Giấc mơ như một cổ mẫu trong truyện ngắn Việt Nam đương đại

TÓM TẮT:

Cổ mẫu (archetype) được hiểu là những

“biểu tượng lớn” có nguồn gốc từ xa xưa, thoát

thai từ vô thức tập thể. Qua khảo sát, chúng tôi

nhận thấy, với truyện ngắn Việt Nam đương

đại, có thể xem giấc mơ như một cổ mẫu. Giấc

mơ trở thành một ẩn dụ, ám dụ mang tính tư

tưởng và trở đi trở lại trên trang viết của nhiều

nhà văn. Một mặt nó là sự tiếp nối nguồn mạch

cảm hứng văn học dân gian, văn học cổ trung

đại; mặt khác nó thấm đượm cảm quan hiện

đại. Các nhà văn đã thử nghiệm triết lý trong

mơ, triết lý bằng giấc mơ, mở rộng biên độ

sáng tạo của mình bằng giấc mơ. Qua bài viết,

chúng tôi hy vọng có thể mang đến một góc

nhìn khác về truyện ngắn Việt Nam đương đại

dưới lăng kính cổ mẫu.

pdf 7 trang yennguyen 6820
Bạn đang xem tài liệu "Giấc mơ như một cổ mẫu trong truyện ngắn Việt Nam đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giấc mơ như một cổ mẫu trong truyện ngắn Việt Nam đương đại

Giấc mơ như một cổ mẫu trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 161 
Giấc mơ như một cổ mẫu 
trong truyện ngắn Việt Nam đương đại 
 Trần Thị Tươi 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Cổ mẫu (archetype) được hiểu là những 
“biểu tượng lớn” có nguồn gốc từ xa xưa, thoát 
thai từ vô thức tập thể. Qua khảo sát, chúng tôi 
nhận thấy, với truyện ngắn Việt Nam đương 
đại, có thể xem giấc mơ như một cổ mẫu. Giấc 
mơ trở thành một ẩn dụ, ám dụ mang tính tư 
tưởng và trở đi trở lại trên trang viết của nhiều 
nhà văn. Một mặt nó là sự tiếp nối nguồn mạch 
cảm hứng văn học dân gian, văn học cổ trung 
đại; mặt khác nó thấm đượm cảm quan hiện 
đại. Các nhà văn đã thử nghiệm triết lý trong 
mơ, triết lý bằng giấc mơ, mở rộng biên độ 
sáng tạo của mình bằng giấc mơ. Qua bài viết, 
chúng tôi hy vọng có thể mang đến một góc 
nhìn khác về truyện ngắn Việt Nam đương đại 
dưới lăng kính cổ mẫu. 
Từ khóa: cổ mẫu, giấc mơ, truyện ngắn 
“Huyền thoại là đạo sống của một dân tộc” 
(C.G.Jung). Với niềm tin mãnh liệt ấy, hơn nửa thế 
kỷ trước dấu chân Carl Gustave Jung đã để lại khắp 
các vùng bộ lạc bán khai ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Đông 
Nam Á để truy tìm cho được huyền thoại ở dạng 
thức nguyên thủy. Trên con đường tìm kiếm, ông đã 
mở ra cánh cửa của vô thức tập thể và cổ mẫu1. 
Theo C.Jung, “vô thức tập thể” có vai trò đặc biệt 
trong cơ cấu tâm lý con người, nó giữ một vị trí 
quan trọng trong sự hình thành văn minh, văn hóa 
nhân loại. Cùng với “vô thức tập thể” là “cổ mẫu” – 
“cái gọi về sự huyền bí khi cái nguyên thủy trong 
con người tìm về nguồn cội đã nuôi dưỡng nó và cất 
giữ tinh thần của tổ tiên nó”2. Và bởi vì cổ mẫu là 
một “tiềm năng thuần túy”3 (pure potentialité), một 
1Archetype (archétype) có nhiều cách dịch khác nhau: cổ mẫu, 
bản gốc (Hà Văn Tấn), cổ tượng (Trần Quốc Vượng); mẫu cổ, 
mẫu gốc (Đỗ Đức Hiểu), nguyên sơ tượng (Kim Định), siêu mẫu 
(Đỗ Lai Thúy). Ở đây chúng tôi chọn cách dịch cổ mẫu vì thấy 
cách dịch này phù hợp với tinh thần nghiên cứu của đề tài. 
2 S.Freud-C.G.Jung – G.Bachelard – G.Tucci- V.Dunde (2000), 
Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nhiều người dịch, NXB 
Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.81. 
3 Chữ dùng của Đỗ Lai Thúy. 
“lớp đọng tâm linh” (dépot psychique) khó nắm bắt 
nên người ta chỉ có thể biểu thị được nó bằng một 
biểu tượng. Dĩ nhiên, không phải biểu tượng nào 
cũng là cổ mẫu. Cổ mẫu được hiểu là những “biểu 
tượng lớn” có nguồn gốc từ xa xưa, thoát thai từ vô 
thức tập thể. Quá trình sáng tạo, theo Jung, là quá 
trình “hà hơi sống” cho cổ mẫu từ trong vô thức. 
Với lý thuyết “cổ mẫu”, C.G.Jung trở thành người 
khai mở con đường lý luận phê bình văn học cổ 
mẫu (Archetypal Criticism). Sau này, G.Bachelard 
và N.Frye là những người góp phần hoàn thiện lý 
thuyết ấy. Đặc biệt, Frye cho rằng, cổ mẫu văn học 
là “những ý tượng điển hình thường xuyên xuất 
hiện trở đi trở lại”, nó “giữ một vai trò chủ yếu 
trong việc làm mới chất liệu văn học”4. 
Nghiên cứu cổ mẫu trong văn học cũng chính là 
con đường tìm hiểu hiện tượng chuyển hóa yếu tố 
huyền thoại trong đời sống văn học. Để hiểu hơn về 
4 Dẫn lại, Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009), Phê bình cổ mẫu và 
cổ mẫu nước trong văn chương Việt Nam, Tr. Nghiên cứu văn 
học Việt Nam những khả năng và thách thức, Tuyển tập chuyên 
khảo do viện Harvard – Yenching tài trợ, Nhiều tác giả, NXB 
Thế giới, tr.178. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 162 
cổ mẫu, người đọc cần “lùi về phía sau”, và phát 
hiện cho được những “kết cấu” cổ mẫu xuất hiện trở 
đi trở lại trong tác phẩm, cũng như trong hàng loạt 
sáng tác của một tác giả nào đó. Hơn hết, từ lớp ý 
nghĩa biểu trưng của cổ mẫu lần tìm ra những nghĩa 
phái sinh gắn liền với tâm thức và đặc trưng văn 
hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng văn hóa. 
Với truyện ngắn Việt Nam đương đại, một lần 
nữa cổ mẫu trở thành thành tố trong tư duy nghệ 
thuật, góp phần thúc đẩy diễn tiến của tác phẩm. 
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy, cùng 
với lửa và nước, giấc mơ cũng xuất hiện với tư cách 
như một cổ mẫu, nó trở thành nhân vật sống động, 
biến hóa trên trang viết của nhiều nhà văn. Trong 
bài viết này, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu 
cổ mẫu giấc mơ, một biểu tượng đầy sức ám gợi, 
đồng thời cũng là sợi dây nối kết đời sống tâm linh 
từ thế hệ này qua thế hệ khác. 
1. Một số quan niệm về giấc mơ 
Mộng, vốn dĩ là thế giới mà con người ta lạc 
vào, là cái diễn tiến trong ta, là cái mà ta không thể 
chọn lựa. Kể từ khi cánh bướm lạc vào giấc mộng 
của Trang Chu, văn chương thế giới đã lưu giữ biết 
bao những tấu khúc biến ảo về mộng. Người ta nhắc 
đến Yogavasistha (55 truyện kể về mộng) của mảnh 
đất tôn giáo Ấn Độ; nhắc đến Mười đêm mộng của 
xứ sở Phù Tang; rồi Hồng Lâu mộng của đất nước 
Trung Hoa... những kỳ thư văn chương phương 
Đông. Người ta cũng nhắc đến Âm thanh và cuồng 
nộ (William Faukner), Phế tích vòng tròn (Luis 
Borges) - những tuyệt tác phương Tây hiện đại như 
một sự nối dài những giấc mơ. 
Có thể nói, trải nghiệm về giấc mơ là một trong 
những trải nghiệm đầu tiên của loài người. Trải 
nghiệm ấy gắn với ý niệm về “linh hồn” và sự tách 
biệt của linh hồn trong lúc ngủ. Về vấn đề này, khi 
tìm hiểu văn hóa nguyên thủy, E.B.Taylor cho rằng, 
ở người nguyên thủy thái độ đối với giấc mơ tương 
tự như thái độ đối với giấc ngủ vì “cả hai đều gắn 
với lý thuyết nguyên thủy về linh hồn và cả hai loại 
hiện tượng này bổ sung, củng cố ý nghĩa cho 
nhau”5. Từ giấc mơ gợi nỗi khiếp sợ mê tín về 
“bóng ma”, cho đến giấc mơ gắn với ý niệm rằng 
“bóng ma” ấy là sản phẩm hoạt động của bộ não ở 
người đang ngủ là cả một quá trình, và từng là đối 
tượng của sự suy tư triết học. Người Ai Cập cổ đại 
tin rằng, giấc mơ là nơi chuyển tải thông điệp từ 
Thượng Đế (thần thánh), là nơi con người giao tiếp 
với thần linh. Và trên thế giới, dường như sự ra đời 
của một lãnh tụ tôn giáo nào đó đều gắn với giấc 
mơ như một dấu hiệu phát lộ những điều huyền bí. 
Suốt một thời kỳ dài, con người luôn nỗ lực tìm 
hiểu và cắt nghĩa giấc mơ. Đến thế kỷ XX, cùng với 
sự xuất hiện của Phân tâm học, các kiến giải về giấc 
mơ liên tục được đưa ra. Trong cuốn Những giấc 
mơ và huyền thoại, nhà nghiên cứu Karl Abraham 
cho rằng “huyền thoại là một dư sinh của đời sống 
tâm lý ấu thời của loài người và giấc mơ chính là 
huyền thoại của cá nhân”6. Cùng với Abraham, 
Freud cho rằng, giấc mơ là những “kí hiệu của ham 
muốn”, chúng là “biểu hiện, thậm chí là sự thực 
hiện những dục vọng bị kìm nén”7. Bởi vậy giải 
thích mộng mị, theo Freud, là “con đường vương 
giả để đạt đến hiểu biết lòng người”. Khác với 
Freud, Jung cho rằng, giấc mơ không chỉ là sự thể 
hiện những ham muốn bản năng bị dồn nén của con 
người mà nó còn chứa đựng cả chiều sâu tâm linh. 
Đó là sự “tự thể hiện một cách tự phát và tượng trưng 
cái thực trạng của vô thức”8. Vô thức ấy không chỉ 
bó hẹp trong một cá nhân mà nó còn có sự cộng 
hưởng của cả một cộng đồng (vô thức tập thể). 
Những biểu tượng xuất hiện trong giấc mơ, theo 
Jung, là những thông điệp dùng để “chuyển tin tức từ 
phần bản năng sang phần lý trí của con người”9. 
5 E.B.Tylor, Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch, Xb.Tạp 
chí văn hóa nghệ thuật – Hà Nội, (2000), tr.531. 
6 Dẫn lại, S.Freud-C.G.Jung – G.Bachelard – G.Tucci- V.Dunde, 
Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nhiều người dịch, NXB 
Văn hóa thông tin, Hà Nội, (2000), tr.377. 
7 Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà 
Nẵng, (2002), tr.164. 
8 Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà 
Nẵng, (2002), tr.164. 
9 Carl Gustav Jung, Thăm dò tiềm thức, Vũ Đình Lưu dịch, NXB 
Tri thức, (2007), tr.62. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 163 
Carl.G.Jung rời xa cơ sở khoa học thực nghiệm để đi 
sâu vào khám phá lĩnh vực văn hóa, tâm linh con 
người. Tìm hiểu cổ mẫu trong biểu tượng giấc mơ 
chính là một trong số con đường ấy. 
2. Cổ mẫu “giấc mơ” trong truyện ngắn Việt 
Nam đương đại 
Nếu trong văn học dân gian và văn học cổ, giấc 
mơ thường mang chức năng điềm báo, hoặc màu 
sắc tôn giáo, tín ngưỡng thì đến văn học hiện đại, 
giấc mơ trở thành một phần đời sống tâm linh con 
người, nó hé lộ “trạng huống hiện sinh”, phản chiếu 
ảo ảnh của chính con người. Tìm hiểu truyện ngắn 
đương đại, chúng tôi nhận thấy, ở một số tác giả, 
giấc mơ như một ám ảnh nghệ thuật, nó trở đi trở 
lại trên trang viết, dưới nhiều dạng thức khác nhau. 
Có thể kể đến Nguyễn Huy Thiệp với loạt truyện 
Con gái thủy thần, Giọt máu, Cún, Những người 
thợ xẻ, Huyền thoại phố phường, Không có vua; 
Tâm hồn mẹ; Phạm Thị Hoài với Vết son, Người 
đoán mộng giỏi nhất thế gian, Giấc mơ, Tổ khúc 
bốn mùa; Võ Thị Hảo với Người sót lại của rừng 
cười, Biển cứu rỗi, Giọt buồn giáng sinh, Bán cốt, 
Máu của lá, Đêm bướm ma; Nguyễn Thị Thu Huệ 
với Người đi tìm giấc mơ, Phù thủy, Ám ảnh Ở 
đó, giấc mơ được sử dụng như một phương thức để 
khám phá thế giới nội tâm nhân vật. Thế giới của 
giấc mơ là thế giới mở tuyệt đối, là thế giới mà mọi 
ước thúc tâm lý đều bị gạt bỏ, nhường chỗ cho 
những suy tư, trăn trở, những khát vọng, ẩn ức tự do 
bộc lộ. Bởi vậy, qua lăng kính của giấc mơ, nhân 
vật hiện lên chân thực hơn, sống động hơn, và cũng 
ám ảnh hơn. 
Đi ra từ hiện thực, diễn tiến trong sự bất định 
của tâm trí và kết thúc trong sự chiêm nghiệm của 
con người, giấc mơ mang trong nó cả cõi thực lẫn 
cõi mộng. Đôi khi, giấc mơ là sự trở lại của kí ức, là 
nỗi ám ảnh đời thường. Đó là nỗi ám ảnh của người 
con gái một thời khoác áo lính - người con gái duy 
nhất may mắn sót lại của “rừng cười”, đêm đêm 
triền miên trong giấc mơ “thấy tóc rụng như trút, 
rụng đầy khuôn ngực đã bị đâm nát của chị Thắm, 
và từ trong đám tóc rối ấy lẩy ra hai giọt nước mắt 
trong veo và rắn câng như thủy tinh, đập mãi không 
vỡ”10. Đó có thể là nỗi hoảng sợ của người đàn ông 
đang bị nhấn chìm trong sự cô độc: “bất chợt thấy 
mình truồng như nhộng qua những giấc mơ đêm” 
(Biển cứu rỗi). Và đó cũng có thể là nỗi ám ảnh của 
một con người suốt đời bị cái đói, cái nghèo dằn 
vặt: “lão lại nằm mơ, nhưng khác với lần trước là 
chính lão bị đánh bằng búa tạ, chính lão là con bò. 
Lão tự nhìn mình trong một cái thân hình nửa bò, 
nửa người, máu me đầm đìa mà lão lại bình thản 
như tuân thủ một điều đương nhiên” (Phiên chợ 
Giát). Toàn bộ tác phẩm Phiên chợ Giát được xây 
dựng trên một cái trục hoang tưởng cùng với sự đan 
cài chồng chéo các giấc mơ. Trong mơ lão Khúng 
thấy mình giáng cái búa tạ lên đầu con vật trung 
thành của gia đình lão; rồi lão thấy mình trong thân 
hình nửa bò nửa người, lão thấy đất dưới chân lão 
“nứt nẻ”, rồi lại thấy con vật hoang dã đang “bình 
yên gặm cỏ giữa khoảng rừng ngập đầy ánh 
sáng” Sự đan xen những cơn mộng mị ấy khiến 
tác phẩm chồng chéo nhiều tầng huyền thoại khác 
nhau. Ở đó huyền thoại phương Đông và phương 
Tây có sự trộn lẫn, giao thoa với nhau. Nếu môtip 
“hóa thân” trong Biến dạng của Kafka hay Nhân 
mã của John Updike được xem như những biểu 
trưng của tha hóa thì ở Nguyễn Minh Châu nó lại là 
biểu trưng của thân phận con người - những con 
người luôn bị đặt trong sự dằn vặt giữa nhẫn nhục 
và tự do, giữa thủy chung và sự bi thảm. Văn hóa cổ 
Đông Nam Á xem “con bò” là vật thiêng, nhưng 
với người Việt - những cư dân nông nghiệp lúa 
nước, nó đơn thuần là vật nuôi sống. Ở một mức độ 
nào đó, nó đã chạm đến cái sâu xa nhất của tâm 
thức người Việt. Đằng sau sự lẫn lộn giữa bò và 
người, sự giao nhau giữa các giấc mơ là những suy 
tư sâu thẳm về thân phận con người, thời đại - nơi 
mà cái nông nghiệp thấp kém dằn vặt cái phát triển, 
ám ảnh cái phát triển. Phiên chợ Giát vì vậy có thể 
10 Nhiều tác giả, Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX (giai đoạn 
1976-2000), Tập 1, NXB Kim Đồng, (2003), tr.590. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 164 
xem là một “lát cắt bi kịch” của Nguyễn Minh Châu 
về đời sống tinh thần, về mâu thuẫn giữa phát triển 
và trì trệ. Nó được viết ngay sau đại hội Đảng lần 
thứ 6 năm 1986, giữa không khí đổi mới ngập tràn, 
vấn đề tác phẩm đưa ra cũng là vấn đề trăn trở của 
cả một thời đại. Thủy chung với đồng ruộng, đó 
thực sự là đức tính hay là bi thảm khi mà cái đói cái 
nghèo luôn là nỗi ám ảnh của người dân trên đất 
nước này? Truyện không dừng lại ở một lớp nghĩa 
cụ thể nào mà nó đặt người đọc vào nhiều dòng suy 
tưởng với nhiều cảm xúc khác nhau để tự tìm lời 
đáp cho mình. 
Hiện thực cuộc sống như những mảnh vỡ được 
chắp ghép qua giấc mơ. Ở đó có mất mát, đau 
thương, có nghèo hèn, lam lũ, và có cả sự mòn mỏi 
của kiếp người đang vùng vẫy trong “tàn di của 
kiếp sống mông muội”: Nhân vật Chương trong 
Con gái thủy thần luôn bị cuốn vào những giấc mơ, 
“có lần mơ thấy đào đá ong, xắn phải ngón chân 
cái, một lúc sau ngón chân lại tự mọc ra, lại xắn 
phải lần nữa, cứ thế vài chục lần, lần nào cũng đau 
lắm. Lại có lần mơ thấy lột giang, dao cứa đứt cả 
năm ngón tay, khi ăn cơm phải vục mặt xuống như 
chó”11. Cả một đời Chương bị cuộc sống tù túng 
chốn làng quê bủa vây. Hình ảnh mẹ Cả - người con 
gái thủy thần luôn “chen vào giấc ngủ ở một khe hở 
nào đó rất nhỏ” của Chương, bởi đó là hình ảnh duy 
nhất đưa Chương đến một thế giới khác - thế giới 
bên ngoài - thế giới của biển cả, của tự do, nơi 
người ta không phải cuống cuồng kiếm tìm miếng 
ăn, nơi không còn những định kiến, tập tục nặng nề, 
không còn “tinh thần gia trưởng hủy hoại bao nhiêu 
số phận con người”12. 
Đôi khi, giấc mơ gắn với định mệnh nghiệt ngã 
của kiếp người. Cún (trong truyện ngắn cùng tên 
của Nguyễn Huy Thiệp), sinh ra đã bị chối bỏ. 
Người ta nhặt được Cún từ miệng một cái ống cống, 
trong hình hài xám ngoét và tật nguyền. Cả một đời, 
11 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.113. 
12 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.127. 
Cún vất vưởng ngoài hiên nhà cô Diệu và sống 
bằng sự bố thí của thiên hạ. Dưới vỏ bọc “hình 
nhân”, Cún luôn khát khao được làm người, Cún 
hay mơ đến Diệu, cô chủ nhà mà Cún vẫn nằm ở 
hiên nhà. Cún khóc nức nở khi mất đi lão Hạ - chỗ 
dựa duy nhất giúp Cún khỏi “lệch trọng tâm ở trên 
mặt đất”. Nhưng Cún cũng hạnh phúc tột cùng khi 
trải qua giây phút “làm người” với cô Diệu - dù cái 
giá phải trả quá chua chát - bằng tất cả gia tài lão 
Hạ để lại. 
Giấc mơ vừa che đậy, vừa hé lộ những ham 
muốn bản năng, những phần nhân bản nhất trong 
mỗi con người. Đúng như F.Gaussen từng nói: 
“chiêm mộng hiện ra với chúng ta như là biểu hiện 
bí mật nhất và trơ trẽn nhất của chính chúng ta”13. 
Nhân vật “tôi” trong Chuyện tình kể trong đêm 
mưa cứ mãi “chập chờn về hình ảnh trái tim mềm 
mại, ướt át, phập phồng rơi trên đất lạnh và ngôi 
nhà nhỏ có cửa sổ rộng”, còn Thuận trong Cơn 
mưa hoa mận trắng (Phạm Duy Nghĩa) lại luôn 
phải đấu tranh với những ham muốn bản năng. 
Khoảnh khắc khi mà đức hạnh và sự sa ngã nằm 
trên bờ vực giao tranh quyết liệt, Thuận đã chiến 
thắng bản thân và chìm vào giấc ngủ. Trong mơ, 
Thuận thấy mình gặp Hà - bạn gái của Kiên, “cả hai 
cứ trần truồng bước đi trong mưa hoa, không thấy 
ngượng ngùng, người nhẹ bỗng, bâng lâng trong 
những ý nghĩ siêu thoát và chay tịnh”14. Giấc mơ 
vừa là nơi phóng chiếu những ẩn ức kìm nén, vừa là 
nơi xoa dịu những ức chế tâm lý. Hình ảnh hai 
người phụ nữ dưới cơn mưa hoa như một sự tuyệt 
đối hóa vẻ đẹp thanh khiết của con người - những 
người đứng trên dục vọng cá nhân. Không có giấc 
mơ, biết đâu người ta chỉ còn lại sự ích kỉ và tàn 
bạo. 
Cũng có lúc, giấc mơ như một dấu hiệu của sự 
tha hóa và xuống cấp của đạo đức xã hội. Hạnh 
trong Huyền thoại phố phường (Nguyễn Huy 
13 Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà 
Nẵng, Phạm Vĩnh Cư chủ biên, (2002), tr.164. 
14 Nhiều tác giả, Nợ trần gian, (truyện ngắn tinh tuyển), NXB 
Hội nhà văn, (2008), tr.242. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 165 
Thiệp) là một kẻ thủ đoạn, gã sẵn sàng làm tất cả vì 
tiền. Gã phát sốt lên khi nghĩ đến tờ vé số rất có thể 
trúng giải độc đắc đang nằm trong tay mẹ con bà 
Thiều. Trong mơ, gã thấy “pho tượng đồng đen cao 
lớn”, “pho tượng đứng lên đi lại, bật cười ha hả. 
Pho tượng đặt thanh kiếm dài xuống ghế, bàn tay có 
những móng dài xòe trước mặt y những xấp tiền 
mới. Hạnh nghe rõ cả âm thanh loạt soạt những tờ 
giấy bạc”15. Lối sống thực dụng, toan tính và sự rạn 
nứt của những giá trị đạo đức xã hội một lần nữa 
được Nguyễn Huy Thiệp tái hiện trong truyện ngắn 
Không có vua. Ở đó là Khảm với giấc mơ thú tính 
“đi giết lợn, giết mãi không chết, con lợn cứ nhe 
răng cười”, rồi Khảm thấy mình bị ngập trong “bể 
cứt”, “cứt vào cả mồm, cả lỗ tai”16. Ở đó còn là 
Đoài - một tay công chức sẵn sàng hiếp cả chị dâu. 
Những gì Đoài thấy trong giấc mơ “bệnh hoạn” của 
Khảm là sự may mắn: “giấc mơ tốt đấy mày chơi 
xổ số đi, thế nào cũng trúng”17. 
Với Phạm Thị Hoài, giấc mơ như một sự lật tẩy 
toàn bộ những ham muốn, dục vọng của con người. 
Trong Người đoán mộng giỏi nhất thế gian, giấc 
mơ được tác giả khái quát thành thành các cấp độ: 
“Đứng đầu là mộng tiền bạc (). Sau đó đến mộng 
tình ái. Tình ái cần đối tượng. Chồng bạn, vợ người, 
thứ nữa mới đến gái đồng trinh, quả phụ và kỹ nữ 
Giấc mộng sinh lão bệnh tử chỉ đứng vào hàng thứ 
ba Cuối cùng là đủ loại mộng vặt vãnh, bi, hài, 
vô thưởng vô phạt”18. Nhân vật chính trong tác 
phẩm là người cả đời làm công việc “rút các sợi 
chỉ”. Cuộc đời người phụ nữ ấy chìm trong một 
giấc mơ dài. Giấc mơ đưa nhân vật phiêu lưu đến 
một thế giới khác. Giấc mơ là nơi mà hiện thực 
được tái hiện ở phía trần trụi nhất. Và giấc mơ cũng 
là biểu hiện tận cùng của sự cô đơn, khi con người 
15 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.63. 
16 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.88. 
17 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.89. 
18 Nhiều tác giả, Truyện ngắn Việt Nam thế kỷ XX (giai đoạn 
1976-2000), Tập 1, NXB Kim Đồng, (2003), tr.773. 
không tìm được bất kỳ mối giao hảo nào với cuộc 
đời. 
Là con đường dẫn vào thế giới tâm tưởng, giấc 
mơ có khi gắn với mặc cảm cô đơn, bị ruồng bỏ, lại 
có lúc gắn với định mệnh nghiệt ngã của kiếp 
người. Đăng trong Tâm hồn mẹ (Nguyễn Huy 
Thiệp) là đứa trẻ luôn khát khao tình mẹ. Với nó 
“mẹ là hình ảnh tuyệt diệu, nó không hình dung là 
sẽ thế nào, nhưng rõ ràng nó cảm nhận được”19. 
Càng khao khát tình yêu thương từ mẹ, sự cô đơn, 
lạc lõng càng ngự trị trong tâm hồn cậu bé. Trong 
mơ “nó bước vào khoảng trống không, hai tay bơi 
rẽ không khí. Đăng áp người vào hàng lan can, cảm 
giác cô đơn côi cút, nó ớn lạnh”20. Khi mất đi điểm 
tựa tinh thần, những tổn thương tâm lý sẽ khiến trẻ 
thơ trở nên cô độc và chới với. Kí ức về cái “kẹt bồ 
lúa”, về cái màu đỏ lạ lùng “đỏ hơn bông bụp”, “đỏ 
hơn máu” từ khúc vải người lái buôn mang lại cứ 
đeo bám Nương (Cánh đồng bất tận), để rồi mỗi 
khi nhớ lại, sống mũi Nương lại cay cay. Trong 
chiêm bao, Nương chỉ thấy “vía má giãy giụa trong 
tấm vải đỏ lạ lùng kia, nhưng nó thít chặt, riết lấy, 
siết dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ 
chấp chới bay về phía mặt trời”21. Nỗi đau khiến 
nhiều năm sau đó, Nương không dám nhớ đến má, 
bởi chỉ cần nghĩ đến thì ngay lập tức hình ảnh ấy lại 
hiện ra. 
Thoát thai từ sâu thẳm tiềm thức, giấc mơ đọng 
lại trong sự suy tư của mỗi người. Có những người 
ban ngày “sống như một cái bóng”, và chỉ ban đêm 
mới là cuộc sống thực sự, bởi ở đó họ “được yêu, 
được đi ra khỏi gian nhà ảm đạm, không ánh sáng”. 
Giấc mơ giúp họ được làm những điều mà đời thực 
họ không làm được (Người đi tìm giấc mơ/ Nguyễn 
Thị Thu Huệ). 
19 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.20. 
20 Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, Hà 
Nội, (1995), tr.28. 
21 Nhiều tác giả, Nợ trần gian, (truyện ngắn tinh tuyển), NXB 
Hội nhà văn, (2008), tr.311. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 166 
Tạm kết 
Giấc mơ không phải chỉ tạo cho tác phẩm sự 
phiêu linh mà nó còn chứa đựng những nhu cầu bức 
thiết khác. Đó là những ẩn dụ, ám dụ, mang tính tư 
tưởng. Bản thân môtip giấc mơ không phải mới, 
nhưng với truyện ngắn đương đại, nó được tái hiện 
dưới nhiều dạng thức và được sử dụng như một 
hình tượng khá độc đáo. Một mặt, hình tượng ấy là 
sự tiếp nối nguồn mạch cảm hứng văn học dân gian, 
văn học cổ trung đại; mặt khác nó thấm đượm cảm 
quan hiện đại. Các nhà văn hiện đại đã “thử 
nghiệm” triết lý trong mơ, triết lý bằng giấc mơ, mở 
rộng biên độ sáng tạo của mình bằng giấc mơ. Giấc 
mơ mang theo hơi thở, nhịp sống, và cả những âu lo 
rất đời thường của con người. Ở đó, sân khấu cuộc 
đời một lần nữa được tái hiện với đầy đủ cung bậc 
hỉ - nộ - ái - ố. Những giằng xé âm thầm, những 
chua chát đắng cay, những góc khuất tăm tối của 
cuộc đời cứ thế hiện ra, sắc lẹm. Giấc mơ, trong sâu 
xa, về mặt văn hóa, phản chiếu nhân sinh quan của 
con người (giấc mộng Nam Kha, hay giấc mơ hóa 
bướm của Trang Tử đều vậy) nhưng giấc mơ hiện 
đại thì khác. Mơ không phải tiếc đời, mơ không 
phải để ước ao mà mơ vì phải sống giả khi không 
mơ. Mơ là sự tuyệt vọng của cuộc sống thật. Giấc 
mơ trong truyện ngắn Việt Nam có vẻ như chưa 
chạm tới tính tư tưởng kiểu tác phẩm thế giới mà nó 
chỉ là những nỗ lực ám gợi. Nó tái hiện một vùng kí 
ức xa xăm và phóng chiếu những dự cảm mới về 
cuộc sống. Và một lần nữa, giấc mơ quay trở lại bắc 
nhịp cầu kết nối đời sống tâm linh con người với 
con người, mặc cho sự cách biệt về thời đại. 
Tựa như sợi dây gắn kết con người ở các nền văn 
hóa với nhau, cổ mẫu đã tồn tại và không ngừng tái 
sinh cùng thời gian. Tìm hiểu cổ mẫu trong đời sống 
văn học, một mặt giúp ta giải mã những bức màn bí 
ẩn trong đời sống văn hóa, mặt khác đó còn là con 
đường nhanh nhất để tìm hiểu huyền thoại dưới 
những mảnh vỡ còn sót lại trong đời sống hiện đại. 
Sự thay đổi của môi trường sống, điều kiện lịch sử 
tạo ra những biến thể của cổ mẫu, nhưng trong mỗi 
cổ mẫu đều lưu giữ những giá trị gốc, và tâm thức 
của nhân loại từ ngàn đời nay vẫn xoay quanh cái 
trục văn hóa ấy. 
Dreams as an archetype 
in contemporary Vietnamese short stories 
 Tran Thi Tuoi 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Archetypes are understood as ‘great symbols’ 
deriving from ancient times and arising from the 
collective unconsciousness. Through my studies, I 
realize that, in contemporary Vietnamese short 
stories, dreams can be considered as an archetype. 
Dreams are coded in conceptual metaphors, in 
allegorical expressions, and they appear 
everywhere in the works of many contemporary 
authors. On the one hand, this trend is the 
continuation of a traditional source of inspiration in 
folk and medieval literature; on the other hand, it is 
characterized by modern senses. Authors 
experimentally introduce a philosophy in dreams, 
and expand their creative range through dreams. 
This study provides a new insight into contemporary 
Vietnamese short stories under the archetypal lens. 
Keywords: archetype, dream, short stories 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 167 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nhiều tác giả (2008), Nợ trần gian, (truyện 
ngắn tinh tuyển), Nxb. Hội Nhà văn. 
[2]. Nhiều tác giả (2003), Truyện ngắn Việt Nam 
thế kỷ XX (giai đoạn 1976-2000), Tập 1, Nxb. 
Kim Đồng. 
[3]. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Như những ngọn 
gió, Nxb. Văn học, Hà Nội. 
[4]. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (Phạm Vĩnh 
Cư chủ biên) (2002), Từ điển biểu tượng Văn 
hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng. 
[5]. Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu (2007), 
Phân tâm học và tính cách dân tộc, Nxb. Tri 
Thức, Hà Nội. 
[6]. E.B.Tylor (Huyền Giang dịch ) (2000), Văn 
hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 
Hà Nội. 
[7]. Carl Gustav Jung (Vũ Đình Lưu dịch) (2007), 
Thăm dò tiềm thức, Nxb. Tri Thức. 
[8]. S.Freud - C.G.Jung - G.Bachelard - G.Tucci - 
V.Dunde (nhiều người dịch) (2000), Phân tâm 
học và văn hóa nghệ thuật, Nxb. Văn hóa 
thông tin, Hà Nội. 
[9]. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2009), Phê bình cổ 
mẫu và cổ mẫu nước trong văn chương VN, 
Trích Nghiên cứu Văn học Việt Nam những 
khả năng và thách thức, Tuyển tập chuyên 
khảo do Viện Harvard - Yenching tài trợ, 
Nhiều tác giả, Nxb. Thế giới, tr.170. 
[10]. James George Frazer (Ngô Bình Lâm dịch ) 
(2007), Cành vàng, Nxb. Văn hóa thông tin, 
Hà Nội,. 
[11]. Sigmund Freud (Ngụy Hữu Tâm dịch) (2005), 
Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, 
Nxb. Thế Giới. 

File đính kèm:

  • pdfgiac_mo_nhu_mot_co_mau_trong_truyen_ngan_viet_nam_duong_dai.pdf