Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

Tóm tắt: Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới

pdf 9 trang yennguyen 720
Bạn đang xem tài liệu "Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết

Đảm bảo an ninh môi trường ở Việt Nam: Vấn đề cấp thiết cần phải giải quyết
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
7
ĐẢM BẢO AN NINH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM: 
VẤN ĐỀ CẤP THIẾT CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT
Tạ Đình Thi, Phan Thị Kim Oanh, Tạ Văn Trung, Bùi Đức Hiếu
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Ngày nhận bài 18/5/2017; ngày chuyển phản biện 20/5/2017; ngày chấp nhận đăng 16/6/2017
Tóm tắt: Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, vấn đề đảm bảo an ninh môi trường đã 
trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia. Các thách thức an ninh môi trường 
không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, mà còn là một trong những nguy 
cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Có thể thấy, chưa bao giờ vấn đề môi trường 
lại được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam như hiện nay. Sự khan hiếm tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi 
trường ngày càng gia tăng có thể gây suy yếu nền kinh tế, làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo, làm bất 
ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các cuộc xung đột. Nhiều học giả trong nước và trên thế giới 
đều thống nhất quan điểm về mối quan hệ giữa an ninh quốc gia và an ninh môi trường có tính hữu cơ, chặt 
chẽ, bởi vì về thực chất, an ninh môi trường là một thành tố thuộc an ninh phi truyền thống, một bộ phận 
cấu thành an ninh quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an ninh môi trường chính là một phần quan trọng nhằm đảm 
bảo an ninh quốc gia trong thời đại mới.
Từ khóa: An ninh môi trường, an ninh quốc gia, biến đổi khí hậu, bảo vệ nguồn nước, ô nhiễm môi 
trường, đa dạng sinh học.
1. An ninh môi trường nhìn từ góc độ an ninh 
quốc gia
An ninh quốc gia (ANQG) là khái niệm mang 
tính chính trị - pháp lý, thể hiện bản chất chế 
độ xã hội của một quốc gia. Ở Việt Nam, Luật 
ANQG năm 2004 [12] đã xác định “ANQG là sự 
ổn định, phát triển bền vững của chế độ Xã hội 
chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, 
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của 
Tổ quốc”. Nội dung cơ bản của ANQG là bảo vệ 
lợi ích quốc gia và loại bỏ các mối đe dọa tới 
lợi ích đó. ANQG bao hàm an ninh truyền thống 
(ANTT) và an ninh phi truyền thống (ANPTT). 
Tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm khác nhau 
mà những thách thức ANTT hoặc ANPTT nổi lên 
đe dọa tới ANQG. Trong bối cảnh hiện nay, do 
mặt trái của sự phát triển cùng với xu thế toàn 
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, vấn đề ANQG không 
chỉ giới hạn trong việc ngăn chặn, ứng phó với 
các nguy cơ chiến tranh mà còn bao hàm nhiều 
vấn đề ANPTT như biến đổi khí hậu (BĐKH), ô 
nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt nguồn 
nước, khủng bố, dịch bệnh, tội phạm xuyên 
quốc gia, tội phạm công nghệ cao, Các thách 
thức ANPTT vẫn có thể khiến một quốc gia, thể 
chế xã hội sụp đổ mà không cần bất kỳ một hoạt 
động quân sự nào.
Một trong những vấn đề ANPTT nổi cộm hiện 
nay và được nhiều học giả trên thế giới quan 
tâm nghiên cứu là vấn đề an ninh môi trường 
(ANMT). Năm 1972, vấn đề ANMT lần đầu tiên 
được đưa vào chương trình nghị sự quốc tế tại 
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Con 
người ở Stockholm (Thụy Điển). Vào năm 1977, 
Cục Tình báo Liên bang Mỹ (CIA) đã thiết lập một 
Trung tâm Môi trường đầu tiên trên thế giới để 
đánh giá mối liên hệ giữa môi trường và an ninh. 
Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển đã 
kêu gọi mọi người cần hiểu an ninh một phần 
cũng là chức năng của phát triển bền vững. Đến 
đầu thập niên 1980, các học giả phương Tây lần 
đầu tiên đưa ra khái niệm ANMT và đặc biệt coi 
trọng vấn đề ANMT trong chiến lược ANQG. Đại 
hội đồng Liên Hợp Quốc lần đầu tiên đã đề cập 
tới khái niệm ANMT vào năm 1987 trong một 
văn bản chính thức, theo đó “Sự biến đổi tiêu 
8 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
cực của môi trường đang tạo thành các uy hiếp 
đối với sự phát triển, trở thành căn nguyên 
của các căng thẳng và tiêu cực xã hội ảnh hưởng 
đến cả nhân loại như đói nghèo, mù chữ, dịch 
bệnh,” [8]. 
Khái niệm về ANMT được Chính phủ Mỹ và 
một số quốc gia phương Tây chính thức công 
nhận vào gần giữa thập niên 1990. Vấn đề ANMT 
có thể gây ảnh hưởng lâu dài tới lợi ích quốc 
gia, đe dọa trực tiếp sức khỏe, sự thịnh vượng, 
việc làm, sự ổn định chính trị, kinh tế và mục 
tiêu chiến lược của Mỹ được đề cập trong Chiến 
lược ANQG năm 1994 [17]. Năm 1996, các nước 
châu Âu cũng chính thức đặt vấn đề môi trường 
trở thành một lĩnh vực thuộc phạm vi ANQG. 
Đến nay, các nước Mỹ, Nga, Nhật Bản, Anh, 
Canada, EU và nhiều nước khác đã ban hành 
Chiến lược ANMT. Theo Hội đồng Bảo an Liên 
Hợp Quốc (năm 1992), ANMT là “Sự khan hiếm 
các tài nguyên thiên nhiên, suy thoái và ô nhiễm 
môi trường và những hiểm họa có thể gây suy 
yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất 
ổn chính trị, thậm chí trở thành ngòi nổ cho các 
cuộc xung đột và chiến tranh”. Đây là một định 
nghĩa khá toàn diện, phản ánh được bản chất 
của vấn đề ANMT [9]. Mặc dù còn nhiều vấn đề 
phải tranh cãi, nhưng hiện nay các học giả đã 
thừa nhận các yếu tố môi trường đóng cả vai trò 
trực tiếp và gián tiếp trong tranh chấp chính trị 
và xung đột bạo lực. 
Hiện nay, nhiều học giả trong nước và trên 
thế giới đều thống nhất quan điểm về quan hệ 
ANQG và ANMT có tính chất hữu cơ, chặt chẽ, 
bởi vì về thực chất, ANMT là một thành tố thuộc 
ANPTT, một bộ phận cấu thành ANQG, bên cạnh 
an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn 
hóa,... Tùy bối cảnh của từng nước và tùy từng 
giai đoạn phát triển của lịch sử, vị trí và vai trò 
của ANMT trong ANQG có thay đổi. Nhưng nhìn 
chung, trên thế giới và Việt Nam, vị trí và vai trò 
ANMT đang ngày càng đóng vai trò quan trọng. 
Các nghiên cứu đã khá thống nhất trong việc 
xác định các vấn đề ANMT chủ yếu mà thế giới 
đang phải đối mặt, bao gồm: Tác động của BĐKH 
toàn cầu, trong đó nhấn mạnh tới hiệu ứng nhà 
kính gây ấm lên toàn cầu; nguy cơ nguồn nước 
và sự hủy hoại các nguồn tài nguyên biển; sự 
phá hủy và tổn hại của tầng ô-zôn; hiện tượng sa 
mạc hóa đất đai; hệ thực vật rừng bị phá hoại; 
đa dạng sinh học suy giảm và vấn đề mưa a-xít. 
Cùng xu thế đó, hiện nay, Việt Nam cũng đang 
đứng trước nhiều mối đe dọa về ANMT cấp 
bách cần phải giải quyết, như: BĐKH; an ninh 
nguồn nước, an ninh môi trường biển bị đe dọa; 
ô nhiễm tại các khu vực trọng điểm và ô nhiễm 
xuyên biên giới chưa thể kiểm soát; suy giảm tài 
nguyên rừng và đa dạng sinh học,... Có thể thấy, 
chưa bao giờ các vấn đề môi trường lại được đặt 
ra cấp bách đối với toàn nhân loại như hiện nay.
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta 
đã khẳng định: “Bảo vệ môi trường là một trong 
những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố 
bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của 
nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát 
triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, an ninh 
quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc 
tế của nước ta” [6]. Vấn đề bảo vệ môi trường, 
ứng phó với BĐKH là một nội dung quan trọng 
được đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc 
lần thứ XII, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường 
công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, 
chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ 
phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính 
tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm 
vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài 
là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với 
từng giai đoạn” và yêu cầu phải “sẵn sàng ứng 
phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và 
phi truyền thống” [7].
Thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã có 
nhiều chủ trương, biện pháp về tài nguyên và 
môi trường, cụ thể như Nghị quyết số 24/NQ-TW 
ngày 3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi 
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo 
vệ môi trường; Chiến lược bảo vệ môi trường 
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030; Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam 
giai đoạn 2011-2020; Chiến lược quốc gia về 
biến đổi khí hậu; Luật Bảo vệ môi trường 2014; 
Luật Tài nguyên nước 2012; Luật Phòng chống 
thiên tai 2013; Luật Đa dạng sinh học 2008, 
Đến nay, Việt Nam đã ký kết tham gia 23 công 
ước quốc tế về môi trường. Việt Nam đã cùng 
148 quốc gia khác trên thế giới phê chuẩn việc 
thực hiện Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
9
Việt Nam cũng đang tích cực hợp tác với các 
quốc gia, các tổ chức trên thế giới và xác định 
hợp tác quốc tế là cần thiết để đối phó với các 
thách thức ANPTT, đặc biệt là vấn đề biến đổi 
khí hậu, ô nhiễm môi trường và chia sẻ nguồn 
nước xuyên biên giới. Trong Sách trắng quốc 
phòng Việt Nam năm 2004 khẳng định suy thoái 
môi trường cũng là một trong các mối quan tâm 
hàng đầu về an ninh của Việt Nam. Việt Nam 
đã đưa khái niệm ANMT vào Luật Bảo vệ môi 
trường 2014, theo đó “An ninh môi trường là 
việc bảo đảm không có tác động lớn của môi 
trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát 
triển kinh tế của quốc gia”.
Như vậy, có thể thấy vấn đề ANMT đã được 
thế giới cũng như Việt Nam hết sức quan tâm 
và đã thể chế bước đầu trong các chính sách, 
pháp luật.
2. Thực trạng an ninh môi trường hiện nay ở 
Việt Nam
2.1. Tác động của biến đổi khí hậu
BĐKH đã gây ra các biến động không có lợi 
về môi trường, gây khủng hoảng sinh thái, từ đó 
đe dọa tới ANQG. Có thể thấy, một trong những 
vấn đề quan trọng hàng đầu của ANMT hiện 
nay là BĐKH. Theo đánh giá của các tổ chức thế 
giới, Việt Nam là một trong các quốc gia phải 
chịu nhiều ảnh hưởng của các kiểu thời tiết khắc 
nghiệt và thường xuyên phải chịu ảnh hưởng 
của bão và áp thấp nhiệt đới. BĐKH thực sự đã 
làm cho thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán 
ngày càng khốc liệt. Theo tài liệu “Chỉ số rủi ro 
khí hậu toàn cầu 2016” [16], Việt Nam là quốc 
gia xếp thứ bảy về rủi ro khí hậu dài hạn trên thế 
giới. Bình quân mỗi năm Việt Nam bị ảnh hưởng 
trực tiếp bởi 6-7 cơn bão. Trong giai đoạn 1990-
2010, Việt Nam đã phải trải qua 74 trận lũ lụt. 
Giai đoạn 2011-2015, thiên tai đã làm cho 1.141 
người chết và mất tích, gây thiệt hại về tài sản 
ước tính khoảng 55.400 tỷ đồng. 
Kịch bản BĐKH được cập nhật, xuất bản năm 
2016 [3] cho thấy nhiệt độ trung bình năm trên 
phạm vi toàn quốc tăng khoảng 0,62°C trong 
thời kỳ 1958-2014 và tăng dần theo thời gian. 
Mực nước biển dâng trung bình cả nước giai 
đoạn 1993-2014 là 3,34 mm/năm, trong đó ở 
khu vực ven biển Nam Trung Bộ tăng mạnh nhất 
với tốc độ tăng trên 5,6 mm/năm, khu vực ven 
biển vịnh Bắc Bộ có mức tăng thấp hơn, khoảng 
2,5 mm/năm. Theo kịch bản trung bình cao, đến 
năm 2050, mực nước biển dâng là 25 cm; năm 
2100 là 73 cm. Dự báo, nếu mực nước biển dâng 
1 m và không có các giải pháp ứng phó, khoảng 
16,8% diện tích đồng bằng sông Hồng, 1,5% diện 
tích các tỉnh ven biển miền Trung, 17,8% diện 
tích Thành phố Hồ Chí Minh, 38,9% diện tích 
đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nguy cơ 
ngập chìm trong nước. Trong đó, các tỉnh ĐBSCL 
không chỉ là vựa lúa của Việt Nam mà của cả thế 
giới, nếu mực nước biển dâng cao ở bất cứ mức 
độ nào đều sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của 
hàng chục triệu người dân.
Nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác 
trong nông nghiệp, tác động trực tiếp tới an 
ninh lương thực, an ninh kinh tế, an ninh nguồn 
nước, gia tăng tình trạng đói nghèo, mất việc 
làm và di cư. BĐKH đã, đang và sẽ dẫn tới tình 
trạng mất chỗ ở và di cư ở một số khu vực bị ảnh 
hưởng nặng nề. Khi tài nguyên đất bị thu hẹp do 
nước biển dâng, các thảm họa tự nhiên như lốc 
xoáy, lũ lụt, hạn hán tiếp tục diễn ra với cường 
độ cao, số lượng người mất chỗ ở tăng lên, các 
dạng sinh kế phụ thuộc vào hệ sinh thái mất đi,... 
sẽ dẫn tới tình trạng di cư vĩnh viễn hoặc tạm 
thời. Nguy cơ này đặc biệt nghiêm trọng đối với 
lĩnh vực nông nghiệp, tác động mạnh mẽ nhất 
tới các nhóm nghèo nhất, nhóm người yếu thế.
2.2. An ninh nguồn nước
An ninh nguồn nước (ANNN) gặp nhiều thách 
thức lớn và ngày càng trở nên cấp bách, gay gắt. 
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia [1], 
Việt Nam có hơn 2.360 con sông có chiều dài từ 
10 km trở lên, trong đó có 109 sông chính. Tổng 
lượng nước mặt trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 
830-840 tỷ m3. Phần lớn nguồn nước phụ thuộc 
vào nước ngoài là thách thức lớn nhất đối với 
ANNN ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Theo thống kê, tổng diện tích các lưu vực 
sông trên cả nước lên đến trên 1.167.000 km2, 
trong đó phần lưu vực nằm ngoài diện tích 
lãnh thổ chiếm đến 72%. Lượng nước mặt nội 
sinh chỉ có 310-315 tỷ m3 (chiếm 37%), còn 
520-525 tỷ m3 (chiếm 63%) là từ các nước láng 
giềng chảy vào Việt Nam như Trung Quốc, Thái 
10 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
Lan, Lào, Myanmar và Campuchia. Nguồn nước 
ngoại lai ở lưu vực sông Hồng chiếm 50%, còn ở 
lưu vực sông Mê Kông chiếm đến 90% tổng khối 
lượng nước bề mặt [1]. ANNN phụ thuộc rất lớn 
vào khai thác và sử dụng để phát triển kinh tế 
- xã hội trên các con sông lớn của các quốc gia, 
nhất là trên các lưu vực. Mặc dù có khá nhiều 
các cơ chế hợp tác song phương, đa phương về 
phát triển bền vững nguồn nước nhưng thực tế 
vẫn đang đặt ra nhiều sức ép cho Việt Nam, một 
quốc gia ở hạ nguồn có ít lợi thế hơn trong các 
đàm phán về sử dụng nguồn nước quốc tế.
Ở lưu vực sông Mê Kông, các đập thủy điện đã 
và sẽ xây dựng ở Trung Quốc, Lào, Campuchia sẽ 
là mối đe dọa làm giảm sút nguồn nước, nguồn 
cá, phù sa, hệ sinh thái,... đối với Việt Nam. Đây 
là dấu hiệu đáng lo ngại đối với 20 triệu người 
dân ở ĐBSCL, không chỉ đất đai trồng trọt và 
rừng bị mất đi, người dân cũng có thể phải di cư. 
Mặt khác, mực nước sông Mê Kông ngày càng 
thấp, năm 2015 thấp mức kỷ lục trong vòng 90 
năm qua, là một trong những nguyên nhân chính 
gây ra tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đặc 
biệt nghiêm trọng ở ĐBSCL. Bên cạnh đó, nguồn 
nước sông Hồng từ biên giới phía Trung Quốc 
đổ về hạ lưu ngày càng bị ô nhiễm, nhưng các 
biện pháp xử lý môi trường xuyên biên giới vẫn 
còn nhiều hạn chế. Ở thượng lưu, Trung Quốc 
đã cho vận hành hàng chục nhà máy thủy điện, 
1.870 đập dẫn và kênh dẫn nước, 9 hồ chứa có 
tổng dung tích 200 triệu m3, nên đã làm thay 
đổi lớn đến lượng nước, chế độ dòng chảy, chất 
lượng nước, phù sa ở hạ lưu [20]. Đặc biệt, các 
tỉnh miền núi phía Bắc chịu nhiều tác động xấu 
do thủy điện xả lũ và các hoạt động gây ô nhiễm 
môi trường từ phía Trung Quốc.
Hiện tượng tranh chấp nguồn nước trong 
nội bộ quốc gia có xu hướng gia tăng. Do vị trí 
địa lý, đặc điểm điều kiện tự nhiên đặc thù nên 
khoảng 60% lượng nước của cả nước tập trung 
ở lưu vực sông Mê Kông, 16% tập trung ở lưu 
vực sông Hồng - Thái Bình, khoảng 4% ở lưu vực 
sông Đồng Nai, các lưu vực sông lớn khác tổng 
lượng nước chỉ chiếm phần nhỏ còn lại. 
Trong khi đó, việc phát triển các công trình 
thủy điện trong thời gian qua đã cho thấy những 
hạn chế bất cập trong việc chia sẻ nguồn nước. 
Tài nguyên nước trên các dòng sông đã được 
đưa vào gần hết sử dụng cho thủy điện, gây hệ 
lụy lớn cho các vùng ở hạ lưu. Thời gian qua có 
nhiều vụ tranh chấp nguồn nước giữa các địa 
phương, giữa các đơn vị trong cùng địa phương, 
giữa các địa phương và nhà máy thủy điện, 
Đ ...  hành là vấn đề 
đáng lo ngại. Đây thực sự là thách thức ô nhiễm 
xuyên biên giới đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa 
tới an ninh môi trường, an ninh quốc gia ở Việt 
Nam. Trên thực tế, dù công nghệ mới của các 
nhà máy có thể hiện đại nhưng vẫn có những 
xác suất rủi ro. Các sự cố từ hạt nhân rất nguy 
hiểm, thường phát tán phóng xạ trong phạm vi 
rộng lớn, gây ra nhiều hậu quả đặc biệt nghiêm 
trọng về người và tài sản, Vì vậy, Việt Nam cần 
chủ động có các phương án ứng phó, tăng cường 
quan trắc, cảnh báo kịp thời tới người dân vùng 
ảnh hưởng và đưa ra giải pháp kịp thời khi xảy 
ra sự cố, đồng thời có cơ chế trao đổi thường 
xuyên với Trung Quốc.
Việt Nam hiện nay còn đang phải đối diện với 
nguy cơ trở thành "bãi rác công nghiệp của thế 
12 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
giới". Nhiều vấn đề mới phát sinh trong việc kiểm 
soát nhập khẩu phế liệu đã dẫn đến tình trạng 
doanh nghiệp không chỉ nhập khẩu phế liệu mà 
còn nhập cả rác thải là phế liệu kim loại, nhựa, 
săm lốp cao su thải, vỏ ô tô, tàu biển chưa làm 
sạch tạp chất, ắc quy chì thải, sản phẩm điện tử 
đã qua sử dụng vào nước ta, gây tác động không 
nhỏ tới kinh tế, đặc biệt là vấn đề môi trường, 
sức khỏe của cộng đồng. Theo thống kê của Tổng 
cục Hải quan, năm 2011 phát hiện 17 vụ với khối 
lượng chất thải nguy hại thu giữ là 573 tấn, năm 
2012 có 30 vụ với khối lượng thu giữ 3.868 tấn. 
Bên cạnh đó, tình trạng nhập nông sản có chứa 
các hóa chất bảo quản độc hại, gây hại cho sức 
khỏe cộng đồng có xu hướng gia tăng và chưa 
được ngăn chặn [18].
Nghiên cứu của Viện Khoa học Khí tượng 
Thủy văn và Biến đổi Khí hậu [13] tại 9 tỉnh, 
thành phố ở miền Bắc là Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào 
Cai, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Yên Bái, Hà 
Giang và Hà Nội cho thấy môi trường không khí 
ở Việt Nam đang chịu ảnh hưởng từ các nguồn 
ô nhiễm xuyên biên giới từ vùng phía Đông và 
Đông Nam Trung Quốc, đặc biệt là vào các tháng 
mùa đông. Do chịu ảnh hưởng của gió mùa 
Đông Bắc, ô nhiễm không khí từ Trung Quốc ảnh 
hưởng đến Việt Nam có thể tới 55% đối với SO
2
, 
48% đối với NO
2
 và 30% đối với CO
2
, gây ra hiện 
tượng lắng đọng mưa a-xít ở miền Bắc Việt Nam. 
2.6. Suy giảm tài nguyên rừng và đa dạng 
sinh học
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 
giai đoạn 2011-2015 [2], hiện nay, điều đáng lo 
ngại là chất lượng rừng tự nhiên tiếp tục giảm. 
Tuy độ che phủ rừng có xu hướng tăng nhưng 
chủ yếu là rừng trồng với mức đa dạng sinh học 
thấp, trong khi rừng tự nhiên với mức đa dạng 
sinh học cao nhưng tỷ lệ bảo tồn còn rất thấp. 
Do thời tiết khô hạn diễn ra thường xuyên 
trong giai đoạn 2011-2015 nên hiện tượng 
cháy rừng vẫn xảy ra tại một số địa phương. 
Tính riêng năm 2014, tổng diện tích rừng bị 
cháy là 3.157 ha, tăng 157,2% so với năm trước. 
Trong số diện tích rừng bị cháy và bị phá, rừng 
nguyên sinh vẫn chiếm tỷ lệ lớn, gây ảnh hưởng 
nghiêm trọng tới môi trường và tăng các nguy 
cơ lũ lụt, sự cố môi trường. Diện tích rừng trồng 
tăng với tốc độ nhỏ hơn tốc độ khai thác. Diện 
tích rừng bị cháy và bị chặt phá gây sức ép không 
nhỏ đối với phát triển lâm nghiệp cũng như đối 
với môi trường tự nhiên của nước ta khi hệ sinh 
thái rừng đóng vai trò quan trọng trong hấp thụ 
và lưu giữ CO
2 
trong tự nhiên.
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển 
kinh tế - xã hội vùng ven bờ, diện tích rừng ngập 
mặn trong cả nước đã bị giảm sút nghiêm trọng. 
Trong hơn năm thập kỷ qua, Việt Nam đã mất đi 
67% diện tích rừng ngập mặn so với năm 1943. 
Theo thống kê, tính đến năm 2012, 56% tổng 
diện tích rừng ngập mặn trên toàn quốc là rừng 
mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả 
về kích cỡ, chiều cao cây và đa dạng thành phần 
loài. Rừng ngập mặn nguyên sinh còn rất ít, đồng 
nghĩa với tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái 
suy giảm, đặc biệt các loài thủy sinh không còn 
bãi đẻ và nơi cư ngụ. 
Sự suy giảm đa dạng loài ở nước ta, cũng 
giống như trên thế giới, ngày càng một gia tăng. 
Theo Sách đỏ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên 
quốc tế (IUCN), nếu như năm 1996 mới chỉ có 
25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp 
thì đến năm 2014, con số này đã lên tới 188. Suy 
giảm đa dạng sinh học, sự du nhập của các sinh 
vật ngoại lai xâm hại và sinh vật biến đổi gen 
xâm lấn ngày càng tăng. Nước ta có khá nhiều 
loài con (mai dương, ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, 
bọ cánh cứng hại dừa, vi-rút gây bệnh heo tai 
xanh,...) và cây lạ có nguồn gốc từ nước ngoài 
đã xuất hiện, phá hoại cây trồng, vật nuôi, gây 
mất cân bằng sinh thái, hủy hoại môi sinh và ảnh 
hưởng nghiêm trọng sức khỏe cộng đồng. Nhiều 
loài động, thực vật hoang dã ở Việt Nam có nguy 
cơ tuyệt chủng, diện tích rừng nguyên sinh còn 
rất thấp và khó có khả năng phục hồi, một số loài 
sinh vật biển suy giảm nghiêm trọng,...
2.7. Vấn đề môi trường trong khai thác 
khoáng sản
Hiện nay, thực trạng khai thác tài nguyên 
và khoáng sản của Việt Nam cho thấy đang tồn 
tại nhiều bất cập. Một số khoáng sản có trữ 
lượng lớn, phân bố liên tục đã bị chia nhỏ để 
khai thác. Đặc biệt nạn khai thác không phép, 
khai thác tự do, nhất là đối với khai thác vàng, 
đá quý, chì, kẽm, đồng, than, cát,... chưa được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
13
kiểm soát hiệu quả, tác động nghiêm trọng đến 
môi trường, tài nguyên và an ninh xã hội. Thời 
gian qua, vấn nạn khai thác cát trái phép trên 
các con sông đã diễn ra rất phức tạp, gây sụt lún 
đất hai bên bờ sông, ô nhiễm môi trường và xảy 
ra nhiều xung đột nhưng chưa có biện pháp xử 
lý triệt để.
Công nghệ khai thác chế biến khoáng sản ở 
Việt Nam còn lạc hậu, không phù hợp với loại 
khoáng sản khai thác, nên mức độ thu hồi thấp, 
tác động tiêu cực tới môi trường. Đa số các mỏ 
khai thác hiện nay phần lớn là những cơ sở khai 
thác chế biến quy mô nhỏ, khai thác và sản xuất 
manh mún. Trong khi đó, thực tế cho thấy hệ lụy 
về môi trường trong khai thác khoáng sản là rất 
lớn. Vấn đề khai thác, chế biến bô-xít ở các địa 
phương khu vực Tây Nguyên tiềm ẩn các rủi ro 
về môi trường và sinh thái. Trong quá trình khai 
thác, bụi, nước thải, bùn đỏ tác động rất lớn đối 
với môi trường xung quanh, gây nên khan hiếm 
nguồn nước do nhu cầu sử dụng nước cho dự 
án là rất lớn, phá vỡ cấu trúc địa chất,... Theo 
báo cáo của Tổng hội Địa chất Việt Nam [15], 
tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác 
còn cao, đặc biệt là ở các mỏ hầm lò, các mỏ 
địa phương quản lý. Các sản phẩm sau khai thác, 
chế biến còn nghèo nàn, phần lớn được xuất 
khẩu ở dạng thô có giá trị kinh tế thấp, gây lãng 
phí, thất thoát tài nguyên, ô nhiễm môi trường, 
gia tăng các vấn đề xã hội và ảnh hưởng tới an 
ninh quốc gia.
3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh môi 
trường ở Việt Nam
Thứ nhất, cần xây dựng Bộ Tiêu chí và xác 
định Bộ Chỉ số an ninh môi trường phù hợp với 
điều kiện của Việt Nam, nhằm phục vụ công tác 
quản lý và hoạch định chính sách. Công cụ này 
giúp cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và 
nhà hoạch định chính sách để đánh giá, kiểm 
soát mức độ ANMT ở nước ta và quản lý rủi ro 
hiệu quả. Bộ Tiêu chí an ninh môi trường là cơ 
sở để đánh giá mức độ đáp ứng các yêu cầu về 
bảo đảm ANMT ở Việt Nam, đồng thời cung cấp 
thông tin từng tiêu chí, chỉ tiêu chưa đạt được 
cho các nhà quản lý và nhà hoạch định chính 
sách để đưa ra các giải pháp thúc đẩy, hoàn thiện 
chính sách. Bộ Chỉ số an ninh môi trường là công 
cụ giúp các nhà quản lý và nhà hoạch định chính 
sách kiểm soát được vấn đề môi trường ở Việt 
Nam và đưa ra các chính sách, giải pháp ngăn 
chặn, ứng phó kịp thời nhằm đảm bảo ANMT.
Thứ hai, cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống 
chính sách, giải pháp, cơ chế ngăn ngừa, ứng 
phó, đảm bảo ANMT ở Việt Nam. Đây là yêu cầu 
cấp thiết nhằm quản lý ANMT hiệu quả, góp phần 
quan trọng trong quá trình phát triển bền vững. 
Chúng ta cần thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà 
nước về môi trường, trước hết cần loại bỏ những 
quy định không phù hợp, chưa đầy đủ hoặc 
gây cản trở hoạt động của cơ quan bảo vệ môi 
trường. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu lý 
luận và thực tiễn về vấn đề ANMT và các công cụ 
đánh giá, kiểm soát mức độ ANMT ở Việt Nam, từ 
đó đề xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính 
sách, pháp luật phù hợp, có tính khả thi cao, 
nhằm đảm bảo ANMT, phát triển bền vững. Cần 
sớm nghiên cứu và xây dựng dự án Luật BĐKH. 
Trước mắt, nghiên cứu lồng ghép các tiêu chí về 
môi trường và BĐKH trong dự án Luật Quy hoạch 
đang được Quốc hội và Chính phủ xem xét.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế và khu 
vực, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài như 
nguồn vốn, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm 
quản lý,... ANMT là vấn đề toàn cầu, chính vì vậy 
đòi hỏi sự hợp tác, hỗ trợ của các quốc gia, các tổ 
chức trên thế giới để ứng phó với các thách thức 
mang tính toàn cầu. Đối với vấn đề an ninh nguồn 
nước, Việt Nam cần phải đẩy mạnh hợp tác trong 
Ủy hội sông Mê Kông Quốc tế; lồng ghép các vấn 
đề quản lý, chia sẻ lợi ích nguồn nước, ngăn chặn 
đẩy lùi các hình thức ô nhiễm xuyên biên giới vào 
trong khuôn khổ các hợp tác song phương, đa 
phương, khu vực. Đối với vấn đề nguy cơ từ các 
nhà máy điện hạt nhân, Việt Nam cần chủ động 
có các phương án ứng phó và có cơ chế trao đổi 
thường xuyên với Trung Quốc.
Thứ tư, chú trọng nghiên cứu ứng dụng 
khoa học - công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng 
tiết kiệm nguồn tài nguyên, xử lý ô nhiễm môi 
trường, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó 
với biến đổi khí hậu. Đồng thời, nghiên cứu phát 
triển các loại năng lượng sạch thay thế như 
điện hạt nhân, năng lượng gió, năng lượng mặt 
trời, đảm bảo an ninh năng lượng, giảm áp lực 
năng lượng thủy điện.
14 TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, 
phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi 
trường nhằm nâng cao nhận thức về bảo vệ môi 
trường cho các tổ chức, cá nhân, trong đó có vấn 
đề ANMT. Tăng cường áp dụng các biện pháp 
hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thông tin và thực 
thi hiệu quả các chính sách, pháp luật về bảo vệ 
môi trường. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý 
thức về bảo vệ môi trường trong doanh nghiệp.
Thứ sáu, giải quyết một cách hài hòa, đồng bộ 
mối liên hệ giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi 
trường và các vấn đề xã hội. Cần thay đổi tư duy 
phát triển, nhất là của một số địa phương khi quá 
chú trọng thu hút đầu tư nhưng chưa quan tâm 
đúng mức đến vấn đề môi trường. Đồng thời, cần 
kiểm soát chặt chẽ các nguồn gây ô nhiễm có thể 
xả trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý.
Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý về bảo 
tồn đa dạng sinh học, bảo vệ và phát triển rừng; 
nghiêm cấm, kiểm soát chặt chẽ du nhập các sinh 
vật ngoại lai xâm hại vào Việt Nam; kiểm soát chặt 
chẽ việc quy hoạch, cấp phép trong hoạt động 
khai thác, chế biến tài nguyên thiên nhiên. Bên 
cạnh đó, cần tăng cường năng lực, bộ máy của 
các cơ quan dự báo khí tượng, khí hậu, đồng thời 
phải lồng ghép, tính đến yếu tố BĐKH vào trong 
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương 
trình của Trung ương cũng như của địa phương.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2012.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011-2015.
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2016), Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, 
NXB Tài nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội.
4. Nguyễn Thế Chinh và Phan Thị Kim Oanh (2016), “An ninh nguồn nước trong tiến trình hội nhập 
khu vực và sự lựa chọn chính sách của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về An ninh phi truyền 
thống trong tiến trình hội nhập khu vực: Kinh nghiệm EU - ASEAN và những gợi mở chính sách cho 
Việt Nam.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 
NXB Chính trị, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị khóa 
IX về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
8. Phạm Thành Dung (2015), “An ninh phi truyền thống và định hướng giải pháp cho Việt Nam trong 
điều kiện hội nhập quốc tế”, Báo cáo tổng hợp nghiên cứu Đề tài độc lập cấp Nhà nước.
9. Nguyễn Đình Hòe và Nguyễn Ngọc Sinh (2010), Đảm bảo an ninh môi trường cho phát triển bền 
vững, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
10. IMHEN và UNDP (2015), Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về Quản lý rủi ro thiên tai và hiện tượng 
cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với biến đổi khí hậu.
11. Phạm Ngọc Lãng (2016), "Tai biến môi trường - Một mặt trận an ninh phi truyền thống nóng bỏng", 
Tạp chí Cộng sản.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Luật An ninh quốc gia.
13. Dương Hồng Sơn và nnk (2013), "Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm không khí xuyên biên 
giới đến miền Bắc Việt Nam", Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ.
14. Tổng cục Thống kê (2016), Tình hình kinh tế - xã hội năm 2016.
15. Tổng hội Địa chất Việt Nam, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Viện Tư vấn Phát 
triển (2008), Báo cáo nghiên cứu, đánh giá thực trạng về quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên 
khoáng sản Việt Nam.
16. Sönke Kreft (2015), Global climate risk index 2016-Who Suffers Most From Extreme Weather 
Events? Weather-related Loss Events in 2014 and 1995 to 2014.
TẠP CHÍ KHOA HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Số 2 - Tháng 6/2017
15
17. The White House (1994), A national security strategy of engagement and enlargement, U.S. 
Government Printing Office, Washington DC.
18. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Gia tăng lượng chất thải nguy hại từ hoạt động sản 
xuất công nghiệp, truy cập ngày 9/4/2017, tại trang web 
newid/411381.html.
ENSURING ENVIRONMENTAL SECURITY IN VIET NAM: 
AN URGENT ISSUE TO BE ADDRESSED
Ta Dinh Thi, Phan Thi Kim Oanh, Ta Van Trung, Bui Duc Hieu
Ministry of Natural Resources and Environment
Abstract: Environmental security has become a global issue which entails cooperation and distribution 
of responsibility among nations. Environmental challenges pose a major threat not only to human security, 
economic and food security but also to national security and humankind’s survival. As can be seen, 
environmental issues have become urgent in Viet Nam currently. Natural resources scarcity, environmental 
pollution and degradation can undermine national economy, exacerbate hunger and poverty issue and 
political instability, and may cause conflict. There are a number of Vietnamese and international scholars 
agree on the organic and close relationship between national security and environmental security. This is 
because environmental security is fundamentally a component of non-traditional security which is a 
factor of national security. Assuring environmental security is, therefore, an important part of strengthening 
national security.
Keywords: Environmental security, national security, climate change, environmental pollution, water 
resoures security, biodiversity.

File đính kèm:

  • pdfdam_bao_an_ninh_moi_truong_o_viet_nam_van_de_cap_thiet_can_p.pdf