Đổi mới để khoa học và công nghệ là then chốt trong sự phát triển của đất nước

Tóm tắt: Bài này phân tích so sánh về hai vấn đề. Một là về sự thiếu vắng của thành phần doanh

nghiệp trong cơ cấu khoa học và công nghệ của Việt Nam. Hai là về đổi mới nền khoa học và công

nghệ Việt Nam, như tổ chức các chương trình phục vụ các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, thúc

đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ, xây dựng và thực hiện các chương trình

trọng điểm, hay khuyến khích và tạo cơ chế để nhiều nhà khoa học giỏi tham gia các chương trình này.

pdf 14 trang yennguyen 5460
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới để khoa học và công nghệ là then chốt trong sự phát triển của đất nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới để khoa học và công nghệ là then chốt trong sự phát triển của đất nước

Đổi mới để khoa học và công nghệ là then chốt trong sự phát triển của đất nước
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 
 165 
Đổi mới để khoa học và công nghệ 
là then chốt trong sự phát triển của đất nước 
Hồ Tú Bảo* 
Viện Khoa học và công nghệ Tiên tiến Nhật Bản, Nhật Bản 
Nhận ngày 06 tháng 10 năm 2016 
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 10 năm 2016; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 11 năm 2016 
Tóm tắt: Bài này phân tích so sánh về hai vấn đề. Một là về sự thiếu vắng của thành phần doanh 
nghiệp trong cơ cấu khoa học và công nghệ của Việt Nam. Hai là về đổi mới nền khoa học và công 
nghệ Việt Nam, như tổ chức các chương trình phục vụ các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, thúc 
đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ, xây dựng và thực hiện các chương trình 
trọng điểm, hay khuyến khích và tạo cơ chế để nhiều nhà khoa học giỏi tham gia các chương trình này. 
Từ khoá: Thành phần của khoa học và công nghệ, loại hình nghiên cứu, nhu cầu xã hội, tái cơ cấu 
nền khoa học và công nghệ. 
1. Đặt vấn đề 
Then chốt là “cái quan trọng nhất, có tác 
dụng quyết định đối với toàn bộ” [1]. Mặc dù 
khoa học và công nghệ luôn được xác định giữ 
vai trò then chốt trong công cuộc đổi mới của 
đất nước, trên thực tế khoa học và công nghệ 
của Việt Nam chưa có được vai trò này, “khoa 
học, công nghệ chưa thực sự gắn kết và trở 
thành động lực phát triển kinh tế - xã hội” [2]. 
Vậy lý do là sao? Có nguyên nhân nào từ những 
người lãnh đạo cao nhất và những người phụ 
trách khoa học và công nghệ? Vì bản thân khoa 
học và công nghệ chưa quan trọng đến mức có 
thể là then chốt hay xã hội Việt Nam mấy chục 
năm qua chưa thật sự cần đến khoa học và công 
nghệ để phát triển? Vì lực lượng làm khoa học 
và công nghệ của ta chưa đủ năng lực để làm 
cho khoa học và công nghệ Việt Nam có đóng 
góp xứng đáng? Vì chính sách, cơ chế và cơ 
cấu chưa hợp lý đã hạn chế sự phát triển của 
khoa học và công nghệ? Vì việc tổ chức, quản 
lý khoa học và công nghệ của ta chưa tốt? 
_______ 
Email: bao@jaist.ac.jp 
Lực lượng khoa học Việt Nam bắt đầu hình 
thành dưới thời Pháp thuộc ở một nước nông 
nghiệp lạc hậu. Những trí thức đầu tiên hầu hết 
chỉ được đào tạo về khoa học cơ bản như Toán, 
Luật, Y... và hầu như không có người được đào 
tạo liên quan tới kỹ nghệ, máy móc, và công 
nghiệp. Rất hiếm người như kỹ sư Trần Đại 
Nghĩa bí mật tìm hiểu về vũ khí để về nước làm 
súng đạn đánh Pháp. Từ đó đến nay, khoa học 
cơ bản luôn được đề cao ở Việt Nam [3, 4], và 
đây cũng là lĩnh vực chúng ta có nhiều thành 
tựu quốc tế nhất. Nhưng cũng có thể thấy Việt 
Nam đã không có yếu tố kỹ nghệ như Nhật Bản và 
Hàn Quốc vào đầu thế kỷ trước [5-10], và dường 
như điều này liên quan đến sự phát triển khoa 
học và công nghệ của ta hiện nay? 
Số người được đào tạo có bằng cấp cử 
nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ở Việt Nam khá lớn dù 
chưa đủ. Tuy nhiên, một phần lớn của lực lượng 
này không tham gia hoặc tham gia chưa hiệu 
quả vào các hoạt động khoa học và công nghệ. 
Mỗi khi có vụ việc gì, như biển miền Trung bị 
Formosa bức tử hay đồng bằng sông Cửu Long 
đang dần thiếu nước, chúng ta có tìm ra người 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 
166 
đủ kiến thức khoa học và kinh nghiệm để góp 
sức với nhà nước đối phó lại? 
Nhiều người làm khoa học ở Việt Nam gần 
đây nhấn mạnh vai trò của khoa học, như khẩn 
thiết cho rằng khoa học và công nghệ phải tác 
động mạnh mẽ hơn tới năng lực cạnh tranh 
quốc gia [11], chỉ ra các nghiên cứu cần gắn 
hơn với cuộc sống và công nghệ [12-17], cần 
điều chỉnh mục tiêu chiến lược khoa học và 
công nghệ sát thực tế hơn [18], hay khoa học và 
công nghệ cần góp phần hình thành quyết sách 
[19]. Việc quản lý khoa học và công nghệ được 
đề cập, với nhiều đề nghị cải tổ [20-23]. Việc 
xây dựng và sử dụng lực lượng khoa học cũng 
luôn được thảo luận như một chủ đề quan trọng 
[24-30]. Và gần đây việc tái cơ cấu nền khoa 
học và công nghệ đang là vấn đề thời sự, nhận 
được quan tâm rộng rãi [31-36]. 
Đã gần ba phần tư thế kỷ khi Việt Nam trở 
thành một quốc gia độc lập và đã hơn 40 năm từ 
khi Việt Nam thống nhất, chúng ta vẫn chưa có 
được một nền khoa học và công nghệ như mong 
muốn, như cần phải có, khi khoa học và công 
nghệ của một số nước quanh ta và có hoàn cảnh 
xuất phát nhiều ít giống ta, đã tiến nhanh hoặc 
phát triển rực rỡ [8, 37-40]. 
Khi tìm cách để tái cơ cấu nền khoa học và 
công nghệ, rất cần đánh giá xác đáng hiện trạng 
của ta và so sánh ta với các quốc gia khác về lịch 
sử, chính sách phát triển, và tình hình hiện tại của 
họ. Dựa trên trải nghiệm bản thân, quan sát và tìm 
hiểu một số bài học từ Nhật Bản [5-8, 41-43], 
Trung Quốc [39, 40, 41, 45], Hàn Quốc [9, 10, 46, 
47], Malaysia [48], Thái Lan [49, 50], Israel 
[51], Đức [52], bài báo này thử phân tích nguyên 
nhân và góp một số ý kiến để thảo luận về phát 
triển về khoa học và công nghệ của Việt Nam. 
2. Vì sao khoa học và công nghệ của Việt 
Nam chưa có vai trò then chốt trong sự phát 
triển của đất nước? 
2.1. Thiếu thành phần doanh nghiệp trong phát 
triển khoa học và công nghệ 
Các nước có khoa học và công nghệ phát 
triển đều có kinh tế phát triển và ngược lại, trừ 
một số nước giàu do có và bán tài nguyên như 
các quốc gia Trung Đông. Có thể chia các nước 
có nền khoa học và công nghệ mạnh thành hai 
nhóm, nhóm một gồm một số nước đã trải qua 
cuộc cách mạng công nghiệp và phát triển tư 
bản từ hai thế kỷ trước ở châu Âu và Mỹ, và 
nhóm hai là một vài quốc gia châu Á như Nhật 
Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đã vươn lên thành 
các nước mạnh về khoa học và công nghệ từ 
chế độ phong kiến với nền kinh tế nông 
nghiệp1. 
Các nền khoa học và công nghệ mạnh đều 
có cấu trúc và tương quan xác định giữa ba 
thành phần: đại học-viện nghiên cứu-doanh 
nghiệp, và các hoạt động nghiên cứu khoa học 
và công nghệ được chia và đánh giá theo ba 
loại hình: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng 
dụng và nghiên cứu phát triển2. Điều quan 
trọng là nghiên cứu của họ có động lực từ nhu 
cầu phát triển khoa học và tiến bộ xã hội 
(không phải nhu cầu khoa bảng), và các kết quả 
nghiên cứu quay lại đóng góp vào thúc đẩy kinh 
_______ 
1
Nhiều cuốn sách khoa học của châu Âu đã được dịch và 
tìm hiểu ở nước Nhật từ thế kỷ 17 và do đó họ đã có thể 
thay đổi nhanh vào thời Minh Trị (Hình 4). Trung quốc 
đã có những thành tựu khoa học xuất sắc từ trước thời tư 
bản phát triển, và Hàn Quốc đã có những chính sách rất 
mạnh mẽ để phát triển khoa học và công nghệ. 
2 Đại thể, nghiên cứu cơ bản nhằm tìm các tri thức khoa 
học mới nhưng không nhất thiết liên quan tới các vấn đề 
ứng dụng trước mắt; nghiên cứu ứng dụng nhằm tìm các 
tri thức mới cho lời giải của các vấn đề thực tế cụ thể; và 
nghiên cứu phát triển nhằm tìm ra các tri thức mới để tạo 
ra các sản phẩm cụ thể. Mỗi loại hình nghiên cứu này có 
sản phẩm riêng của mình (tuy cá nhân một nhà khoa học 
có thể không thích sự phân biệt này, ở góc độ quản lý của 
nhà nước hay của các tổ chức khoa học, sự phân biệt này 
là cần thiết). 
Hình 1. Các thành phần “liên tục” của R&D. 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 167 
tế-xã hội. Cũng cần nói thêm khái niệm phổ 
biến R&D (nghiên cứu và phát triển) nhấn 
mạnh về sự liên tục thực hiện ba loại hình, từ 
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng đến 
nghiên cứu phát triển ở các tổ chức (Hình 1). 
Bảng 1 giới thiệu tỷ lệ phân bổ kinh phí của 
các thành phần hoạt động khoa học và công 
nghệ theo các loại hình nghiên cứu ở Nhật trong 
năm tài chính 2005 [42]. Các con số ở bảng này 
ít nhiều thay đổi hàng năm, nhưng có thể thấy 
hai điều. Một là tỷ lệ kinh phí chung cho ba loại 
hình này tương ứng là khoảng 14%, 23% và 
63%. Hai là mỗi thành phần của khoa học và 
công nghệ có mục tiêu và sản phẩm đặc trưng 
của mình. Thành phần đại học chủ yếu làm 
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, có 
sản phẩm chính là các ấn phẩm khoa học. Các 
viện nghiên cứu làm khá đều cả ba loại hình 
nhưng tập trung hơn vào nghiên cứu phát triển. 
Các doanh nghiệp chủ yếu làm nghiên cứu phát 
triển và sản phẩm của họ là các tri thức được 
giữ kín, ẩn chứa trong sản phẩm thị trường 
của mình. 
Bảng 1. Bốn dòng đầu giới thiệu phân bổ kinh phí 
(%) của từng thành phần đại học, viện nghiên cứu và 
doanh nghiệp cho các loại hình nghiên cứu, và dòng 
cuối là tỷ lệ kinh phí (%) chung của nước Nhật cho 
ba loại hình nghiên cứu trong năm tài chính 2005. 
 Nghiên 
cứu cơ 
bản 
 Nghiên 
cứu ứng 
dụng 
Nghiên 
cứu phát 
triển 
Đại học 55, 1 35, 8 9,1 
Viện phi 
lợi nhuận 
20, 3 35, 8 43, 9 
Viện 
nghiên 
cứu công 
24, 4 29, 6 46, 0 
Doanh 
nghiệp 
6, 3 19, 6 74, 1 
Tỷ lệ 
chung 
14, 3 22, 8 62, 9 
Kinh phí của ba loại hình nghiên cứu ở các 
nước có nền khoa học và công nghệ phát triển 
có thể khác nhau, nhưng tỷ lệ kinh phí giữa ba 
thành phần luôn xác định, như một thước đo 
của chiến lược khoa học và công nghệ. Hình 2 
chỉ ra tỷ lệ kinh phí của ba loại hình nghiên cứu 
này ở Mỹ trong năm 2014, với nghiên cứu cơ 
bản chiếm 19%, nghiên cứu ứng dụng 19,5%, 
và nghiên cứu phát triển 61,5% [53]. Chúng ta 
đã nghĩ đến một tỷ lệ như vậy cho Việt Nam? 
Và nếu có sẽ là bao nhiêu? 
Có sự khác biệt đáng kể về các thành phần 
của khoa học và công nghệ giữa các nước phát 
triển và các nước đang phát triển. Có thể thấy 
đặc điểm chủ yếu của khoa học và công nghệ ở 
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam 
là thành phần doanh nghiệp còn yếu, nhu cầu 
khoa học và công nghệ của doanh nghiệp yếu 
và liên kết của doanh nghiệp với hai thành 
phần kia của khoa học và công nghệ cũng yếu. 
Theo nghiên cứu trong [54], số liệu điều tra 
thống kê R&D của doanh nghiệp Việt Nam 
năm 2012 cho thấy, tổng kinh phí đầu tư cho 
khoa học và công nghệ (gồm cả đầu tư cho 
R&D và đổi mới công nghệ) của 1.090 doanh 
nghiệp có đầu tư cho khoa học và công nghệ chỉ 
đạt 5.439 tỷ đồng. Số tiền này chỉ gần bằng số 
tiền ban đầu làm 10 km đường cao tốc Bến 
Lức-Long Thành ở giai đoạn 1 do Tổng Công 
ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam 
(VEC) làm chủ đầu tư (theo báo chí 57,1 km 
đường này có tổng vốn đầu tư ban đầu là 
31.320 tỉ đồng). Cũng theo [54], “nghiên cứu 
Hình 2. Kinh phí của ba loại hình nghiên cứu ở Mỹ 
năm 2014. 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 
168 
của Viện quản lý kinh tế Trung ương năm 2013 
cho thấy trong tổng số mẫu 8.010 doanh 
nghiệp, với đa số (trên 90%) doanh nghiệp 
không thực hiện cải tiến công nghệ đang có 
hoặc tiến hành R&D, có duy nhất 1% doanh 
nghiệp thực hiện cải tiến và tiến hành R&D”. 
Với quan tâm và đầu tư như vậy, đặc biệt các 
doanh nghiệp công đang nắm giữ kinh phí rất 
lớn của nhà nước, khoa học và công nghệ của 
Việt Nam hầu như thiếu vắng thành phần doanh 
nghiệp, chỉ có thành phần đại học và viện 
nghiên cứu công, và có thể chăng gọi đây là 
một nền khoa học và công nghệ hàn lâm? 
Nền khoa học và công nghệ hàn lâm của ta 
cũng không mạnh. Bảng 2 trích ra số bài báo 
ISI của một số nước Đông Nam Á trong ba năm 
2009-2011 theo thống kê của CRDS trong Tổ 
chức Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (JST) 
[37]. Singapore với số dân ít ỏi đã tạo ra ấn 
tượng lớn với thế giới. Tuy số bài báo của 
Singapore (25,763) chỉ bằng 2,7% số bài của 
Mỹ (926,235), 6,2% của Trung Quốc (415,371) 
và 11,3% của Nhật Bản (228,446) nên ảnh 
hưởng quốc tế của Singapore chưa lớn, con số 
này cũng gấp 7,4 lần số bài báo của Việt Nam. 
Từ những con số này và nhiều nguồn thống kê 
khác đã được công bố, ta có thể nghĩ rằng, 
trong bản đồ chung của khoa học và công nghệ 
thế giới, nền khoa học và công nghệ hàn lâm 
của Việt Nam vẫn còn ở mức yếu. 
 Bảng 2. So sánh số bài báo ISI của một số nước Đông Nam Á trong 3 năm 2009-2011 
Nước Singapore Malaysia Thailan Vietnam Indonesia Philippines 
Số bài báo 25,763 16,971 16,054 3,486 2,921 2,318 
Rất có thể do hoàn cảnh lịch sử, người Việt 
có tinh thần quật cường, bất khuất trong chống 
ngoại xâm, thông minh sáng tạo trong ứng phó, 
nhưng đa phần dễ tự bằng lòng hoặc thiếu tinh 
thần phản biện... là yếu tố dẫn đến không đủ 
lòng tự tôn dân tộc để tìm hiểu khoa học phát 
triển đất nước. Chúng ta cũng tiếp xúc và tiếp 
thu khoa học phương Tây muộn và chậm, sau 
nhiều nước châu Á. Hình 3 chỉ cho thấy một số 
sách khoa học ở châu Âu thế kỷ 17 đã được 
sớm dịch và in ở Nhật. 
Trong những năm chiến tranh liên miên ở 
Việt Nam của thế kỷ trước, các vũ khí hiện đại 
nhất đã được dùng ở Việt Nam nhưng chúng ta 
chủ yếu chỉ là người dùng. Viện trợ kinh tế từ 
bên ngoài suốt nhiều thập kỷ phải chăng đã làm 
dân ta giảm sút tinh thần tinh thần tự lực và 
sáng tạo để làm ra sản phẩm của mình? 
 Hình 3. Sách về giải phẫu học in năm 1741 ở châu Âu được dịch ở Nhật sau khoảng nửa thế kỷ. 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 169 
Do được bao cấp và phân cấp trong thời 
gian dài, các doanh nghiệp Việt Nam ở mọi cấp 
dường như không có nhu cầu cấp thiết phải cải 
tiến sản xuất và quản lý. Với các doanh nghiệp 
vừa và nhỏ, do không thể có cơ hội cạnh tranh 
công bằng với khối doanh nghiệp lớn và doanh 
nghiệp nhà nước nên việc tối ưu quản lý, tìm 
hiểu và ứng dụng công nghệ mới để giảm giá 
thành không mang lại lợi ích thực sự. Với các 
doanh nghiệp lớn, đặc biệt là doanh nghiệp nhà 
nước, do dễ dàng đạt được các hợp đồng cấp 
quốc gia và không có nhu cầu thực sự trong 
việc giành thị trường khu vực hoặc quốc tế, 
việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công 
nghệ mới cũng không thực sự cấp thiết. Sự thất 
bại gần đây về phát triển các ngành công nghiệp 
Việt Nam cũng có nguyên nhân chưa đặt đúng 
vai trò của khoa học và công nghệ trong tư vấn, 
trong thẩm định các dự án ngàn tỷ, trong việc 
nghe và tôn trọng ý kiến phản biện của giới 
khoa học và công nghệ. 
Đây là những điều cần được phân tích sâu 
hơn, thấy điểm mạnh điểm yếu của người Việt 
trong việc đem khoa học và công nghệ vào 
công cuộc cách tân đất nước, thay vì những 
nhận định chung lâu nay ta vẫn thường nghe 
như người Việt thông minh không kém ai, hoặc 
báo chí ca ngợi hơn mức cần thiết các thành 
tích thi quốc tế của học sinh Việt Nam hay của 
một số cá nhân người Việt xuất sắc. 
2.2. Khoa học và công nghệ Việt Nam chủ yếu ở 
trường và viện 
Do doanh nghiệp ít quan tâm đến khoa học 
và công nghệ, lực lượng làm khoa học và công 
nghệ của ta hầu hết ở các trường và viện, ít có 
cơ hội và động lực đem kiến thức vào giải 
quyết các vấn đề của thực tiễn, vào sản xuất. Đa 
số người đi học ở nước ngoài (trong đó một tỷ 
lệ đáng kể không được học đúng cái mình 
muốn, cái nhà nước cần và thiếu) chưa được 
trải nghiệm kiến thức trong thực tế ở các nước 
phát triển trước khi trở về. Một số lớn cán bộ 
khoa học và công nghệ có xu hướng tiếp tục chỉ 
theo đuổi cái mình đã học và biết, ít dám thay 
đổi và tự học để làm việc khi kiến thức luôn 
thay đổi rất nhanh. Hiện tượng này đã làm khoa 
học và công nghệ của ta được ví với hình ảnh 
của quả mít với rất nhiều hướng nhỏ, không có 
chính phụ. Một số lượng lớn cán bộ khoa học 
và công nghệ đã được đào tạo nhưng không có 
cơ hội phát triển và dùng khoa học và côn ... a trên đánh giá này, Bộ 
tài chính sẽ đưa ra quyết định phân bổ kinh phí 
cho năm sau. Tiếp theo, các Bộ cũng phân kinh 
phí cho các bộ phận của mình dựa trên đánh giá 
các đề cương khoa học và công nghệ của các 
đơn vị trong Bộ. Nói khác, kinh phí khoa học và 
công nghệ được phân theo đề cương hoạt động 
và chỉ khi đề cương được đánh giá tốt. Hoạt 
động khoa học và công nghệ của các địa 
phương sẽ do MEXT quản lý và kinh phí cũng 
được phân bổ theo cùng một cách. 
Có thể chăng tham khảo cách này để làm tốt 
hơn việc phân bổ kinh phí của ta? 
3.6. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng của đại 
học và viện nghiên cứu 
Như nêu ở trên, ba loại quan hệ giữa khoa 
học và công nghệ và doanh nghiệp là: (i) Doanh 
nghiệp sử dụng thành quả khoa học và công 
nghệ vào hoạt động, (ii) Doanh nghiệp tiến 
hành R&D, (iii) Doanh nghiệp tham gia xác 
định các vấn đề nghiên cứu cần tiến hành và 
hợp tác với các viện và trường để thực hiện. 
Theo chúng tôi, các trường và viện nên tập 
trung vào điểm (i) và (iii). Do đa số hoạt động 
Hình 5. Phân kinh phí khoa học và công nghệ ở Nhật năm 2013. 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 175 
sản xuất của doanh nghiệp lớn của ta đều dựa 
vào thiết bị và công nghệ nhập ngoại, việc đầu 
tiên rất quan trọng và khó là mua đúng được 
thiết bị và công nghệ. Hiểu, làm chủ và dùng tốt 
được công nghệ tiên tiến cần đến kiến thức, nên 
trường và viện có thể đóng vai trò giúp doanh 
nghiệp đưa được thành quả khoa học và công 
nghệ vào hoạt động. Và chính các đề tài liên kết 
doanh nghiệp-đại học có thể dẫn đến lời giải 
hiệu quả và nếu các đại học chủ động gắn hơn 
với sản xuất. Việc đại học và các viện nghiên 
cứu nâng cao năng lực nghiên cứu là nền tảng 
để tăng liên kết với doanh nghiệp. 
Một khía cạnh khác là “chuyển giao công 
nghệ”, mà thực chất là mua công nghệ và phải 
học để làm chủ được. Với các công nghệ cao 
dựa trên các tri thức hiện đại, nếu có liên kết đại 
học có thể giúp doanh nghiệp trang bị được một 
số kiến thức, chọn được công nghệ phù hợp, và 
giảm thiểu việc mua sai [24]. Đặc biệt, các viện 
nghiên cứu cần chú trọng hơn đến các nghiên 
cứu ứng dụng và phát triển để tạo ra được các 
sản phẩm, các kết quả được thật dùng. 
3.7. Thúc đẩy nghiên cứu cơ bản gắn với nhu 
cầu phát triển 
Ở ta vẫn hay nghe nói, không có nghiên cứu 
cơ bản thì không có khoa học và công nghệ. 
Vai trò của nghiên cứu cơ bản là hoàn toàn rõ 
ràng. Nghiên cứu cơ bản trước hết đem lại hiểu 
biết và nỗ lực sáng tạo cho người làm nghiên 
cứu và dù kết quả đạt được ở mức nào nếu 
người dạy học làm nghiên cứu thì hiểu biết và 
tính sáng tạo đều ảnh hưởng tích cực đến người 
học. Những kết quả đăng ở các tạp chí tốt hay 
các hội nghị hàng đầu có giá trị đóng góp vào 
kho tàng tri thức nhân loại. 
Tuy nhiên, những kết quả chất lượng cao 
luôn đòi hỏi năng lực, môi trường nghiên cứu 
đủ tốt và điều kiện sống tối thiểu đủ để tập 
trung cho nghiên cứu. Các đại học, vốn làm 
nghiên cứu cơ bản là chính, cần được cấp kinh 
phí nghiên cứu nhiều hơn để đẩy mạnh hoạt 
động nghiên cứu, để nhiều giáo viên trong đó 
rất nhiều người trẻ và nhiệt huyết có thể tập 
trung vào nghiên cứu. Đầu tư này chính là sự 
tiết kiệm đúng đắn vì tránh được lãng phí 
những người đã được đào tạo công phu. 
Những câu hỏi cần nghĩ và trả lời là Việt 
Nam cần có nghiên cứu cơ bản ở mức nào, tập 
trung vào những lĩnh vực nào? Khoảng bao 
nhiêu phần trăm các nhà khoa học nên chú 
trọng vào nghiên cứu cơ bản, và nghiên cứu cơ 
bản góp sức vào sự phát triển đất nước thế nào? 
Hai ý kiến của chúng tôi như sau. 
Có thể nhìn vào lịch sử và chính sách khoa 
học và công nghệ của Nhật Bản và Hàn Quốc ở 
những giai đoạn đầu [5, 6, 9, 43, 46]. Các nước 
này đều có chính sách phát triển nghiên cứu cơ 
bản với hỗ trợ của nhà nước, nhưng nhấn mạnh 
hơn đến việc khoa học đóng góp cho phát triển 
công nghiệp. Nghiên cứu cơ bản cũng có thể 
chia thành hai nhóm, các nghiên cứu thuần tuý 
vì hiểu biết khoa học không liên quan gì đến 
ứng dụng và các nghiên cứu làm nền tảng cho 
các nghiên cứu ứng dụng dù không gắn với bất 
kỳ ứng dụng cụ thể nào. Chính loại nghiên cứu 
sau chúng ta cần quan tâm làm, nhất là tìm ra 
những tri thức nền tảng trong mọi lĩnh vực phát 
triển của Việt Nam. Giá trị của nghiên cứu cơ 
bản phải chăng không chỉ ở các ấn phẩm, mà 
còn ở sự chia sẻ, hỗ trợ, đem các hiểu biết nền 
tảng vào các nghiên cứu ứng dụng và phát triển, 
các vấn đề kinh tế-xã hội? 
Cũng như nhiều tập đoàn công nghiệp lớn 
trên thế giới chỉ tiến hành các nghiên cứu cơ 
bản cần cho sản phẩm của họ và khi họ không 
tìm thấy các nghiên cứu này trong “kho tàng tri 
thức nhân loại”, Việt Nam nên tập trung vào 
các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản cần cho sự phát 
triển của mình và không ai khác làm các nghiên 
cứu này. 
Trong [59], World Bank và Unesco khuyến 
cáo, “Khả năng làm nghiên cứu khoa học rất 
hạn chế ở nhiều nước đang phát triển. Trong khi 
không phải mọi quốc gia đều cần tiến hành 
nghiên cứu cơ bản ở mọi lĩnh vực, mỗi đất nước 
cần xem xét kiểu nghiên cứu khoa học và công 
nghệ nào có thể trực tiếp đóng góp vào sự phát 
triển của mình. Xét về chi phí và các khó khăn, 
có lẽ câu hỏi cần đặt ra là: đâu là mức tối thiểu 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 
176 
về năng lực khoa học và công nghệ cần có để 
đạt các mục tiêu quốc gia?”. 
3.8. Xây dựng lực lượng khoa học và công nghệ 
với phân cấp ưu tiên 
Một điều chúng ta cần suy nghĩ nhiều là 
mấy chục năm qua rất nhiều cán bộ khoa học và 
công nghệ của Việt Nam đã được đào tạo, nhiều 
người giỏi và đầy nhiệt huyết khoa học, nhưng 
chỉ một phần nhỏ trong họ được làm việc như 
mong muốn và có kết quả. Có nhiều nguyên 
nhân, nhưng nguyên nhân chính ai cũng thấy là 
các nhà khoa học của ta thiếu một môi trường 
làm việc đủ tốt. Cụ thể, một môi trường như 
vậy gồm ba yếu tố liên quan nhau: một là điều 
kiện nghiên cứu, hai là lương và tài trợ đủ để 
tập trung cho nghiên cứu, và ba là những chính 
sách tạo ra động lực cho người nghiên cứu. 
Trong điều kiện thực tế của ta với kinh phí 
hạn hẹp, lực lượng khoa học hoạt động chưa 
đồng đều... chúng tôi tán thành các ý kiến trong 
[26-30] và đề nghị: 
- Tập trung đầu tư xây dựng một số đại học 
hàng đầu của đất nước hướng đến nghiên cứu, 
với môi trường nghiên cứu tốt và giảng viên 
được lựa chọn kỹ. 
- Phân loại các nhóm nghiên cứu ở đại học 
và viện nghiên cứu, xác định nhóm nghiên cứu 
mạnh, giao nhiệm vụ và hỗ trợ môi trường làm 
việc tốt. 
- Cải tiến và tiếp tục xây dựng một số 
phòng thí nghiệm trọng điểm có liên kết một số 
đơn vị, để tạo các tập thể nghiên cứu mạnh, đủ 
trình độ để sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ 
quan trọng của nhà nước. 
- Đầu tư cho những người làm nghiên cứu 
giỏi đang làm việc trong nước thay vì chỉ đầu tư 
gửi người ra nước ngoài đào tạo. 
4. Kết luận 
Bài này nêu một số ý kiến về khoa học và 
công nghệ Việt Nam qua phân tích so sánh với 
lịch sử, chính sách, cách làm và bài học từ một 
số nước khác. Chúng tôi mong muốn các ý kiến 
sẽ được tranh luận và phản biện. Cùng đánh giá 
và trao đổi chúng ta sẽ nhìn đúng hơn về tình 
hình và có thể tìm ra đường đi thích hợp để xây 
dựng nền khoa học và công nghệ nước nhà. 
Lời cảm ơn 
Tác giả chân thành cảm ơn các đồng nghiệp 
Nguyễn Tiến Tài, Đàm Hiếu Chí, Tạ Phương 
Hoà, Nguyễn Ngọc Bình, Nguyễn Việt Cường, 
Cao Hoàng Trụ, Ryan Duy Lương đã đọc, trao 
đổi, và đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho bài 
viết này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung 
tâm từ điển học, 1998. 
[2] “Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương 
Đảng khóa XI tại đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ XII của Đảng”, 3.2016. 
[3] Pierre Darriulat, “Tầm quan trọng của nghiên cứu 
cơ bản ở các nước đang phát triển”, Tia Sáng, 
8.2016. 
[4] Đào Tiến Khoa, “Suy nghĩ về nghiên cứu khoa 
học cơ bản ở Việt Nam”, Tia Sáng, 4.2016. 
[5] Fukasaku Y., Ishizaka S., “Science and 
technology policy in Japan”, Science and 
technology policy, Vol. 2. 
[6] Harayama Yuko, “Japanese Technology Policy: 
History and a new perspective”, REITI, 
df, 2001. 
[7] Nocholas T., “The origins of Japanese 
technological modernization”, Explorations in 
Economic History. 
[8] “Technological development in Japan”, UNESCO 
1971. 
[9] The Korean Federation of Science and 
Technology Societies. 
[10] “Korea long-term plan for S&T development: 
Vision 2050”. 
ments/APCITY/UNPAN008040.pdf 
[11] Nguyễn Hoàng, “Khoa học và công nghệ phải tác 
động mạnh mẽ hơn tới năng lực cạnh tranh quốc 
gia”, Tia Sáng, 4.2016. 
[12] Phạm Đức Chính, “Cơ học kỹ thuật: Chưa gắn với 
thực nghiệm và công nghệ”, Tia Sáng, 1.2015. 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 177 
[13] Thanh Xuân, “Gắn kết với đời sống để tạo sinh 
lực mới cho ngành Toán Việt Nam”, Tia Sáng, 
6.2014. 
[14] Hồ Tú Bảo, “Bệnh án điện tử: Nguồn dữ liệu lớn 
vô giá của y học”, Tia Sáng, 5.2015. 
[15] Hồ Tú Bảo, “Dữ liệu lớn: Cơ hội và thách thức 
lớn”, Tia Sáng, 1.2013. 
[16] Hồ Tú Bảo, Nguyễn Mạnh Đức, Đàm Hiếu Chí, 
Nguyễn Minh Thọ, “Phát triển khoa học và kỹ 
thuật tính toán ở Việt Nam: Bài học và ý kiến”, 
Tia Sáng, 11.2012. 
[17] Hồ Tú Bảo, Kinh tế tri thức ở Việt Nam?, Tia 
Sáng, 7.2010. 
[18] “Điều chỉnh mục tiêu Chiến lược Khoa học và 
công nghệ sát thực tế hơn”, Tia Sáng, 1.2016. 
[19] Phạm Trần Lê, “Nâng cao vai trò của khoa học và 
công nghệ trong việc hình thành các quyết sách”, 
Tia Sáng, 2.2015. 
[20] Pierre Darriulat, “Hướng tới một nền văn hóa 
khoa học mạnh”, Tia Sáng, 12.2015. 
[21] Nguyễn Văn Tân, “Kiểm toán Khoa học và công 
nghệ: Đánh giá hiệu quả đầu tư còn hạn chế”, Tia 
Sáng, 4.2015. 
[22] Phạm Thành Huy, “Đầu tư cho viện/trường: 
Những hạn chế đáng tiếc”, Tia Sáng, 7.2014. 
[23] Nguyễn Thị Thu Oanh - Michael Braun, “Đánh 
giá các tổ chức nghiên cứu ở Việt Nam”, Tia 
Sáng, 7.2014. 
[24] Ngô Quang Hưng, “Nghiên cứu và phát triển ở đại 
học: Một vài đề xuất”, Tia Sáng, 10.2016.//24 
[25] “Những kinh nghiệm quản lý khoa học từ Nam 
Mỹ”, Tia Sáng, 12.2014. 
architects-of-south-american-science-1.15377. 
[26] Nguyễn Bá Ân, “Nên có tiêu chí phân loại các 
nhóm nghiên cứu và đầu tư thỏa đáng cho các 
nhóm mạnh”, Tia Sáng, 8.2014. 
[27] Trần Xuân Hoài, “Nhà nước và nhà khoa học phải 
tin nhau”, Tia Sáng, 3.2016. 
[28] Ngô Bảo Châu, Ngô Quang Hưng, “Xây dựng đội 
ngũ giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại 
học”, Tia Sáng, 8.2014. 
[29] Trần Đức Viên, “Cần có những giải pháp, chính 
sách thiết thực trong xây dựng đội ngũ khoa học”, 
Tia Sáng, 7.2014. 
[30] Phạm Bích San, “Think tank ở Việt Nam: Từ quá 
khứ tới hiện tại”, Tia Sáng, 7.2014. 
[31] “Nghị quyết Trung ương Đảng khoá 6 về phát 
triển khoa học và công nghệ”, 
KHCN/Bo-KHCN 
[32] Ngô Đức Thế, “Tái cơ cấu tài trợ và nâng cao hợp 
tác trong khoa học”, Tia Sáng, 4.2015. 
[33] Trần Thanh Hải, “Cần chuyển hướng tới một đích 
đến cao hơn”, Tia Sáng, 5.2015. 
[34] Trần Đức Viên, “Tái cấu trúc hệ thống nghiên 
cứu”, Tia Sáng, 3.2015. 
[35] Thái Thanh, “Tái cơ cấu nền khoa học và công 
nghệ: Đổi sao cho mới”, Tia Sáng, 2.2015. 
[36] Hoàng Tuỵ, “Tản mạn chuyện đổi mới sáng tạo”, 
Tia Sáng, 2.2015. 
[37] “Current Status on Science and Technology in 
ASEAN Countries”, Center for Research and 
Development Strategy, Japan Science and 
Technology Agency, Sep. 2015. 
[38] Ohno K., “The Economic Development of Japan”, 
GRIPS Development Forum, 2006. 
[39] “China science and technology for development”, 
un.org/eng/chinaandun/economicdevelopment/kj/ 
[40] Cao C., Suttmeier R.P., Simon D.F., “China’s 15 
year science and technology plan”, Physic Today, 
Dec. 2006. 
[41] Hồ Tú Bảo, “Từ đại học quanh ta, nghĩ về khoa 
học và công nghệ Việt Nam”, Tia Sáng, 5.2009. 
[42] Hồ Tú Bảo, “Tổ chức và quản lý đề tài nghiên cứu 
khoa học ở Nhật”, 6.2008. 
[43] “Japan’s Science and Technology Basic Policy 
Report”, Council for Science and Technology 
Policy, Oct. 2010. 
[44] Yau Shing-Tung (Khưu Thành Đồng, giải Fields 
Toán học 1982), “Science and Technology in 
China”, Harvard Asia Pacific Review. Fall 2002, 
Vol. 6. No. 2, 37-43. 
[45] Shang Yong, “An Introduction to China’s Science 
and Technology Policy”, Lecture at the Kennedy 
School of Government Cambridge, 
Massachusetts, Dec. 2005. 
[46] Seong S., Popper S.W., Zheng K., “Strategic 
Choices in Science and Technology: Korea in the 
Era of a Rising China”, Center for Asia Policy, 
RAND  
[47] Choi Y., “Technology roadmap in Korea”, 
[48] “Malaysia science and technology policy”, 
policies/science-a-technology-sat-policy 
[49] Hajchayapong P.T., “Thailand: Science and 
Technology Policy for Sustainable Development”, 
[50] “Thailand: Science, Technology & Innovation 
Policy Review”, United nations confer-ence on 
H.T. Bảo / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 32, Số 1S (2016) 165-178 
178 
trade and development UNCTAD, 2015. 
15d1_en.pdf 
[51] “Israel: Science and Innovation”, OECD science, 
technology and industry outlook, 
[52] Thái Thanh, “Đánh giá khoa học: Một vài tham 
khảo từ nước Đức”, Tia Sáng, 12.2014. 
[53] “Research and Development: National Trends and 
International Comparisons”, Chapter 4 in Science 
and Engineering Indicators 2014 (NSF), 
https://www.nsf.gov/statistics/seind14/index.cfm/
chapter-4 
[54] Hoàng Văn Tuyên, “Phát triển hoạt động nghiên 
cứu và triển khai (R&D) trong các doanh nghiệp 
việt nam”, Luận án tiến sĩ, 2016. 
[55] “Các chương trình khoa học và công nghệ trọng 
điểm cấp nhà nước giai đoạn 2011-2015”, 
Webiste Bộ Khoa học và công nghệ 
Hoat-Dong-KHCN/Cac-chuong-trinh-
khcn/danh_muc_cac_de_tai_du_an_san_xuat_thu_
nghiem_cap_nha_nuoc/ 
[56] Pierre Darriulat, “Cải thiện hiệu quả việc cấp kinh 
phí cho khoa học cơ bản”, Tia Sáng, 5.2014. 
[57] Phùng Hồ Hải, “Về đánh giá và tài trợ cho nghiên 
cứu trong khoa học cơ bản”, Tia Sáng, 3.2015. 
[58] Hồ Tú Bảo, “Chương trình các trung tâm cách tân 
ở Nhật”, Tia Sáng, 1.2014. 
[59] “Peril and Promise: Higher Education in 
Developing Countries”, World Bank & UNESCO, 
TOPICS/EXTEDUCATION/0,,contentMDK:202
98183~menuPK:617592~pagePK:148956~piPK:2
16618~theSitePK:282386,00.html
Science and Technology Innovation is the Key 
for Vietnam’s Development 
Ho Tu Bao 
Japan Advanced Institute of Science and Technology, Japan 
Abstract: This article presents a comparative analysis of two issues. The first issue is the lack of 
business sector in the structure of science and technology in Vietnam. The second issue is about 
science and technology innovation with such important activities as organizing programs to serve the 
country’s strategic goals and indicators; attracting more investments from business sectors in science 
and technology; building and implementing key national programs as well as encouraging and creating 
supporting mechanisms for competent scientists to participate in those programs. 
Keywords: Science and technology component, nation-oriented mission, society need, innovation, 
science and technology policy 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_de_khoa_hoc_va_cong_nghe_la_then_chot_trong_su_phat.pdf