Dạy ngữ pháp tiếng Việt như một ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp

Abstract

The purpose of teaching Vietnamese grammar to foreigners (second language learners), from

the view of the communicative approach, is to help learners develop their communicative

competence in Vietnamese. To reach this target, it is necessary to teach learners both the

grammar and language skills, using both deductive and inductive methods. The choice of

grammatical material must be appropriate to the topic and communicative situations of the

lesson, and should be designed in integration with the dialogues, reading texts, drills, exercises

and communicative activities. And it is important that instructors have good knowledge of

grammar and good skills of presenting, explaining and guiding learners through controlled drills

and free diaglogues, and have appropriate ways of testing and correcting errors.

pdf 7 trang yennguyen 6900
Bạn đang xem tài liệu "Dạy ngữ pháp tiếng Việt như một ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dạy ngữ pháp tiếng Việt như một ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp

Dạy ngữ pháp tiếng Việt như một ngoại ngữ theo phương pháp giao tiếp
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 9 (203)-2012 
16 
D¹y ng÷ ph¸p tiÕng viÖt nh− mét ngo¹i ng÷ 
theo ph−¬ng ph¸p giao tiÕp* 
The Communicative Approach 
in Teaching Vietnamese Grammar to Foreigners 
 NguyÔn hång cæn 
 (PGS, TS §H KHXH & NV, §HQGHN) 
Abstract 
The purpose of teaching Vietnamese grammar to foreigners (second language learners), from 
the view of the communicative approach, is to help learners develop their communicative 
competence in Vietnamese. To reach this target, it is necessary to teach learners both the 
grammar and language skills, using both deductive and inductive methods. The choice of 
grammatical material must be appropriate to the topic and communicative situations of the 
lesson, and should be designed in integration with the dialogues, reading texts, drills, exercises 
and communicative activities. And it is important that instructors have good knowledge of 
grammar and good skills of presenting, explaining and guiding learners through controlled drills 
and free diaglogues, and have appropriate ways of testing and correcting errors. 
1. Phương pháp giao tiếp và dạy ngữ 
pháp theo phương pháp giao tiếp 
1.1 Phương pháp giao tiếp trong dạy 
tiếng 
Cho đến nay, những người làm công việc 
dạy tiếng như một ngoại ngữ đã biết đến 
nhiều phương pháp dạy tiếng khác nhau như: 
phương pháp ngữ pháp – dịch, phương pháp 
trực tiếp, phương pháp nghe -nói, phương 
pháp nghe – nhìn, phương pháp gợi mở, 
phương pháp giao tiếpMỗi phương pháp 
đều có những điểm yếu và điểm mạnh nhất 
định, tùy thuộc vào việc người dạy và học 
tiếng nhằm mục đích gì. Trong các phương 
pháp đó, có thể nói phương pháp giao tiếp là 
phương pháp phù hợp hơn cả, nếu mục đích 
của việc dạy và học một ngôn ngữ là để 
người học giao tiếp được bằng ngôn ngữ đó 
(thông qua việc làm chủ được các kĩ năng 
nghe, nói, đọc, hiểu). 
Theo cách tiếp cận của phương pháp giao 
tiếp (Canale & Swain, 1980; Bachman 1990, 
Vũ Thị Thanh Hương, 2007), trong dạy 
tiếng thay vì chỉ cung cấp các kiến thức 
ngôn ngữ học thuần túy cho người học, 
người dạy cần chú trọng phát triển “năng 
lực giao tiếp” (Communicative 
compentence) của người học, mà mục đích 
cần đạt đến là: (1) năng lực ngôn ngữ/ngữ 
pháp, (2) năng lực diễn ngôn, (3) năng lực 
ngôn ngữ- xã hội và (4) năng lực chiến lược. 
 Để đạt được mục đích này, việc dạy và 
học tiếng cần phải tuân theo các nguyên tắc 
sau: 
• Nguyên tắc giao tiếp: việc dạy và học 
phải luôn gắn với mục đích, hoạt động và 
bối cảnh giao tiếp 
• Nguyên tắc lấy người học làm trung 
tâm: người học phải là trung tâm của các 
hoạt động ở trong lớp học (dưới sự hướng 
dẫn của người dạy) 
Sè 9 (203)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
17
• Nguyên tắc bản ngữ: lấy bản ngữ , tài 
liệu bản ngữ, bối cảnh văn hóa xã hội bản 
ngữ ở dạng tự nhiên nhất để giảng dạy. 
Có thể thấy rõ sự khác biệt giữa phương 
pháp giao tiếp với các phương pháp dạy 
tiếng khác (như phương pháp ngữ pháp dịch, 
phương pháp trực tiếp) qua bảng so sánh 
sau đây: 
 Tiêu chuẩn 
 đánh giá 
PP Ngữ pháp - dịch 
PP Trực tiếp 
(nghe -nói, nghe -
nhìn) 
PP Giao tiếp 
Mục đích Kiến thức 1 > Kĩ năng 2 
Kĩ năng > Kiến thức Kiến thức + Kĩ năng 
= Năng lực giao tiếp 
3
Hướng truyền đạt Diễn dịch Quy nạp Diễn dịch + Quy nạp 
Kĩ năng ưu tiên Đọc, dịch > Nghe, nói, 
 viết 
Nghe, nói, viết > Đọc, 
dịch 
Theo yêu cầu của 
người học 
Ngôn ngữ thụ đắc Chủ yếu là NN văn học Chủ yếu là khẩu ngữ NN văn học + Khẩu 
ngữ 
Ngôn ngữ giảng 
dạy 
Bản ngữ là chính Ngoại ngữ là chính Ngoại ngữ + Bản 
ngữ 
Vai trò GV & 
SV 
GV là trung tâm SV là trung tâm Cả GV& SV đều 
là trung tâm 
Hoạt động của 
SV 
Ít có hoạt động với 
GV và SV khác (thụ 
động, độc lập) 
Hoạt động với GV 
(bắt chước) nhiều hơn 
với SV 
Hoạt động cả với 
GV và SV khác (hoạt 
động nhóm) 
1. Kiến thức: Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp 
2. Kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết, dịch 
3. Năng lực giao tiếp, bao gồm: 
- Năng lực ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, 
ngữ pháp) 
- Năng lực diễn ngôn (liên kết, hội thoại) 
- Năng lực ngôn ngữ - xã hội (khung 
cảnh, chủ đề, quan hệ xã hội, phong cách, 
v.v) 
- Năng lực chiến lược (lựa chọn chiến 
lược, xử lí tình huống giao tiếp) 
 (Canale $ Swain 1980, Bachman 1990, 
Vũ Thị Thanh Hương, 2007). 
1.2 Dạy ngữ pháp theo phương pháp giao 
tiếp 
Vấn đề dạy ngữ pháp cho người học 
ngoại ngữ đã được nhiều nhà nghiên cứu và 
nhà sư phạm bàn đến, nhưng cho đến nay 
dường như vẫn chưa có câu trả lời thống 
nhất đối với vấn đề quan trọng nhưng cũng 
khá phức tạp này. Những người theo phương 
pháp ngữ pháp - dịch quan niệm việc dạy 
ngữ pháp với tư cách là tập hợp các quy tắc 
hình thái – cú pháp là nhiệm vụ trung tâm 
của hoạt động dạy và học ngoại ngữ. Theo 
phương pháp này, ngữ pháp thường được 
dạy và học theo con đường diễn dịch: dành 
nhiều thời gian để giải thích, luyện tập sử 
dụng các quy tắc ngữ pháp độc lập hơn là 
gắn chúng với các hoạt động giao tiếp 
(Herron, C. & Tomasello, M. 1988). Ngược 
lại, những người theo phương pháp trực tiếp 
lại cho rằng việc dạy các quy tắc ngữ pháp là 
không cần thiết vì các kiến thức ngữ pháp 
được người học tiếp nhận theo con đường 
quy nạp thông qua quá trình học giao tiếp 
bản ngữ một cách trực tiếp (Krashen, S. D. 
1992, Bussmann, Hadumod, 1996). 
Đối lập với 2 cách tiếp cận có phần cực 
đoan trên đây, phương pháp giao tiếp cho 
rằng trong dạy ngoại ngữ, ngữ pháp không 
nên được dạy như là kiến thức ngôn ngữ học 
thuần túy mà như là phương tiện để người 
học tiếp nhận và tạo lập các diễn ngôn và 
văn bản. Vì vậy, cần kết hợp cả cách dạy 
theo hướng quy nạp (dạy ngữ pháp qua các 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 9 (203)-2012 
18 
hoạt động giao tiếp) và theo hướng diễn dịch 
(dạy qua các cấu trúc ngữ pháp), nói cách 
khác đó là cách dạy quy nạp có định hướng. 
Chẳng hạn, theo R. Mitchell (2000), dạy ngữ 
pháp theo phương pháp giao tiếp phải hướng 
đến những mục đích sau : 
- Có kế hoạch và có tính hệ thống, đươc 
định hướng bởi kết quả mà người học muốn 
đạt được sau khi kết thúc khóa học . 
- Có thay đổi rõ ràng, cung cấp cho người 
học ở các trình độ khác nhau nhiều cơ hội 
khác nhau để gia tăng sự hiểu biết về ngữ 
pháp của họ. 
- Có bổ sung và kế thừa: đưa dần dần các 
kiến thức mới trên cơ sở nhắc lại thường 
xuyên các kiến thức đã học. 
- Động viên và đưa người học vào các 
hoạt động và các nhiệm vụ có định hướng, 
tạo cơ hội cho họ thực hành và sử dụng bản 
ngữ. 
Tán thành cách tiếp cận của phương pháp 
giao tiếp đối với dạy ngữ pháp, dưới đây 
chúng tôi sẽ đi sâu thảo luận một số vấn đề 
liên quan đến nội dung và kĩ năng dạy ngữ 
pháp tiếng Việt cho người nước ngoài theo 
phương pháp giao tiếp. 
2. Nội dung dạy ngữ pháp tiếng Việt 
theo phương pháp giao tiếp 
 Lựa chọn nội dung ngữ pháp tiếng Việt 
theo phương pháp giao tiếp 
Có một sự khác biệt lớn giữa phương 
pháp giao tiếp và các phương pháp dạy tiếng 
khác trong việc lựa chọn nội dung ngữ pháp 
để dạy cho người học. Theo cách tiếp cận 
“focus on forms” của các phương pháp dạy 
tiếng truyền thống, người học gần như phải 
học tất cả các kiến thức ngữ pháp của một 
ngôn ngữ từ cấu tạo đến từ loại, các kiểu kết 
cấu cú pháp, các kiểu câu, v.v. Các nội dung 
ngữ pháp này thường được đưa vào bài học 
dựa trên tính hệ thống (từ pháp học và cú 
pháp học) và độ phức tạp (từ dễ đến khó) 
hơn là gắn chúng với mục đích giao tiếp đa 
dạng của người học. Ngược lại, với cách tiếp 
cận “focus on meaning/funtion” của phương 
pháp giao tiếp, các nội dung ngữ pháp được 
lựa chọn theo mục đích của người học. Theo 
đó, các nội dung ngữ pháp phù hợp với một 
bài giảng là: 
- Phù hợp với mục đích, yêu cầu của bài 
giảng 
- Phù hợp với chủ đề của các bài hội 
thoại, bài đọc 
- Phù hợp với trình độ của người học 
- Phù hợp với các hoạt động giao tiếp 
của người học 
Chẳng hạn, với bài hội thoại “Mua sắm” 
có mục đích dạy cho người học thực hiện 
các hoạt động giao tiếp trong mua bán, các 
nội dung ngữ pháp sau đây được coi phù 
hợp: 
- Cách dùng lượng từ + loại từ/danh từ 
đơn vị + danh từ chỉ sự vật 2 quyển sách, 3 
quả cam, 1 bộ quần áo, 50 nghìn đồng 
- Câu tường thuật hay câu hỏi có các 
động từ tình thái cần/muốn/ thích 
(Anh muốn mua gì? Tôi muốn/cần mua 
..) 
- Câu hỏi về số lượng, giá cả với các đại 
từ nghi vấn bao nhiêu/mấy? 
 (Anh mua mấy cân cam? - Một cân 
cam bao nhiêu tiền?) 
 v.v 
Việc đưa, chẳng hạn, cách dùng các từ 
xưng hô bằng quan hệ thân tộc (ông, bà, cha, 
mẹ, con, cháu ) , các câu hỏi và trả lời về 
thời gian (mấy giờ?, bao giờ...?), địa điểm (ở 
đâu? đi đâu), phương tiện đi lại (bằng 
gì?)  sẽ khó thích hợp với chủ đề này. 
Vì vậy , theo phương pháp giao tiếp , việc 
lựa chọn các nội dung ngữ pháp để dạy cho 
người học luôn luôn phải được tiến hành 
đồng thời với việc thiết kế các nội dung ngữ 
pháp cho giáo trình hoặc bài giảng. 
2.2 Thiết kế nội dung ngữ pháp tiếng Việt 
theo phương pháp giao tiếp 
Dù theo phương pháp nào, nội dung ngữ 
pháp trong giáo trình, bài giảng tiếng Việt 
Sè 9 (203)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
19
cho người nước ngoài cũng được trình bày ở 
ba phần: 1) ở phần chú giải các quy tắc ngữ 
pháp, 2) ở các bài hội thoại và bài đọc, và 3) 
ở các bài luyện và bài tập. Tuy nhiên, ở các 
giáo trình, bài giảng biên soạn theo cách tiếp 
cận “focus on forms”, nội dung ngữ pháp 
thường được thiết kế theo trình tự diễn dịch: 
Các quy tắc ngữ pháp > Bài tập, bài luyện 
> Hội thoại, bài đọc 
Ở các giáo trình, bài giảng tiếng Việt biên 
soạn theo cách tiếp cận của phương pháp 
giao tiếp (focus on meaning/function), các 
nội dung ngữ pháp lại được thiết kế theo 
trình tự ngược lại: 
Hội thoại, bài đọc > Các quy tắc ngữ 
pháp > Bài tập, bài luyện 
 Theo đó, các quy tắc ngữ pháp không 
được đưa vào bài giảng một cách mặc định 
ngay từ đầu mà có mặt tiềm ẩn trong các bài 
hội thoại hay bài đọc phù hợp với chủ đề, và 
chỉ được giải thích hiển ngôn ở phần chủ 
giải ngữ pháp và hướng dẫn sử dụng ở phần 
bài tập, bài luyện. 
3. Kĩ năng dạy ngữ pháp tiếng Việt 
theo phương pháp giao tiếp 
Không chỉ đòi hỏi lựa chọn và thiết kế 
các nội dung ngữ pháp phù hợp, phương 
pháp giao tiếp cũng yêu cầu người dạy phải 
có các kĩ năng dạy ngữ pháp đáp ứng với 
mục đích giao tiếp. Các kĩ năng này liên 
quan ít nhất đến 5 hoạt động sau đây: 
 Chuẩn bị trước giờ lên lớp 
Để làm quen với các nội dung ngữ pháp 
mới của bài học và hình dung trước các hoạt 
động sẽ triển khai trong lớp học theo phương 
pháp giao tiếp, trước khi lên lớp người dạy 
cần có những bước chuẩn bị sau: 
- Đọc kĩ phần chú giải ngữ pháp, bao gồm 
các nội dung ngữ pháp được đề cập, cách 
giải thích và các ví dụ minh họa (xem có gì 
chưa phù hợp cần điều chỉnh hoặc bổ sung). 
- Đọc qua các bài hội thoại và bài đọc, 
lưu ý các hiện tượng ngữ pháp đã có ở phần 
chú giải hoặc hiện tượng ngữ pháp mới 
(không có ở phần chú giải). 
- Chuẩn bị các bài luyện, bài thực hành 
(bao gồm các hoạt động giao tiếp), bài kiểm 
tra đánh giá phù hợp với nội dung ngữ pháp 
có trong bài. 
- Yêu cầu học viên đọc trước bài hội 
thoại, bài đọc và phần chú giải ngữ pháp. 
 Khởi động dẫn nhập 
Khởi động (brainstorming) là hoạt động 
giao tiếp nhằm tạo không khí và chuẩn bị 
tâm thế cho học viên tiếp thu nội dung ngữ 
pháp mới một cách tích cực và chủ động. 
Tùy theo nội dung bài học, giáo viên có thể 
lựa chọn các hoạt động giao tiếp khác nhau 
để người học chú ý. Chẳng hạn, để khởi 
động cho bài giảng có nội dung liên quan 
đến cách dùng trạng ngữ chỉ phương tiện, 
giáo viên có thể dùng các hoạt động giao 
tiếp như: 
a) Hỏi – trả lời: 
Giáo viên: Sáng nay em đi học bằng gì? 
Học viên: Không trả lời, trả lời sai, hoặc 
trả lời đúng. 
b) Xem tranh – mô tả: Giáo viên yêu cầu 
học viên mô tả một bức tranh có nhiều hoạt 
động mà sinh viên đã biết (chẳng hạn: một 
người đang ngủ, một người đang đọc báo), 
chỉ có hoạt động sử dụng phương tiện (một 
người đi xe máy) có thể SV chưa biết. 
 Cả hai cách trả lời (sai hoặc đúng) của 
người học đều có thể là lí do giúp giáo viên 
và học viên liên hệ đến nội dung ngữ pháp 
cần học là cách dùng trạng ngữ chỉ phương 
tiện. 
 Giới thiệu nội dung ngữ pháp 
Sau phần khởi động là phần giới thiệu nội 
dung ngữ pháp cần học. Giáo viên có thể lựa 
chọn cách trình bày các nội dung ngữ pháp 
theo hường quy nạp hoặc diễn dịch: 
 - Trình bày theo hướng quy nạp: Lấy các 
ví dụ từ bài hội thoại hoặc bài đọc > Giới 
thiệu các quy tắc ngữ pháp ở phần chú giải 
ngữ pháp > giải thích chức năng/ý nghĩa, 
cách dùng của các quy tắc ngữ pháp > luyện 
tập, thực hành. 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 9 (203)-2012 
20 
- Trình bày theo hướng diễn dịch: Giới 
thiệu các quy tắc ngữ pháp > Lấy các ví dụ 
từ bài hội thoại/bài đọc minh họa > Giải 
thích chức năng/ý nghĩa, cách dùng > Luyện 
tập, thực hành . 
Dưới đây là ví dụ về cách dạy cấu trúc 
ngữ pháp có các đại từ phiếm chỉ được sử 
dụng thành cặp đối ứng (aiấy, đâuđấy, 
gìnấy, v.v): 
a) Trình bày theo lối quy nạp : 
1) Lấy các ví dụ (từ bài hội thoại/bài 
đọc) để sinh viên quan sát, nhận xét: 
- Anh gửi cho ai, tôi đưa cho người ấy 
- Họ mua gì, tôi mua nấy 
- Anh đi đâu, tôi đi đấy 
2) Gợi ý sinh viên giải thích hiện tượng 
ngữ pháp 
- Sự tương liên chức năng (S1 – S2, V1 – 
V2, aiấy, gìnấy, v.v) 
- Sự tương liên về ngữ nghĩa (hành 
động, đối tượng) 
3) Khái quát hóa thành quy tắc ngữ pháp 
 ai 
 gì ấy 
 C1 + V2 + nào,.. C2 + V2 + nấy 
 đâu đấy 
 bao nhiêu bấy nhiêu 
4) Luyện tập, thực hành sử dụng. 
b) Trình bày theo lối diễn dịch 
1) Giới thiệu quy tắc ngữ pháp: 
 ai 
 gì ấy 
C1 + V2 + nào , .. C2 + V2 + nấy 
 đâu đấy 
 bao nhiêu bấy nhiêu 
2) Lấy các ví dụ (từ bài học/bài hội 
thoại) minh họa: 
 - Anh gửi cho ai, tôi đưa cho người ấy 
 - Họ mua gì, tôi mua nấy 
 - Anh đi đâu, tôi đi đấy 
3) Giải thích quy tắc ngữ pháp: 
- Sự tương liên về chức năng (aiấy, 
gìnấy, đâuđấy) 
- Sự tương liên về ngữ nghĩa (hành động, 
đối tượng) 
4) Luyện tập, thực hành sử dụng 
 Giải thích nội dung ngữ pháp 
Dạy ngữ pháp, dù là dạy theo phương 
pháp giao tiếp, không thể tránh khỏi việc 
giải thích cho người học về các quy tắc cú 
pháp. Có hai cách giải thích: hoặc giảng viên 
gợi ý để sinh viên tự giải thích trên cơ sở 
quan sát các ví dụ đã cho, hoặc giảng viên 
trực tiếp giải thích cho sinh viên. Nhưng dù 
giải thích theo cách nào thì mục đích đạt đến 
vẫn là phải làm sáng tỏ hiện tượng ngữ pháp 
hữu quan về các mặt ngữ nghĩa/chức năng 
và cách dùng. Để đạt được mục đích này, 
người dạy cần có những kĩ năng giải thích 
nhất định. 
a) Giải thích về mặt ngữ nghĩa 
 - Phân tích chức năng ngữ nghĩa 
 Mẹ đi chợ (chợ: đích đến) 
 Mẹ đi thuyền (thuyền: phương tiện) 
Con ăn cơm (cơm: đối tượng) 
Con ăn đũa (đũa: phương tiện) 
- Phân tích khả năng tỉnh lược 
 ST + LT + DT 
 một con gà (+) 
một gà (- ) 
hai quyển sách (+) 
hai sách (-) 
- Phân tích cải biến, ví dụ: 
Tôi ăn cơm với vợ > Tôi ăn cơm và vợ (-) 
 Tôi ăn cơm với cá > Tôi ăn cơm và cá (+) 
Người Việt Nam ăn cơm > Người Việt 
Nam ăn bằng cơm (-) 
Người Việt Nam ăn đũa > Người Việt 
Nam ăn bằng đũa (+) 
- Phân tích ngữ cảnh 
Họ đi Hải Phòng bao giờ? 
- Họ đi Hải Phòng hôm qua. (+) 
- Hôm qua, họ đi Hải Phòng (-) 
Hôm qua, họ đi đâu? 
- Hôm qua, họ đi Hải Phòng (+) 
- Họ đi Hải Phòng hôm qua (-) 
- Thế đồng nghĩa/gần nghĩa: 
Sè 9 (203)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
21
 Xa quá, làm sao mà đi bộ được > Xa 
quá, không thể đi bộ được. 
 Đi chậm thôi kẻo ngã đấy > Đi chậm 
thôi, không thì sẽ ngã đấy 
 Quyển sách này mà hay > Quyển sách 
này không hay. 
- Phân tích tương phản 
 Năm nay tôi 50 tuổi > Năm nay tôi 
đã 50 tuổi 
Nó có 5 triệu đồng > Nó có những/mỗi 5 
triệu đồng 
- Phân tích đối chiếu (với ngữ đích) 
1 2 3 4 5 
Những bông hoa này // rất đẹp 
pl. flower this very beautiful 
3 2+1 6 4 5 
These flowers // are very beautiful 
b) Giải thích cách sử dụng 
- Theo sự khác biệt về phong cách: 
 ĐA PHONG CÁCH KHẨU NGỮ 
Chúng tôi/em Bọn tôi/em 
Không có Chẳng có 
Ông tên là gì? Ông tên gì ? 
2 bát phở tái 2 phở/tái 
Rất đẹp Đẹp quá 
Không đẹp Đẹp gì 
 v.v 
- Theo sự khác biệt nghi thức: 
TRANG TRỌNG KHÔNG TRANG TRỌNG 
 (Khoảng cách) (Thân mật) 
Anh – tôi Mình- cậu, 
 tao –mày 
Chào ông ạ Chào ông 
Thưa giám đốc Thưa sếp 
Xin ông cho biết quí danh ? Ông tên gì ? 
Kính thưa quí vị Thưa bà con, 
 cô bác 
Chúng tôi không nghĩ rằng... Chúng tôi 
 đâu có nghĩ rằng.. 
v.v 
- Theo sự khác biệt về phạm vi sử dụng: 
TOÀN DÂN ĐỊA PHƯƠNG 
Không có Hổng có 
Cái này giá bao nhiêu? Cái này giá nhiêu? 
Trời đất ơi! Chèn đét ơi. 
Cái gì lạ thế ? Cái gì kì dậy? 
v.v 
3.4 Luyện tập, thực hành 
Luyện tập, thực hành là cách giáo viên 
giúp học viên biến các kiến thức ngữ pháp 
thụ động thành các hoạt động giao tiếp chủ 
động. Các hoạt động này trải qua hai giai 
đoạn: Hoạt động luyện tập có kiểm soát và 
hoạt động thực hành hội thoại tự do. 
a) Luyện tập có kiểm soát: là hoạt động 
luyện tập theo các bài luyện, bài tập có sẵn 
trong giáo trình hoặc bài giảng. Đây là các 
dạng bài luyện, bài tập có giới hạn yêu cầu 
về ngữ pháp, giới hạn về chủ đề giao tiếp, 
được chuẩn bị trước và đôi khi có ví dụ mẫu. 
Yêu cầu của hoạt động luyện tập có kiểm 
soát này là người học phải sử dụng đúng 
hình thức và ý nghĩa của các quy tắc ngữ 
pháp. Hoạt động luyện tập có kiểm soát có 
thể được tiến hành theo các hình thức: 
- Đơn thoại: Điền từ, lựa chọn từ ngữ đa 
phương án, biến đổi câu, hoàn chỉnh câu, 
đặt câu theo mẫu, nói theo tình huống cho 
sẵn, v.v. 
- Đối thoại đơn giản (1 cặp thoại): chào – 
chào, hỏi – trả lời, khẳng định – bác bỏ, yêu 
cầu – từ chối, v.v. 
b) Thực hành hội thoại tự do: là hoạt 
động hội thoại tự do về một chủ đề nhất định 
hoặc các chủ đề bất kì, với yêu cầu phải sử 
dụng quy tắc ngữ pháp đã học phù hợp với 
chủ đề và tình huống giao tiếp. Hoạt động 
này cũng có thể diễn ra dưới 2 hình thức: 
- Đơn thoại: người nói tự do kể một câu 
chuyện hoặc thuyết trình về một chủ đề nào 
đó. 
- Đối thoại phức tạp (gồm nhiều cặp 
thoại, nhiều lượt lời khác nhau): người nói 
đối thoại hoặc tranh luận với một học viên 
khác dưới hình thức sắm vai theo tình huống 
(giáo viên – sinh viên, người bán – người 
mua, giám đốc – nhân viên, v.v.) 
3.5 Kiểm tra, đánh giá 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 9 (203)-2012 
22 
 Kiểm tra đánh giá là hoạt động cuối cùng 
trong việc dạy ngữ pháp cho học viên. Có 
hai hình thức kiểm tra, đánh giá: 
a) Kiểm tra, đánh giá trên lớp: thông qua 
các hoạt động giao tiếp giữa giáo viên và 
sinh viên, giữa sinh viên và sinh viên, hoặc 
các bài kiểm tra thường xuyên và kiểm tra 
định kì ở dạng viết hoặc nói, cá nhân hay 
làm việc theo nhóm. 
b) Kiểm tra đánh giá kết quả học tập ở 
nhà: Kết quả làm các bài tập có trong giáo 
trình mà học viên phải làm ở nhà hoặc các 
bài tập mở rộng ở nhà. 
Để kiểm tra đánh giá tốt, giáo viên cần 
phải có hệ thống bài tập ở lớp và ở nhà 
phong phú, có tính mục đích rõ và có tính 
phân loại cao. Ngoài ra giáo viên cũng cần 
nắm vững các loại lỗi mà học viên thường 
gặp để dễ dàng nhân diện và giúp học viên 
chỉnh sửa trong quá trình rèn luyện, thực 
hành hoặc kiểm tra đánh giá. Nội dung về 
các dạng bài luyện, bài tập, các loại lỗi ngữ 
pháp mà người học tiếng Việt như một ngoại 
ngữ thường mắc phải, chúng tôi sẽ đề cập 
đến trong một dịp khác. 
4. Kết luận 
Ngữ pháp có một vai trò quan trọng trong 
việc dạy và học tiếng Việt như một ngoại 
ngữ. Theo phương pháp giao tiếp, mục đích 
của dạy ngữ pháp tiếng Việt cho người nước 
ngoài là giúp người học phát triển năng lực 
giao tiếp bằng tiếng Việt, vì vậy cần kết hợp 
dạy cả kiến thức lẫn kĩ năng, cả theo lỗi diễn 
dịch lẫn theo lối quy nạp. Các nội dung ngữ 
pháp được lựa chọn giảng dạy phải phù hợp 
với chủ đề và các tính huống giao tiếp trong 
bài học, và phải được thiết kế lồng ghép vào 
các bài hội thoại, bài đọc, bài luyện, và 
thông qua các hoạt động giao tiếp . Để việc 
dạy ngữ pháp đạt được mục đích là phát 
triển năng lực giao tiếp, giảng viên cần nắm 
vững các kiến thức ngữ pháp, làm chủ kĩ 
năng trình bày và giải thích các quy tắc ngữ 
pháp, hướng dẫn học viên sử dụng đúng các 
quy tắc đó trong các bài luyện có kiểm soát 
và thực hành hội thoại tự do, và có các hình 
thức kiểm tra, đánh giá, chữa lỗi phù hợp. 
Tài liệu tham khảo 
1. Bachman, L. (1990), Fundamental 
considerations in language testing. Oxford: 
Oxford University Press. 
2. Bussmann, Hadumod. (1996), 
Routledge dictionary of language and 
linguistics. New York : Routledge. 
3. Canale, M. and Swain, M. (1980), 
Theoretical bases of communicative 
approaches to second language teaching 
and testing. Applied Linguistics 1, 1-47. 
4. Herron, C. & Tomasello, M. (1988), 
Learning Grammatical Structures in a 
Foreign Language: Modelling versus 
Feedback. French Review 61(6). 
5. Krashen, S.D. (1992), Principles and 
practices in second language acquysition. 
New York: Pergamon. 
6. Nguyễn Hồng Cổn (2008), Biến thể cú 
pháp và vấn đề dạy biến thể cú pháp cho 
người học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ 2. 
T/c Ngôn ngữ, số 6. 
7. Nguyễn Đức Dân (1995), Các phương 
pháp giảng dạy ngoại ngữ. T/c Ngôn ngữ, số 
1. 
8. Phan Văn Giưỡng (1995), Ứng dụng 
quá trình giao tiếp vào giảng dạy tiếng Việt. 
Trong: Tiếng Việt như một ngoại ngữ, Nxb 
Giáo dục 1995. 
9. Vũ Thị Thanh Hương (2006), Từ khái 
niệm “Năng lực giao tiếp” đến vấn đề dạy 
và học tiếng Việt trong nhà trường phổ 
thông hiện nay. T/c Ngôn ngữ , số 4. 
10. Vũ Thị Thanh Hương (2007), Dạy 
ngữ pháp theo cách tiếp cận giao tiếp. T/c 
Ngôn ngữ, số 5. 
---------------------------- 
* Báo cáo đã được trình bày tại Hội thảo 
quốc tế “Ngôn ngữ và văn hoá các nước Đông 
Á” tổ chức tại Đại học Cao Hùng, Đài Loan 
(12/5/2012), có sửa chữa. 
 (Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 01-08-2012) 

File đính kèm:

  • pdfday_ngu_phap_tieng_viet_nhu_mot_ngoai_ngu_theo_phuong_phap_g.pdf