Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan đến sinh trưởng của Daphnia magna

Tóm tắt: Giáp xác Daphnia magna có nhiều đặc điểm nổi bật như dễ nhận biết và dễ kiểm soát với các chất chứa độc tố, phân bố rộng, sinh sản nhanh bằng hình thức trinh sản trong thời gian ngắn, nên nó được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khoa học như một sinh vật mô hình chuẩn để thử nghiệm độc tính trong môi trường sinh thái thủy sinh. Nghiên cứu này nhằm đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan lên sinh trưởng của giáp xác D. magna. Thuốc trừ sâu endosulfan là hóa chất bảo vệ thực vật họ clo hữu cơ, một nhóm chất hữu cơ bền, có khả năng gây rối loạn nội tiết, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, gây các tác động xấu cho nội tạng và gây nguy hiểm cho con người. Nồng độ endosulfan được lựa chọn trong nghiên cứu này dao động từ 0 (mẫu đối chứng) đến 0,5 µg/l. Sau 48h phơi nhiễm, tỷ lệ chết của D. magna cao nhất đạt 97% ở nồng độ 0,5 µg/l. Giá trị LC50 ghi nhận tại thời điểm 48h là 0,129 µg/l

pdf 5 trang yennguyen 3960
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan đến sinh trưởng của Daphnia magna", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan đến sinh trưởng của Daphnia magna

Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan đến sinh trưởng của Daphnia magna
2161(1) 1.2019
Khoa học Tự nhiên
Mở đầu
Hóa chất bảo vệ thực vật họ clo hữu cơ (OCPs) là dạng 
hóa chất tự nhiên hoặc tổng hợp có khả năng làm rối loạn 
nội tiết, ức chế sinh trưởng và là những hợp chất khó phân 
hủy, tồn lưu lâu dài trong nước cũng như trong trầm tích, có 
khả năng tích lũy sinh học thông qua chuỗi thức ăn và tác 
động bất lợi đến sức khỏe con người và sinh vật [1]. OCPs 
bền vững trong môi trường và có thời gian bán phân huỷ 
dài (từ 1-3 tháng tới 2-6 năm) [2], khi bị phân huỷ OCPs có 
thể biến đổi thành những chất có độc tính cao hơn rất nhiều 
lần so với chất ban đầu. Mặt khác, các hợp chất OCPs ít tan 
trong nước, tan tốt trong mô mỡ của các loài động vật nên 
khi xâm nhập vào cơ thể chúng ít bị đào thải ra ngoài mà 
được tích luỹ lại trong các mô dự trữ của sinh vật và có khả 
năng tác động đến hệ sinh thái, sức khỏe con người trong 
thời gian dài [1]. Endosulfan là hóa chất bảo vệ thực vật 
thuộc nhóm OCPs, gốc cyclodiene, có nguy cơ gây độc thần 
kinh. Chúng tồn tại ở dạng kem màu nâu đất, phản ứng dưới 
dạng tinh thể hoặc dạng “bông tuyết”, có mùi giống mùi của 
nhựa thông và không cháy [3]. Hàng năm, trên thế giới có 
khoảng 18.000 đến 20.000 tấn endosulfan đã được sản xuất, 
trong đó Ấn Độ sản xuất khoảng 10.000 tấn; Trung Quốc 
khoảng 5.000 tấn, còn lại là Israel, Brazil và Hàn Quốc [3]. 
Khi phơi nhiễm qua đường tiêu hóa với liều lượng là 260 
mg/kg, endosulfan sẽ gây tử vong cho người. Trên thế giới, 
các quốc gia đã cam kết ngừng sử dụng hóa chất bảo vệ 
thực vật endosulfan và dự định chấm dứt hoàn toàn vào năm 
2016 [3, 4]. Tuy nhiên, việc tiêu thụ thuốc trừ sâu cũng như 
phân bón tại Việt Nam đã và tiếp tục tăng lên đáng kể trong 
những thập kỷ qua cùng với việc phát triển và cơ khí hóa 
ngành nông nghiệp. Sản lượng và giá trị nhập khẩu thuốc trừ 
sâu qua đường tiểu ngạch đã tăng nhanh chóng, từ 6.500-
9.000 tấn/năm (trong những năm 1981-1986) lên 100.000 
tấn/năm (năm 2015) và giá trị nhập khẩu tăng từ 427 triệu 
USD (năm 2008) lên gần 700 triệu USD (năm 2015) [5]. 
Endosulfan có hai dạng đồng phân bao gồm α-endosulfan, 
β-endosulfan hoặc dẫn xuất endosulfan sulphate [2]. Dù tồn 
tại ở dạng nào, hóa chất này cũng rất độc đối với cơ thể sinh 
vật, chúng có thể gây độc mạn tính, cấp tính, ảnh hưởng tới 
sinh sản, làm dị dạng phôi bào [6, 7]. Kết quả nghiên cứu 
của Palma và cộng sự (2009) về ảnh hưởng của endosulfan 
đến sinh trưởng và phát triển của giáp xác D. magna đã chỉ 
ra rằng, endosulfan làm giảm tỷ lệ con non và kích thước 
con mẹ, tăng tỷ lệ phôi dị dạng và tỷ lệ con đực ở tất cả 
các nồng độ thử nghiệm (từ 9,2 đến 458,7 mg/l) [7]. Khả 
năng sinh sản, sinh trưởng và tỷ lệ sống sót của con non 
mới sinh ra đã giảm đáng kể khi tiếp xúc với các khoảng 
nồng độ 0,12; 0,15; 0,20; 0,25 và 0,31 mg/l endosulfan sau 
21 ngày thử nghiệm [8]. Rối loạn nội tiết của D. magna 
đã được ghi nhận trong nghiên cứu của Palma và cộng sự 
Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan 
đến sinh trưởng của Daphnia magna
Nguyễn Xuân Tòng1,2, Trần Thị Thu Hương3*
2Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Tóm tắt:
Giáp xác Daphnia magna có nhiều đặc điểm nổi bật như dễ nhận biết và dễ kiểm soát với các chất chứa độc tố, phân bố 
rộng, sinh sản nhanh bằng hình thức trinh sản trong thời gian ngắn, nên nó được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khoa 
học như một sinh vật mô hình chuẩn để thử nghiệm độc tính trong môi trường sinh thái thủy sinh. Nghiên cứu này nhằm 
đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan lên sinh trưởng của giáp xác D. magna. Thuốc trừ sâu endosulfan là 
hóa chất bảo vệ thực vật họ clo hữu cơ, một nhóm chất hữu cơ bền, có khả năng gây rối loạn nội tiết, ảnh hưởng đến hệ 
thần kinh, gây các tác động xấu cho nội tạng và gây nguy hiểm cho con người. Nồng độ endosulfan được lựa chọn trong 
nghiên cứu này dao động từ 0 (mẫu đối chứng) đến 0,5 µg/l. Sau 48h phơi nhiễm, tỷ lệ chết của D. magna cao nhất đạt 
97% ở nồng độ 0,5 µg/l. Giá trị LC
50
 ghi nhận tại thời điểm 48h là 0,129 µg/l.
Từ khóa: ảnh hưởng, D. magna, độc tính, endosulfan, tỷ lệ chết.
Chỉ số phân loại: 1.7
*Tác giả liên hệ: Email: tranthithuhuong@humg.edu.vn; huonghumg@gmail.com
1Viện Khoa học Công nghệ và Quản lý Môi trường, Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh
3Khoa Môi trường, Trường Đại học Mỏ - Địa chất
Ngày nhận bài 15/10/2018; ngày chuyển phản biện 25/10/2018; ngày nhận phản biện 26/11/2018; ngày chấp nhận đăng 30/11/2018
2261(1) 1.2019
Khoa học Tự nhiên
(2009), kết quả nghiên cứu cho thấy cả hai loại thuốc trừ sâu 
atrazine và endosulfan sulphate đều làm tăng sự phát triển 
bất thường của phôi thai, cản trở quá trình lột xác và gián 
đoạn hệ thống ecdysteroids ở động vật giáp xác bằng cách 
điều khiển hormone 20-hydroxyecdysone [9]. Ở Việt Nam, 
endosulfan đã bị cấm sử dụng vào năm 2011, song nông dân 
vẫn sử dụng loại thuốc này một cách hết sức tùy tiện, thậm 
chí endosulfan còn được pha với các loại hóa chất bảo vệ 
thực vật khác nhằm tăng khả năng trừ sâu của thuốc [4, 5, 
10, 11]. Đầu năm 2015, đoàn kiểm tra liên ngành Sở Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội đã kiểm tra, phát 
hiện và bắt giữ 41 chai loại 100 g/chai thuốc bảo vệ thực vật 
đã bị cấm sử dụng là endosulfan tại xã Tiền Phong, huyện 
Mê Linh, Hà Nội [4]. Endosulfan được sử dụng với liều 
lượng thiodan 35ND phun 3 kg/ha, nông dân ở huyện Cờ 
Đỏ, Cần Thơ đã làm gia tăng hàm lượng endosulfan trong 
nước ruộng và nước kênh ngay sau khi phun (593 và 390 
μg/l). Kết quả đã làm cho cá chết, thiệt hại nguồn lợi thủy 
sản tự nhiên trên đồng ruộng. Mặc dù dư lượng endosulfan 
trong hạt lúa (biến động từ 9-18 μg/kg) còn rất thấp so với 
tiêu chuẩn môi trường nhưng vẫn cao hơn 2-3 lần ngưỡng 
tối thiểu có nguy cơ gây hại cho con người [12]. 
D. magna (hay còn gọi là rận nước, bọ nước) là loài giáp 
xác nước ngọt thuộc họ Cladocera. Chúng phân bố rộng với 
nhiều loài khác nhau như: D. lumholtzi, D. cornuta có 
cấu tạo cơ thể hình bầu dục, có vỏ giáp bọc ngoài, phân đốt 
cơ thể không rõ ràng. D. magna có thể ăn nhiều loại thức 
ăn khác nhau nhưng chủ yếu là các loại tảo đơn bào tươi, vi 
khuẩn, nấm men [13, 14]. D. magna sinh sản theo kiểu 
trinh sản (con mẹ chỉ đẻ ra con cái), thời gian phát triển 
tương đối nhanh chỉ từ 7 đến 8 ngày và phát triển tốt nhất ở 
21±1oC. Do đặc điểm sinh sản vô tính nên khi gặp điều kiện 
bất lợi sẽ xuất hiện trứng đen trong túi ấp và nở ra con đực. 
Cơ thể D. magna cũng có những thay đổi rõ rệt để phản ứng 
lại độc tố của môi trường, dễ dàng nhận biết và dễ kiểm soát 
nên nó được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khoa học như 
một sinh vật mô hình chuẩn để thử nghiệm độc tính của môi 
trường nước [13, 14]. Ở Việt Nam, nghiên cứu độc tính của 
hóa chất bảo vệ thực vật đã được nhiều báo cáo đề cập, công 
bố, tuy nhiên ảnh hưởng độc tính của chúng đến môi trường 
sau khi sử dụng và đến sinh trưởng, phát triển của sinh vật 
phù du vẫn còn khá hạn chế. Vì vậy, nghiên cứu này được 
thực hiện để đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan 
đến khả năng sinh trưởng và phát triển của động vật phù du 
D. magna. 
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Thuốc trừ sâu endosulfan 
Endosulfan tinh khiết 99% có nguồn gốc từ Merck, có 
khả năng tích tụ lâu trong tự nhiên, khó hòa tan nên được 
hòa tan trong dung môi không phân cực dimetylsulfoxide 
4h trước khi thí nghiệm. Tất cả các thí nghiệm được thực 
hiện với nồng độ endosulfan bổ sung là 0 (mẫu đối chứng) 
và 0,1; 0,2; 0,3; 0,5 µg/l (mẫu thí nghiệm).
D. magna 
Để D. magna thích nghi với môi trường dinh dưỡng và 
điều kiện nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, D. magna thuần 
chủng thu nhận từ Phòng Độc học sinh thái - Đại học Lige 
(Bỉ) được nuôi trong môi trường M4 (ISO 6341:2012), điều 
kiện nuôi như sau: nhiệt độ khoảng 21±1oC, chu kỳ sáng:tối 
là 16:8 giờ với cường độ chiếu sáng từ 500-800 lux, không 
được vượt quá 1.000 lux để tránh sự phát triển của tảo [15]. 
The impact of endosulfan 
pesticide toxicity on the growth 
of Daphnia magna
Xuan Tong Nguyen 1,2, Thi Thu Huong Tran3* 
1Institute for Environmental Science, Engineering and Management, 
Industrial University of Ho Chi Minh City
2Graduate University of Science and Technology, 
Vietnam Academy of Science and Technology
3Faculty of Environmental, Ha noi University of Mining and Geology
Received 15 October 2018; accepted 30 November 2018
Abstract:
The crustacean D. magna is used in many scientific 
researches as a model organism for testing the toxicity 
in the aquatic environment because of its unique 
features such as easy to identify and easy to control toxic 
substances, wide distribution, and quick reproduction 
under the form of parthenogenesis in a short time. This 
study aims to assess how the toxicity of endosulfan 
pesticides affects the growth of D. magna. The pesticide 
endosulfan belongs to the group of organochlorinated 
pesticides (OCPs), a persistent organic substance group, 
which is capable of causing endocrine disruption, 
affecting the nervous system, causing adverse effects 
on the internal organs, and causing other dangers for 
human. The endosulfan concentrations which were 
selected in this research varied from 0 (control) to 0.5 
µg/l to study. After a 48h exposure, the highest death 
rate of the D. magna was 97% at the concentration of 
0.5 µg/l. The LC
50
 value recorded at 48 hours was 0.129 
µg/l.
Keywords: Daphnia magna, effect, endosulfan, mortality 
rate, toxicity.
Classification number: 1.7
2361(1) 1.2019
Khoa học Tự nhiên
Thức ăn cho D. magna là tảo lục Chlorella vulgaris. Môi 
trường và thức ăn được thay mới sau mỗi 2 ngày nuôi cấy 
trong vòng 01 tháng cho đến khi đủ số lượng D. magna cho 
thí nghiệm kiểm tra độc tính.
Thiết kế thí nghiệm 
Độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan ảnh hưởng đến 
sinh trưởng của D. magna được theo dõi ở thời điểm 24 và 
48h. 10 cá thể D. magna con (≥ 1 ngày tuổi) được lựa chọn 
ngẫu nhiên cho mỗi thí nghiệm kiểm tra độc tính và nuôi 
riêng lẻ trong các đĩa 6 giếng SPL (Hàn Quốc). D. magna 
được phơi nhiễm với thuốc trừ sâu endosulfan ở 4 nồng độ 
khác nhau ( 0,1; 0,2; 0,3 và 0,5 μg/l) và với môi trường đối 
chứng (môi trường không chứa thuốc trừ sâu endosulfan). 
Độc tính của vật liệu đến D. magna được tính bằng tỷ lệ % 
số lượng con sống/chết sau 24 và 48h. Các mẫu đều được 
lặp lại 3 lần. 
Ước tính giá trị LC
50
 tại thời điểm 24 và 48h của thuốc 
trừ sâu endosulfan bằng phương pháp Probit (Finney, 1971) 
sử dụng phần mềm Sigmaplot 12.5 và JMP 10.
Kết quả và thảo luận
Ảnh hưởng của nồng độ endosulfan lên sinh trưởng 
và phát triển của D. magna
Quá trình sinh trưởng và phát triển của động vật phù 
du D. magna dưới tác động của các nồng độ thuốc trừ sâu 
endosulfan khác nhau được thể hiện trong hình 1. Độc tính 
của thuốc trừ sâu ở các nồng độ khác nhau ảnh hưởng đến 
sinh trưởng của Daphnia là khác nhau và ở các thời điểm 
khác nhau cũng khác nhau. Daphnia một ngày tuổi được 
phơi nhiễm với thuốc trừ sâu endosulfan từ 0 đến 0,5 μg/l. 
Sau 24 và 48h thử nghiệm cho thấy, ở các mẫu có bổ sung 
0,1; 0,2; 0,3 và 0,5 µg/l thuốc trừ sâu endosulfan hầu hết số 
cá thể D. magna đều có tỷ lệ sống thấp. Trong đó, nồng độ 
0,5 µg/l thể hiện độc tính mạnh nhất với tỷ lệ chết đạt 67% 
sau 24h phơi nhiễm. Ở nồng độ 0,1; 0,2 và 0,3 μg/l, tại thời 
điểm 24h số lượng cá thể chết thay đổi từ 13 đến 47% tổng 
số cá thể phơi nhiễm với thuốc trừ sâu. Tỷ lệ chết tăng lên 
xấp xỉ 97% sau 48h. So với mẫu đối chứng có tỷ lệ sống 
sót đạt 100% ở cả hai thời điểm phơi nhiễm trên hình 1 
cho thấy, nồng độ thuốc trừ sâu endosulfan ảnh hưởng khác 
nhau đến D. magna và giới hạn gây chết tối thiểu của thuốc 
trừ sâu được ghi nhận có giá trị là 0,0023 và 0,028 µg/l sau 
24 và 48h thí nghiệm. 
Hình 1. Biến động tỷ lệ chết của giáp xác D. magna sau 24 
và 48h phơi nhiễm với 0; 0,1; 0,2; 0,3 và 0,5 μg/l thuốc trừ 
sâu endosulfan: (A) Tại thời điểm 24h; (B) Tại thời điểm 48h 
(những nồng độ có cùng chữ cái không có sự khác biệt về ý 
nghĩa thống kê).
Hình thái cơ thể D. magna dưới tác động của endosulfan 
được thể hiện ở hình 2, những cá thể D. magna phơi nhiễm 
với hóa chất bảo vệ thực vật endosulfan (hình 2B) không 
còn khả năng sinh sản, có xu hướng dị dạng bào quan và nội 
tạng trong cơ thể, buồng trứng bị đen so với cá thể ở mẫu 
đối chứng (hình 2A, mẫu không bổ sung endosulfan). 
Hình 2. Biến đổi hình thái giáp xác D. magna trước (A) và sau 
(B) 48h phơi nhiễm thuốc trừ sâu endosulfan ở nồng độ 0,5 μg/l.
Biến dị cơ thể gây ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng của 
D. magna, Fernández và cộng sự (1994) chứng minh rằng, 
endosulfan gây ra một loạt các tác dụng phụ ở D. magna, 
bao gồm giảm khả năng phát triển, giảm tỷ lệ sống và giảm 
tổng số con sinh ra bình thường/dị dạng, giảm thời gian sinh 
sản đầu tiên và giảm thời gian sống trung bình của con mẹ 
[16]. Mặc khác D. magna là một loại thức ăn ưa thích của 
cá và một số loài sinh vật thủy sinh, nếu cá ăn phải những cá 
thể đã bị phơi nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật, chúng sẽ bị 
ảnh hưởng gián tiếp và gây ra những bất lợi đến an toàn thực 
phẩm của con người. Môi trường nuôi cấy chứa endosulfan 
cũng gây ức chế sinh trưởng của tảo là thức ăn chính của D. 
magna. Nghiên cứu của Hutber và cộng sự (1979) về sự tác 
động của hóa chất bảo vệ thực vật lên loại tảo lam đã được 
tiến hành, thí nghiệm được thực hiện dưới điều kiện tối ưu 
cho sự tăng trưởng quang tự dưỡng của tảo, kết quả tại nồng 
độ thấp nhất (0,01 đến 5 µg/l) của các loại hóa chất bảo vệ 
thực vật diuron, atrazine và paraquat cũng đã ghi nhận sự 
ức chế phát triển của tảo, gây chết và biến dị hình thái ban 
2461(1) 1.2019
Khoa học Tự nhiên
đầu của tảo [17].
Hóa chất bảo vệ thực vật không chỉ gây ra ảnh hưởng 
cấp tính, mạn tính mà còn gây tác động cục bộ lên tất cả 
các bộ phận bị ảnh hưởng, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây hại để 
lại nhiều hệ lụy về sau và khó có thể kiểm soát trong môi 
trường sinh thái thủy sinh. Theo Brausch và cộng sự (2011), 
độc tính của hóa chất bảo vệ thực vật pyrethroid (cyfluthrin) 
và thuốc diệt cỏ (diuron) đã khiến cho các thế hệ F1 D. 
magna yếu hơn và dễ mang các vi khuẩn gây bệnh vì được 
sinh ra từ cá thể mẹ F0 phơi nhiễm trước đó [18]. F1 D. 
magna cũng có kích thước cơ thể nhỏ hơn đáng kể so với 
F0, dẫn đến thời gian nuôi con đầu tiên dài hơn, ghi nhận sự 
tác động thứ cấp do street sinh lý thể hiện qua sự thay đổi 
chiều dài cơ thể khi D. magna tiếp xúc với endosulfan [19].
Đánh giá độc tính của thuốc trừ sâu endosulfan đến 
sinh trưởng của giáp xác D. magna
Kết quả ước tính các nồng độ gây chết của D. magna 
trong bảng 1 và hình 3 thể hiện xu hướng tăng dần nguy 
cơ gây độc của hóa chất bảo vệ thực vật khi thời gian phơi 
nhiễm kéo dài. 
Bảng 1. Ước tính giá trị LC50
 của endosulfan tại các thời điểm 
24 và 48h.
Tỷ lệ chết
Nồng độ endosulfan (μg/l )
24h 48h
LC
1
0,0023 0,028
LC
10
0,0058 0,375
LC
20
0,016 0,051
LC
30
0,044 0,070
LC
40
0,121 0,095
LC
50
0,332 0,129
Hình 3. Biến động tỷ lệ sống/chết của giáp xác D. magna sau 
24 và 48h phơi nhiễm với hóa chất bảo vệ thực vật endosulfan ở 
các nồng độ 0; 0,1; 0,2; 0,3 và 0,5 μg/l.
Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu đã công bố 
trước đây về ảnh hưởng của hóa chất bảo vệ thực vật trong 
môi trường nước đến sự phát triển của các loài động, thực 
vật thủy sinh. Giáp xác D. magna có khả năng thích ứng 
khác nhau với các hóa chất bảo vệ thực vật khác nhau. Giá 
trị LC
50
 ghi nhận tại hai thời điểm phơi nhiễm 24 và 48h lần 
lượt là 0,332 và 0,129 µg/l. Khả năng gây độc của hóa chất 
bảo vệ thực vật endosulfan và một số dạng tồn tại khác của 
hóa chất bảo vệ thực vật như DDE, Chlorpyrifos, Azinphos-
methyl, Diazinon lên D. magna cho thấy, giá trị LC
50
 sau 
48h của endosulfan thấp hơn so với giá trị ghi nhận được 
khi bổ sung pp’DDE là 5,08 μg/l [20], của Azinphos-methyl 
là 1-1,62 μg/l, Chlorpyrifos là 0,46-0,72 μg/l và Dizinon là 
1,5-1,56 μg/l [21]. Sự tích tụ của hóa chất bảo vệ thực vật 
trong môi trường có thể là một nguồn gây độc tiềm tàng 
cho khả năng sinh trưởng và tồn tại của các động, thực vật 
thuỷ sinh.
Khả năng gây độc cấp tính của endosulfan với một số 
loài động vật không xương sống thủy sinh cũng cho kết quả 
tương tự, các sinh vật không xương sống nhạy cảm nhất 
được đánh giá độc tính của endosulfan là tôm hồng với LC
50
là 0,04 μg/l. Giá trị này được Schimmel và cộng sự (1977) 
thu được trong một nghiên cứu với một số loài sinh sống ở 
cửa sông và kết quả ghi nhận được cho thấy độ nhạy cao của 
tôm hồng với loại hóa chất này [22]. Một nghiên cứu khác 
của Krishnan và cộng sự (1989) cho thấy, ảnh hưởng độc 
cấp tính đối với một số loài sinh vật mô hình như Daphnia 
sp. ghi nhận giá trị LC
50
 từ 62 đến 740 µg/l; Moina micrura 
có LC
50
 là 16,2 µg/l và nhạy cảm hơn so với loài Daphnia 
sau 48h tiếp xúc với endosulfan [23]. Điều này thể hiện khả 
năng gây độc khác nhau của endosulfan với các loài khác 
nhau là khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về độc tính của 
các độc tố môi trường, khả năng gây độc của hóa chất bảo 
vệ thực vật cũng có xu hướng phụ thuộc vào trọng lượng 
và kích thước của cá thể nghiên cứu. Những cá thể nhỏ hơn 
dễ bị ảnh hưởng khi phơi nhiễm với nồng độ thấp hơn [24]. 
Bên cạnh đó, những cá thể nhỏ thường có độ hô hấp và quá 
trình tuần hoàn trao đổi chất cao, làm cho lượng hóa chất 
bảo vệ thực vật mau đi vào cơ thể hơn những cá thể lớn [24].
Như vậy có thể thấy có một sự liên quan tuyến tính giữa 
khả năng sinh trưởng của đối tượng thử nghiệm với các 
dạng tồn tại và nồng độ của hóa chất bảo vệ thực vật bổ sung 
vào môi trường. Do đó, khi sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật 
nói chung và thuốc trừ sâu endosulfan nói riêng cần xem xét 
một cách cẩn thận tính an toàn của chúng nhằm giảm thiểu 
các tác động bất lợi đến sinh trưởng của các sinh vật và môi 
trường sinh thái của chúng.
Kết luận
Kết quả thử nghiệm độc tính cho thấy, thuốc trừ sâu 
endosulfan ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và sống 
2561(1) 1.2019
Khoa học Tự nhiên
sót của D. magna. Với nồng độ endosulfan bổ sung là 0,1; 
0,2; 0,3 và 0,5 µg/l sau 24 và 48h phơi nhiễm, hầu hết số cá 
thể D. magna đều không có khả năng sống sót. Ở nồng độ 
0,1; 0,2 và 0,3 µg/l, số lượng D. magna sống sót cao hơn 
với tỷ lệ chết dao động từ 13 đến 47% sau 24h, trong khi đó 
ở nồng độ 0,5 µg/l tỷ lệ D. magna bị chết lên đến 97% sau 
48h. Tỷ lệ sống sót ở mẫu đối chứng là 100% ở cả hai thời 
điểm thử nghiệm.
Từ số liệu thực nghiệm cho thấy, endosulfan có ảnh 
hưởng bất lợi đến sinh trưởng và phát triển của D. magna. 
Do đó, xuất phát từ việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật nói 
chung và endosulfan nói riêng, phải được xem xét một cách 
cẩn thận, tiến tới cấm sử dụng triệt để trong nông nghiệp 
hoặc phải đưa ra được những quy trình xử lý tồn dư hóa 
chất này trong môi trường nhằm hạn chế ảnh hưởng đến quá 
trình sinh trưởng và phát triển của các động vật thủy sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị Minh Huệ, Lê Trọng Dũng (2015), “Hóa chất bảo 
vệ thực vật clo hữu cơ trong nước và trầm tích tại trạm quan trắc môi 
trường biển Nha Trang trong 10 năm gần đây (2005-2014)”, Tuyển tập 
Nghiên cứu biển, 21(2), tr.80-87.
[2] M. Herrmann (2003), “Endosulfan preliminary 
dossier”, Proceedings of fourth Meeting of the United 
Nations Economic Commission for Europe Expert group 
on Persistent Organic Pollutants, pp.59-61.
[3] US Department of Health and Human Services (2015), 
Toxicological Profile for Endosulfan, Agency for Toxic Substances 
and Disease Registry.
[4] UNEP (2018), National implementation plans, Stockholm 
Convention on Persistent Organic Pollutants.
[5] Tổng cục Môi trường (2015), “Hiện trạng ô nhiễm môi trường 
do hóa chất bảo vệ thực vật tồn lưu thuộc nhóm chất hữu cơ khó phân 
hủy tại Việt Nam”, Dự án xây dựng năng lực nhằm loại bỏ hóa chất 
bảo vệ thực vật pop tồn lưu tại Việt Nam.
[6] L.L. Foersom, P.L. DeFur and S. Tuberty (2002), “Effects of 
endosulfan on moulting in juvenile red swamp crayfish, Procambarus 
clarki”, Conference paper in Integrative and Comparative Biology, 
42, pp.1218-1219.
[7] P. Palma, V.L. Palma, R.M. Fernandes, A.M.V.M. 
Soares and I.R. Barbosa (2009), “Endosulfan sulphate 
interferes with reproduction, embryonic development 
and sex differentiation in Daphnia magna”, Ecotoxicology and 
Environmental Safety, 72(2), pp.344-350.
[8] A. Fernandez-Casalderrey, M.D. Ferrando and E. Andreu-
Moliner (1993), “Effects of endosulfan on survival, growth and 
reproduction of Daphnia magna”, Comparative Biochemistry and 
Physiology Part C: Pharmacology, Toxicology and Endocrinology, 
106(2), pp.437-441.
[9] P. Palma, V.L. Palma, C. Matos, R.M. Fernandes, A. 
Bohn, A.M.V.M. Soares and I.R. Barbosa (2009), “Effects 
of atrazine and endosulfan sulphate on the ecdysteroid 
system of Daphnia magna”, Chemosphere, 74(5), pp.676-681.
[10] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2011), “Danh 
mục các loại thuốc được phép, hạn chế và cấm sử dụng ở Việt Nam”, 
Thông tư số 36/2011/TT-BNNPTNT ngày 20/5/2011 của Bộ trưởng Bộ 
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
[11] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2014), Báo cáo 
Thực trạng và giải pháp quản lý thuốc bảo vệ thực vật. 
[12] Phạm Văn Toàn (2013), “Thực trạng sử dụng thuốc bảo vệ 
thực vật và một số giải pháp giảm thiểu việc sử dụng thuốc không hợp 
lý trong sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ, Phần A: Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 
Môi trường, 28, tr.47-53.
[13] Ngô Thị Thanh Huyền, Đào Thanh Sơn (2014), “Ảnh hưởng 
của nước thải sinh hoạt lên vi giáp xác”, Tạp chí STINFO, 1&2, 
tr.49-54.
[14] D. Ebert (2005), “Ecology, Epidemiology and Evolution 
of Parasitism in Daphnia”, Bethesda (MD): National Library of 
Medicine (US), National Center for Biotechnology Information.
[15] ISO 6341:2012 (2012), Water quality - Determination of 
the inhibition of the mobility of Daphnia magna Straus (Cladocera, 
Crustacea).
[16] A. Fernández-Casalderrey, M.D. Ferrando, E. Andreu-
Moliner (1994), “Effect of Sublethal Concentrations of Pesticides 
on the Feeding Behavior of Daphnia magna”, Ecotoxicology and 
Environmental Chemistry, 27(1), pp.82-89.
[17] G.N. Hutber, L.J. Rogers, A.J. Smith (1979), “Influence 
of pesticides on the growth of cyanobacteria”, Journal of Basic 
Microbiology: Environment - Health - Techniques, 19(6), pp.397-402.
[18] J.M. Brausch and C.J. Salice (2011), “Effects of an 
Environmentally Realistic Pesticide Mixture on Daphnia magna 
Exposed for Two Generations”, Arch. Environ. Contam. Toxicol., 
61(2), pp.272-279.
[19] A. Fernández-Casalderrey, M.D. Ferrando, E. Andreu-
Moliner (1992), “Filtration and ingestion rates of brachionus 
calyciflorus after exposure to Endosulfan and diazinon”, Comp. 
Biochem. Physiol., 103(2), pp.357-361.
[20] B. Roberta, C. Valeria, N. Francesca, P. Benedetta, Q. Silvia, 
G. Silvana (2013), “Ecotoxicity of pp’DDE to Daphnia magna”, 
Ecotoxicology, 22(8), pp.1255-1263.
[21] T.K. George and K. Liber (2007), “Laboratory Investigation 
of the Toxicity and Interaction of Pesticide Mixtures in Daphnia 
magna”, Arch. Environ. Contam. Toxicol., 52(1), pp.64-72.
[22] S.C. Schimmel and A.J. Wilson (1977), “Acute toxicity of 
kepone to four estuarine animals”, Chesapeake Science, 18, pp.224-
227.
[23] M. Krishnan and S. Chockalingam (1989), “The toxic 
and sublethal effects of Endosulfan and carbaryl on the growth 
and production of eggs of Micrura moina (Cladocera: Moinidae)”, 
Enviromental Pollution, 56(4), pp.319-326.
[24] Robert Henry Peters (1986), “The ecological implications 
of body size”, Cambridge Studies in Ecology, Cambridge University 
Press, p.344.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_doc_tinh_cua_thuoc_tru_sau_endosulfan_den_sinh_truo.pdf