp để giúp người nghe thêm độ tin cậy với nội dung phát ngôn. Nếu người nói hay người viết có một chút nghi ngờ về tính xác thực của nội dung thông báo, anh ta có thể làm giảm bớt hiệu lực phát ngôn (the force of speech act) và đồng thời anh ta cũng có thể cố gắng để che giấu một số nghi ngờ. Một trong những chiến lược này là sử dụng các dấu hiệu che chắn, các dấu hiệu che chắn đó giúp người nói chuyển tải thông tin cho người khác mà không cần bảo đảm rằng nó hoàn toàn đúng và giữ cho mình khỏi chịu trách nhiệm về những gì mình đã thông báo, hoặc để giảm thiểu các hành động thỏa hiệp thay cho việc thông báo cái thực tế mà người nghe không mong đợi. Như chúng tôi đã trình bày trên đây, trong cả tiếng Anh và tiếng Việt đều tồn tại các dấu Nguyễn Thị Thu Hạnh 73 Tập 11, Số 2, 2017 hiệu tình thái được sử dụng để làm rào chắn. Tuy nhiên, trong bản dịch Tiếng Việt, nhóm dịch giả đã không chuyển tải được hết các dấu hiệu rào chắn tương ứng để làm nổi bật ý định của người viết tiếng Anh, những điểm thiếu sót này có lẽ do thói quen sử dụng ngôn ngữ của nhóm dịch giả này; qua đó ít nhiều cũng thể hiện rằng đây chưa phải là một bản dịch thật sự hoàn hảo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Brown, P. and Levinson, S., Politeness: Some Universals in Language Usage: Cambridge: Cambridge University Press, (1987). 2. Conan Doyle, “Chiếc nhẫn tình cờ”, Sherlock Holmes toàn tập 1 (Nhóm dịch giả: Lê Khánh, Đỗ Tư Nghĩa, Vương Thảo et al.), Nxb Công an nhân dân, pp. 9 - 118, (2002). 3. Conan Doyle, “Vụ xì-căng-đan của xứ Bôhême”, Sherlock Holmes toàn tập 1 (Nhóm dịch giả: Lê Khánh, Đỗ Tư Nghĩa, Vương Thảo et al.), Nxb Công an nhân dân, pp. 558 - 582, (2002) 4. Conan Doyle, “Cuộc phiêu lưu của viên kim cương”, Conan Doyle (2002), Sherlock Holmes toàn tập 1 (Nhóm dịch giả: Lê Khánh, Đỗ Tư Nghĩa, Vương Thảo et al.), Nxb Công an nhân dân, pp. 640 - 662, (2002). 5. Conan Doyle, Arthur, “A Study in Scarlet”, The Complete Sherlock Holmes - All 4 Novels and 56 Short Stories, Camden House, pp. 10 - 110, (1998). 6. Conan Doyle, Arthur, “Scandal in Bohemia”, The Complete Sherlock Holmes - All 4 Novels and 56 Short Stories, Camden House, pp. 219 - 244, (1998). 7. Conan Doyle, Arthur, “The Blue Carbuncle”, The Complete Sherlock Holmes - All 4 Novels and 56 Short Stories, Camden House, pp. 351 - 368, (1998). 8. Givón, T., “Evidential and epistemic space”, Studies in Language, Vol. 6. No. 1, pp. 23 - 49, (1982). 9. Holmes, J., Women, Men and Politeness, New York: Longman, (1995). 10. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, NXB Giáo dục, (1994). 11. Lakoff, Language and Woman’s Place, New York: Harper & Row, Publishers, (1975). 12. Newmark, P.A., A Textbook of Translation, Prentice Hall, London, (1988). 13. Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học, tập 1, NXB Giáo dục, (2001). 14. Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt Ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, (2000). 15. Nguyễn Văn Hiệp, “Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ”, Ngôn Ngữ, số 8, (2007). 16. Ngũ Thiện Hùng, Khảo sát các phương tiện từ vựng, ngữ vựng, ngữ pháp biểu đạt tính tình thái nhận thức trong tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngữ văn, Hà Nội, (2003). 17. Palmer, F., Mood and Modality, Cambridge University Press, (1986). 18. Yule, G., Dụng học, Dịch từ bản in lần thứ ba 1997, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, (2001).
File đính kèm:
- dac_tinh_dung_hoc_cua_tinh_thai_nhan_thuc_trong_truyen_trinh.pdf