Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam

TÓM TẮT

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra sôi động, tạo ra nhiều cơ hội cho sự

phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách

thức không nhỏ. Để phát triển bền vững ngân hàng thì nhất thiết phải đảm bảo an toàn trong hoạt

động ngân hàng, và hoạt động thanh tra, giám sát vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an toàn

hoạt động của ngâ hàng. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã nêu thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối

hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; phân tích một số bất cập và nguyên nhân gây ra những

bất cập trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn

thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 9360
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam

Giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam
14
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TRA, 
GIÁM SÁT NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Phan Diên Vỹ*
TÓM TẮT
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang diễn ra sôi động, tạo ra nhiều cơ hội cho sự 
phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách 
thức không nhỏ. Để phát triển bền vững ngân hàng thì nhất thiết phải đảm bảo an toàn trong hoạt 
động ngân hàng, và hoạt động thanh tra, giám sát vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo an toàn 
hoạt động của ngâ hàng. Trong phạm vi bài viết, tác giả đã nêu thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối 
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng; phân tích một số bất cập và nguyên nhân gây ra những 
bất cập trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn 
thiện hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam.
Từ khóa: Thanh tra, giám sát
SOLUTIONS TO IMPROVE THE BANKING INSPECTION AND 
SUPERVISION IN VIETNAM
ABSTRACT
The process of economic and international integration which is eventful makes opportunities 
for the development of banks. Besides, banks are facing big difficulties and challenges. To guarantee 
the safeness in operation of banks is to help the banking solid development and the inspection and 
supervision is to help the safeness in operation of banks. In the scope of this article, the author 
mentions the reality on legal basis to govern the banking inspection and supervision, analysis on the 
insufficiencies and reasons to insufficiencies in the banking inspection and supervision. Form that, 
the author suggests the solutions to improve the banking inspection and supervision in Vietnam.
Key words: Inspector; supervisor
* TS. Trường Đại học Ngân hàng Tp.HCM. Email:phandienvy@gmail.com
15
Giải pháp hoàn thiện . . .
1. Thực trạng về cơ sở pháp lý chi phối 
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng 
tại Việt Nam
Công tác giám sát ngân hàng được thực 
hiện từ những năm 1990 do Vụ Thanh tra, 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành, với 
nhiệm vụ chính là gián tiếp kiểm tra thông 
qua tổng hợp, phân tích, đánh giá các báo cáo 
tình hình hoạt động theo định kỳ của TCTD, 
chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại 
Việt Nam, tiến hành giám sát thường xuyên 
phát hiện kịp thời các vi phạm, thông báo yêu 
cầu các TCTD khắc phục ngay và có biện 
pháp xử lý kịp thời nghiêm túc các vi phạm 
theo qui định của pháp luật. Cơ sở của việc 
thực hiện các hoạt động giám sát của NHNN 
đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) là 
Luật NHNN năm 1997, Khoản 2 Điều 1 Luật 
NHNN năm 1997 khẳng định: “NHNN thực 
hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và 
hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành 
tiền, ngân hàng của các TCTD và ngân hàng 
làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ”.
Luật NHNN năm 1997 khẳng định vị thế 
của Thanh tra ngân hàng là tổ chức thanh tra 
chuyên ngành về ngân hàng vừa làm chức 
năng thanh tra của Bộ (giải quyết khiếu nại, 
tố cáo) vừa làm chức năng thanh tra, giám sát 
hoạt động đối với các TCTD và hoạt động 
ngân hàng của các tổ chức khác với mục 
đích là đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, 
bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và phục vụ 
chính sách tiền tệ quốc gia. Qui chế giám sát 
ngân hàng đối với các TCTD cũng được hình 
thành thông qua Quyết định số 398/1999/QĐ-
NHNN ngày 9/11/1999 của NHNN về việc 
ban hành Quy chế giám sát từ xa đối với các 
TCTD hoạt động tại Việt Nam ra đời, trong 
đó nêu rõ: “Hoạt động giám sát từ xa là hoạt 
động mà bộ phận giám sát của Thanh tra ngân 
hàng căn cứ vào các báo cáo cân đối tài khoản 
kế toán, các chỉ tiêu báo cáo thống kê ngoài 
cân đối và các loại báo cáo khác do NHTM 
gửi theo chế độ báo cáo thống kê đối với các 
TCTD và tiến hành xử lý số liệu, tổng hợp 
và phân tích tình hình hoạt động đối với từng 
NHTM và toàn bộ hệ thống ngân hàngKết 
quả giám sát từ xa là một trong những căn cứ 
để xếp loại các NHTM”. Theo đó, nội dung 
giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại 
Việt Nam tập trung vào đánh giá các tiêu chí: 
diễn biến về cơ cấu nguồn vốn; tài sản chất 
lượng tài sản; tình hình thu nhập; chi phí và 
kết quả kinh doanh; vốn tự có; việc đảm bảo 
khả năng chi trả; phân tích một số chỉ số tài 
chính chủ yếu của TCTD.
Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN 
ngày 12/3/2008 của NHNN về việc xếp loại 
NHTM cổ phần, theo đó: các NHTM được 
yêu cầu tự đánh giá xếp loại dựa trên số liệu 
kế toán chính thức năm đã được kiểm toán 
bởi tổ chức kiểm toán độc lập, đối với các chỉ 
tiêu an toàn hoạt động ngân hàng, số liệu đánh 
giá, xếp loại được căn cứ vào số liệu báo cáo 
năm theo đúng tiến độ thông tin báo cáo hiện 
hành. Nội dung đánh giá xếp loại được thực 
hiện trên các chỉ tiêu: vốn tự có; chất lượng tài 
sản; năng lực quản trị; kết quả hoạt động kinh 
doanh; khả năng thanh toán.
Ngày 27/05/2009 Thủ tướng đã ban hành 
Quyết định số 83/2009/QĐ/TTg về việc qui 
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ 
cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát 
ngân hàng. Theo qui định này, thông qua hoạt 
động giám sát ngân hàng, trong trường hợp 
phát hiện các vi phạm qui định an toàn hoạt 
động ngân hàng và qui định của pháp luật 
có dấu hiệu mất an toàn hoạt động, Cơ quan 
Thanh tra, giám sát ngân hàng áp dụng ngay 
các biện pháp ngăn chặn và xử lý theo thẩm 
16
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quyền hoặc kiến nghị cơ quan Nhà Nước có 
thẩm quyền xử lý theo qui định của pháp luật.
Luật NHNN năm 2010 được sửa đổi và 
ban hành tiếp tục khẳng định: “Hoạt động 
giám sát ngân hàng là một khâu rất quan 
trọng trong hoạt động của Thanh tra, giám sát 
ngân hàng trên cơ sở thực hiện theo nguyên 
tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của 
một TCTD và phải đảm bảo kết hợp thanh tra, 
giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật 
về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám 
sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh 
tra, giám sát ngân hàng”. Đây là một bước 
tiến lớn đối với các hoạt động của NHNN nói 
chung mà còn của Thanh tra, giám sát của 
NHNN nói riêng, đây được xem là tiền đề và 
định hướng cho hoạt động thanh tra, giám sát 
ngân hàng.
Tuy nhiên cơ sở pháp lý cho hoạt động 
giám sát ngân hàng chưa thực sự hoàn thiện. 
Theo thuật ngữ giám sát ngân hàng được nêu 
trong trang Web:www.bis.org/bcbs/ Ủy ban 
Basel là một hoạt động bao quát toàn bộ ngân 
hàng như: cấp phép, giám sát từ xa, thanh tra 
tạo chỗ, thu thập thông tin, đánh giá xếp hạng 
tín dụng, bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ khách 
hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng, chống rửa 
tiền, chống tài trợ khủng bốnhằm bảo đảm 
sự hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ 
thống các định chế tài chính.
Trong khi đó, theo Luật Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam được ban hành từ 1997 và sau 
đó thực hiện vài lần sửa đổi bổ sung nhưng 
nội dung Thanh tra ngân hàng được nêu tại 
Chương 5 lại là một khái niệm hẹp:
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về 
tiền tệ và hoạt động ngân hàng việc thực hiện 
các quy định trong giấy phép ngân hàng
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm 
quyền
- Kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi 
hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân 
hàng ( Điều 52- Luật NHNN).
Qua đó cho thấy giám sát ngân hàng có 
nghĩa rộng hơn thanh tra ngân hàng và điều 
đáng nói là từ năm 1999 NHNN đã sử dụng 
thuật ngữ giám sát ngân hàng khi ban hành QĐ 
398/1999/QĐ-NHNN3 về hoạt động giám sát 
ngân hàng, nhưng khi chỉnh lý Luật NHNN 
năm 2003 vấn đề giám sát ngân hàng, nhưng 
khi chỉnh lý Luật NHNN năm 2003 vấn đề 
giám sát ngân hàng vẫn chưa được chính thức 
đưa vào Luật. Từ sự phân định giữa thanh 
tra và giám sát chưa rõ ràng, dẫn đến trong 
thực tế hoạt động giám sát ngân hàng chưa 
phát huy trọn vẹn những nguyên tắc của giám 
sát tài chính để đạt được hiệu quả cao như: 
thường xuyên- liên tục, toàn diện và linh hoạt, 
hệ thống giám sát hợp lý- hiệu quả, kết hợp 
logic giữa tính đặc thù của quốc gia và những 
chuẩn mực quốc tế
Hiện nay cơ sở pháp lý cho hoạt động 
giám sát ngân hàng đang chịu tác động của 
sự khập khiểng về môi trường pháp lý nên hệ 
thống giám sát ngân hàng còn nhiều bất cập 
như:
- Mặc dù nội dung, phương pháp thanh tra 
có thay đổi song vẫn chưa đáp ứng kịp yêu 
cầu quản lý. Vấn đề cốt lõi yêu cầu giám sát 
ngân hàng hiện nay không những nhận dạng 
được rủi ro của ngân hàng mà còn đánh giá cả 
khả năng quản trị rủi ro và chiến lược phòng 
ngừa rủi ro của ngân hàng. Điều này nội dung 
giám sát của thanh tra NHNN chưa đầy đủ 
cũng như trình độ đội ngũ chuyên gia ngân 
hàng còn hạn chế.
- Quy trình giám sát từ trung ương đến các 
chi nhánh chưa có sự kết hợp đồng bộ giữa 
phương pháp thanh tra từ xa và thanh tra tại 
chỗ mà NHNN đang cố đạt được
17
Giải pháp hoàn thiện . . .
- Một số chuẩn mực quốc tế về giám sát 
ngân hàng đã được vận dụng song các bộ chỉ 
tiêu giám sát còn chưa đồng bộ hoặc chưa 
phù hợp với tình hình Việt Nam nên cũng 
gây hạn chế khi đánh giá và phân tích. Điều 
đáng quan tâm là trong 25 nguyên tắc giám sát 
theo chuẩn Basel I thì hoạt động giám sát của 
NHNN đáp ứng chưa đến 30%.
Bảng 1: Đối chiếu việc thực hiện các nguyên tắc giám sát của Basel I 
trong hoạt động giám sát của NHNN
Nguyên 
tắc số
Các nguyên tắc
Đã đáp 
ứng
(6)
Đang xúc 
tiến
(13)
Chưa đáp 
ứng (6)
1 Chức năng-nhiệm vụ-sự độc lập-sự minh bạch và 
hợp tác
x
2 Phạm vi hoạt động ngân hàng x
3 Các tiêu chí cấp phép x
4 Chuyển đổi quyền sở hữu x
5 Các sáp nhập cơ bản x
6 An toàn vốn x
7 Quy trình quản trị rủi ro x
8 Rủi ro tín dụng x
9 Các tài sản có vấn đề, dự trữ và dự phòng x
10 Giới hạn tín dụng với khách hàng lớn x
11 Nguy cơ rủi ro với các bên liên quan x
12 Rủi ro chuyển đổi và rủi ro chính trị x
13 Rủi ro thị trường x
14 Rủi ro thanh khoản x
15 Rủi ro hoạt động x
16 Rủi ro lãi suất ghi sổ của ngân hàng x
17 Kiểm toán và kiểm toán nội bộ x
18 Phòng tránh rủi ro trong dịch vụ tài chính x
19 Phương pháp giám sát x
20 Kỹ thuật giám sát x
21 Thông tin báo cáo giám sát x
22 Chế độ kế toán và công bố thông tin x
23 Thực hiện yêu cầu và kết luận thanh tra x
24 Giám sát tổng thể x
25 Phối hợp giám sát trong và ngoài nước x
Tổng 6 13 6
Nguồn: Dự án cải cách ngân hàng- NHNN
18
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
2. Một số bất cập trong hoạt động thanh 
tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam 
Thứ nhất, hoạt động thanh tra, giám sát 
vẫn còn đặt nặng vào thanh tra tính tuân thủ, 
thanh tra vụ việc, xem xét khiếu nại, tố cáo, 
tham nhũng, ... mà chưa tập trung vào thanh 
tra hướng đến mục tiêu đảm bảo an toàn hoạt 
động ngân hàng và hệ thống tổ chức tín dụng 
như thanh tra đánh giá rủi ro thị trường, cảnh 
báo sớm các rủi ro có thể xảy ra do cơ chế 
điều hành có vấn đề hay do đầu tư cho vay 
vào ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Thứ hai, phương thức tiến hành hoạt động 
thanh tra, giám sát cần có sự thay đổi theo quy 
trình đi từ Hội sở chính, đến các chi nhánh, 
phòng giao dịch cùng với việc xem xét đánh 
giá chiến lược hoạt động, chính sách kinh 
doanh, năng lực quản trị, điều hành, mức độ 
rủi ro, ... rồi mới đến xem xét theo từng vấn đề 
cụ thể, từng mảng hoạt động nghiệp vụ hoặc 
chi nhánh có liên quan để xác định vấn đề tồn 
tại, yêu cầu hiệu chỉnh để nâng cao mức độ 
an toàn cho đơn vị bị giám sát, góp phần bảo 
đảm an toàn và ổn định hệ thống ngân hàng.
Thứ ba, hoạt động thanh tra, giám sát còn 
đơn độc trong giám sát hiệu quả hoạt động của 
tổ chức tín dụng, chưa xem xét và nâng cao vai 
trò giám sát tại chỗ của kiểm toán, kiểm soát 
nội bộ trong từng tổ chức tín dụng, cũng như 
phối hợp với các tổ chức khác như Bảo hiểm 
tiền gửi, các công ty kiểm toán độc lập,... để 
tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát theo 
hướng đánh giá và phòng ngừa rủi ro.
Thứ tư, các cơ quan giám sát, cụ thể là Ngân 
hàng Nhà nước, vừa thực hiện chức năng cấp 
phép, vừa ban hành cơ chế - chính sách, vừa 
thực hiện chức năng hướng dẫn, triển khai 
thực hiện cơ chế chính sách và kiêm luôn vai 
trò kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động. 
Điều này dễ dẫn đến xung đột lợi ích, hiệu 
quả và hiệu lực giám sát không cao.
Thứ năm, các công cụ phục vụ cho giám 
sát dựa trên rủi ro còn thiếu và chưa được 
vận dụng nhiều vào trong thực tiễn. Các mô 
hình phân tích định lượng, dự báo và kiểm 
định đánh giá rủi ro hay cảnh báo sớm đối 
với từng ngân hàng hay toàn hệ thống ngân 
hàng chưa được phát triển và làm giảm đi 
tính chuyên nghiệp và hiệu quả hoạt động 
thanh tra, giám sát.
Thứ sáu, bản thân cơ quan thanh tra, giám 
sát còn hạn chế ở một số phương diện kỹ thuật 
lẫn nguồn nhân lực, trong đó đối với phương 
diện kỹ thuật là việc ứng dụng công nghệ thu 
thập và xử lý thông tin còn lạc hậu, mức độ 
chính xác và tính cập nhật dữ liệu vẫn đang 
là vấn đề cần phải khắc phục; đối với nguồn 
nhân lực thì vừa thiếu về số lượng lại yếu về 
trình độ nghiệp vụ thanh tra, giám sát dựa trên 
việc áp dụng mô hình kiểm định và kiểm tra 
tính hiệu quả của mô hình quản trị rủi ro của 
các tổ chức tín dụng vào trong thực tiễn thanh 
tra, giám sát các tổ chức tín dụng.
Những bất cập trong hoạt động thanh tra, 
giám sát ngân hàng ở Việt Nam tồn tại do các 
nguyên nhân như:
Một là, nguồn nhân lực, con người là yếu 
tố quan trọng quyết định chất lượng công tác 
thanh tra, giám sát. Nhưng chưa có nhiều cán 
bộ thực tế đã trải qua kinh doanh để có kinh 
nghiệm hiểu rõ bản chất kinh doanh của các 
ngân hàng thương mại; hạn chế do thiếu kinh 
nghiệm thực tế, máy móc thiết bị công nghệ 
dùng cho nghiệp vụ thanh tra, giám sát còn 
lạc hậu, yếu chưa thích nghi với công nghệ 
mới trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 
ngày nay; Chính sách lương, thưởng chưa 
đảm bảo làm cho cán bộ thanh tra có toàn tâm 
toàn ý thực hiện công việc thanh tra, giám sát 
ngân hàng.
19
Giải pháp hoàn thiện . . .
Hai là, số liệu thanh tra, giám sát từ xa 
chưa phản ánh đúng thực trạng hoạt động 
kinh doanh của các ngân hàng thương mại, 
khác với số liệu thanh tra tại chỗ.
Ba là, các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá không 
đồng nhất trong báo cáo nên khó tổng hợp, 
phân tích để phản ánh chính xác tình hình 
hoạt động kinh doanh của những ngân hàng 
bị thanh tra, giám sát.
Bốn là, sự bất cập giữa thanh tra, giám sát 
và thực tế phát sinh kinh doanh của ngân hàng 
thương mại trong việc tuân thủ quy định của 
Ngân hàng Nhà nước như lãi suất huy động, 
trạng thái kinh doanh vàng, ngoại tệ, hệ số an 
toàn vốn và khả năng thanh khoản...
Năm là, cơ chế còn có “khoảng trống” 
có thể vận dụng và thanh tra, giám sát ngân 
hàng của Ngân hàng Nhà nước còn “nhẹ tay 
- thường giơ cao đánh kẽ”, cả nể, ít nhiều bị 
chi phối bởi nhiều mối quan hệ đan xen lẫn 
nhau giữa quản lý và kinh doanh.
Xuất phát từ thực trạng nêu trên, tác giả 
nêu một số giải pháp hoàn thiện hoạt động 
thanh tra, giám sát ngân hàng trong giai đoạn 
hiện nay:
3. Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động 
thanh tra, giám sát ngân hàng tại Việt Nam
Thứ nhất: Hoàn thiện khung pháp lý tạo 
điều kiện nền tảng để xây dựng mô hình giám 
sát tài chính nói chung và giám sát ngân hàng 
nói riêng
Hiện nay chúng ta đã cơ bản có được các 
bộ luật cho các ngành ngân hàng, bảo hiểm, 
chứng khoán và hoạt động thanh tra, giám 
sát cũng được đề cập đến trong các bộ luật 
trên. Song nhìn chung vẫn chưa cụ thể và rõ 
ràng. Do đó, cần hướng đến xây dựng cũng 
như hoàn thiện các dự luật, các quy chế về 
giám sát ngân hàng, giám sát hoạt động bảo 
hiểm, giám sát hoạt động chứng khoán nhằm 
tăng cường tính pháp lý cho hệ thống giám sát 
tài chính. Đặc biệt môi trường pháp lý phải 
góp phần tăng cường ý thức trách nhiệm công 
khai thông tin cũng như là thước đo uy tín của 
các đối tượng giám sát.
Thứ hai; Xây dựng cơ chế giám sát phù 
hợp và hiệu quả
Để đảm bảo mục tiêu ổn định tài chính 
của chính sách an toàn vĩ mô trước những 
bất ổn vĩ mô đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng 
được một cơ chế giám sát tài chính phù hợp. 
Cơ chế giám sát tài chính phù hợp trước hết 
phải được xây dựng trên mô hình giám sát tài 
chính hiệu quả. Qua thực tiễn nghiên cứu và 
kinh nghiệm quốc tế cho thấy có một số cơ sở 
cho rằng mô hình giám sát tài chính hợp nhất 
là phù hợp với việc giám sát các rủi ro của hệ 
thống tài chính Việt Nam hiện nay.
Về cơ sở lý thuyết: Mặc dù có những bất 
lợi và khó khăn có thể gặp phải khi chuyển 
sang mô hình giám sát hợp nhất, mô hình này 
có nhiều ưu thế, đó là: Mô hình giám sát hợp 
nhất giúp ngăn ngừa những mâu thuẫn và 
khoảng cách trong các ngành thuộc lĩnh vực 
tài chính; Tạo ra sự nhất quán trong các qui 
định và trong giám sát; Thêm nữa, hệ thống 
này nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát 
và tuân thủ các qui định, chính sách.
- Xu hướng và kinh nghiệm quốc tế: Số 
lượng các nước áp dụng mô hình giám sát tài 
chính hợp nhất ngày càng tăng qua các năm. 
Nhật Bản và Hàn Quốc đã rất thành công khi 
áp dụng HTGSTC hợp nhất từ năm 1997, 
1998. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 
2007-2009, một số quốc gia đặt lại vấn đề về 
hiệu lực và sự phù hợp của hệ thống giám sát 
này. Có 2 quan điểm khi xem xét lại xu hướng 
củng cố hệ thống giám sát tài chính hợp nhất 
sau khủng hoảng đó là: i/ khẳng định sự phù 
hợp và tiếp tục theo đuổi và hoàn thiện mô 
20
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hình giám sát tài chính hợp nhất. Điển hình là 
các quốc gia châu Á: Singapore, Hàn Quốc, 
Nhật Bản; ii/ Chuẩn bị điều kiện để cải cách 
hệ thống giám sát tài chính theo hướng hợp 
nhất hơn. Theo quan điểm này, mỗi quốc gia 
có sự lựa chọn riêng nhưng nhìn chung đều 
nhìn nhận một mô hình hợp nhất sẽ giúp để 
có cái nhìn tổng quan cả hệ thống. Theo xu 
hướng này phải kể đến hệ thống giám sát của 
Mỹ, Đức. 
- Xuất phát từ thực trạng hệ thống tài chính 
Việt Nam và những bất cập của HTGSTC 
hiện tại cũng như các yếu tố khác đòi hỏi Việt 
Nam phải chuyển sang HTGSTC hợp nhất:
Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống 
tài chính cả về qui mô, sự đa dạng về dịch vụ 
và việc đan xen các sản phẩm tài chính mới... 
trong thời gian qua và xu hướng phát triển 
hệ thống tài chính trong 10 năm tới cần thiết 
phải xây dựng HTGSTC hợp nhất để giám 
sát an toàn vĩ mô và cho tất cả các lĩnh vực 
tài chính trong điều kiện ranh giới giữa các 
định chế tài chính và các dịch vụ tài chính 
ngày càng mờ nhạt.
Quá trình tự do hoá tài chính bên cạnh 
những tác động tích cực cũng làm tăng nguy 
cơ bất ổn cho môi trường kinh tế vĩ mô và 
trong từng lĩnh vực tài chính, từng định chế 
tài chính của Việt Nam. Để đối phó với những 
rủi ro có thể xảy ra trong xu hướng tự do hoá 
tài chính ngày càng rộng và sâu, việc lựa chọn 
mô hình giám sát tài chính hợp nhất cho Việt 
Nam trong tương lai là phù hợp.
Từ các lý do trên, việc lựa chọn mô hình 
giám sát tài chính hợp nhất trên nền tảng 
HTGSTC hiện tại của Việt Nam là hoàn toàn 
thích hợp và khả thi. Đương nhiên việc hoàn 
thiện chức năng và cơ chế vận hành hệ thống 
giám sát hợp nhất đòi hỏi sự quyết tâm, lộ 
trình thích hợp và hệ thống giải pháp đồng bộ.
Thứ ba: Thực hiện các biện pháp nhằm 
tăng cường minh bạch tài chính, nâng cao độ 
tin cậy của hệ thống thông tin tài chính
Đây là hệ thống các giải pháp kết hợp cả 
về kinh tế - chính trị và xã hội bao gồm:
Ban hành những quy định cụ thể về chế độ 
công khai tài chính, trong đó cần xác định cụ 
thể mức độ công khai của các loại thông tin 
tài chính, loại nào phải minh bạch, loại nào 
được cấp phép bảo mật;
Tăng cường pháp chế tài chính với các 
hình thức chế tài thích hợp khi vi phạm chế 
độ công khai thông tin của các đối tượng bị 
giám sát;
Xây dựng hệ thống thông tin đa chiều từ 
các cơ quan quản lý, từ các đối tượng giám sát, 
từ khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính. 
Đặc biệt cần thành lập các doanh nghiệp đánh 
giá, xếp hạng tín nhiệm để làm tăng thêm 
nguồn tư liệu từ thông tin tài chính;
Hoàn thiện hệ thống kế toán- kiểm toán 
theo chuẩn mực quốc tế. Đặc biệt nhà nước 
cần có biện pháp ngăn chặn tình trạng cạnh 
tranh không lành mạnh thông qua giảm phí 
kiểm toán trong hoạt động kiểm toán hiện 
nay, vì điều này sẽ làm ảnh hưởng đến chất 
lượng thông tin công bố;
Thực hiện công tác tuyên truyền nâng 
cao ý thức các ngân hàng thực hiện minh 
bạch tài chínhtiến đến cần xem việc minh 
bạch tài chính là thước đo đánh giá sự tín 
nhiệm, uy tín của các đối tượng giám sát 
được cơ quan giám sát công bố trước thị 
trường theo định kỳ.
Thứ tư: Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa 
các cơ quan 
Mục tiêu ổn định tài chính cũng có thể 
coi là điều kiện để đạt mục tiêu của các 
chính sách vĩ mô khác (chính sách tiền tệ, 
chính sách tài khóa, chính sách quản lý nợ 
21
Giải pháp hoàn thiện . . .
công). Do đó, mục tiêu ổn định tài chính 
của chính sách an toàn vĩ mô sẽ rất khó 
đạt được nếu chỉ xuất phát từ phía NHNN. 
Mối tương tác của chính sách an toàn vĩ 
mô với các chính sách vĩ mô khác đòi hỏi 
có cơ chế phối hợp hiệu quả và đồng bộ 
trong nội bộ NHNN cũng như giữa NHNN 
với các Bộ/ngành nhằm mục tiêu ổn định 
tài chính, xử lý và phòng ngừa rủi ro hệ 
thống ngân hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Hồ Xuân Phương (2003), Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng Tài chính – Tiền tệ ở Việt Nam, Viện 
khoa học tài chính- Học viện tài chính-NXB Tài chính 2003.
[2]. Ngân hàng nhà nước (1999), Quyết định số 398/1999/QĐ-NHNN ngày 9/11/1999 của NHNN về 
việc ban hành Quy chế giám sát từ xa đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam.
[3]. Ngân hàng nhà nước (2009), Quyết định số 83/2009/QĐ/TTg về việc qui định chức năng, nhiệm vụ, 
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
[4]. Ngân hàng nhà nước (2009), Sổ tay thanh tra trên cơ sở rủi ro, Cơ Quan Thanh tra, Cơ quan Thanh 
tra, giám sát ngân hàng.
[5]. Ngân hàng nhà nước. Dự án cải cách ngân hàng
[6]. Trần Kim Chung (2013), Hệ thống giám sát tài chính: từ lý luận đến thực tiễn: www.tapchitaichinh.
vn 
[7]. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 79/2009/QĐ-TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt 
động của uỷ ban giám sát tài chính quốc gia, ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2009.
[8]. Tô Ngọc Hưng (2013), Thực trạng và giải pháp giám sát tài chính tại Việt Nam, Tạp chí Tài chính, 
số 10, tr 36-41

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_hoan_thien_hoat_dong_thanh_tra_giam_sat_ngan_hang.pdf