Giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học

Rèn kỹ năng mềm cho sinh viên là một yêu cầu khách quan đang được quan tâm

nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Bài viết

đề cập tới một số khái niệm có liên quan tới kỹ năng mềm, vai trò và biện pháp

nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học.

pdf 6 trang yennguyen 4620
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học

Giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học
No.15_Mar 2020|Số 15 – Tháng 3 năm 2020|p.49-54 
49 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
ISSN: 2354 - 1431 
Giải pháp nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học 
Phạm Thị Quyên a* 
a Trường Đại học Tân Trào 
*Email: phamquyen1985@gmail.com 
Thông tin bài viết Tóm tắt 
Ngày nhận bài: 
19/12/2019 
Ngày duyệt đăng: 
10/3/2020 
Rèn kỹ năng mềm cho sinh viên là một yêu cầu khách quan đang được quan tâm 
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Bài viết 
đề cập tới một số khái niệm có liên quan tới kỹ năng mềm, vai trò và biện pháp 
nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng mềm cho sinh viên các trường đại học. 
Từ khóa: 
Kỹ năng mềm; phát triển kỹ
năng mềm cho sinh viên;
biện pháp rèn kỹ năng mềm. 
1. Đặt vấn đề 
Hoạt động nghề nghiệp phụ thuộc vào năng lực và 
trình độ được đào tạo của mỗi cá nhân, năng lực của 
mỗi cá nhân được cấu trúc bởi hai thành phần, đó là 
năng lực cốt lõi và năng lực chung. Phần năng lực cốt 
lõi là hệ thống kiến thức chuyên môn và kỹ năng (KN) 
nghề nghiệp; phần năng lực chung là những kiến thức, 
KN bổ trợ giúp cho kiến thức, KN chuyên môn được 
tiến hành có hiệu quả. Thực tế cho thấy, sự thành đạt 
của mỗi người phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống KN 
bổ trợ hay còn gọi là kỹ năng mềm (KNM), theo nhà 
nghiên cứu Rani S. cho rằng, sự thành đạt của con 
người do KNM và chỉ số EQ quyết định tới 75% [7, tr. 
55]. Nhờ có KNM mà tư duy của mỗi cá nhân trở nên 
linh hoạt hơn, sáng tạo hơn, mềm dẻo hơn; đồng thời 
có cơ hội hợp tác, chia sẻ cùng người khác, thích ứng 
với thế giới việc làm luôn biến đổi. KNM không tồn 
tại độc lập mà nó gắn kết với KN chuyên môn tạo nên 
năng lực hành động của mỗi người hay không do tư 
chất của cá nhân quyết định mà được hình thành, phát 
triển và ngày càng hoàn thiện thông qua quá trình trải 
nghiệm nghề nghiệp, học tập, rèn luyện và thực tế 
cuộc sống. 
Trong những năm qua, đi đôi với sự phát triển về 
quy mô và số lượng đào tạo ở các trường đại học dẫn 
tới sự tăng trưởng nóng về nguồn nhân lực có trình độ 
cao. Tuy nhiên, vấn đề chất lượng đào tạo mới chỉ tập 
trung vào cung cấp kiến thức, chưa chú ý nhiều đến 
rèn các KN chuyên môn, đặc biệt là KNM dẫn tới tình 
trạng sinh viên (SV) hạn chế về KN giao tiếp, KN làm 
việc nhóm, KN thuyết phục... KN thích ứng, tự ứng 
phó với những thay đổi của nghề nghiệp và thị trường 
lao động. Bởi vậy, giảng viên (GV) cần thực hiện các 
biện pháp nâng cao chất lượng rèn KNM cho SV, từ 
đó nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số khái niệm có liên quan 
Để làm cơ sở nghiên cứu nội dung nâng cao chất 
lượng rèn KNM cho SV các trường đại học, chúng tôi 
sử dụng khái niệm công cụ sau: 
2.1.1. Kỹ năng: Có nhiều khái niệm về KN 
nghiêng về mặt kỹ thuật của hành động hay khả năng 
thể hiện ở kết quả của hành động. Song hầu hết các tác 
giả đều cho rằng, KN là sản phẩm của quá trình tư 
duy, tích lũy kinh nghiệm của con người trong hoạt 
P.T.Quyen/ No.15_Mar 2020|p.49-54 
50 
động thực tiễn. KN là bậc cao của thao tác kỹ thuật 
mang tính thành thạo, chủ động và có kết quả ổn định. 
Nói cách khác, KN là năng lực của con người sử dụng 
tri thức, các phương tiện, cách thức hành động một 
cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh, điều 
kiện biến động của thực tiễn, hành động luôn gắn với 
mục tiêu và điều kiện xác định, chính mục tiêu, điều 
kiện xác định quyết định loại thao tác và trật tự thao 
tác trong hành động. Khi điều kiện biến động với các 
mức độ khác nhau thì thao tác và trật tự của chúng 
cũng phải thay đổi tương ứng. KN bao giờ cũng gắn 
với một hoạt động cụ thể ở các lĩnh vực khác nhau. Kế 
thừa những quan niệm trên, chúng tôi đưa ra khái 
niệm: Kỹ năng là một dạng hành động của con người 
vận dụng sáng tạo tri thức, kinh nghiệm và cách thức 
hành động vào hoạt động thực tiễn trong các điều kiện 
và hoàn cảnh cụ thể, thực hiện có kết quả theo mục 
đích hay tiêu chí đã đặt ra [2, tr. 12]. 
2.1.2. Kỹ năng sống (KNS): Có nhiều quan niệm 
khác nhau, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những quan 
niệm khác nhau về KNS, chúng tôi xác định: KNS là 
hệ thống các kỹ năng cơ bản giúp cá nhân tồn tại và 
thích ứng trong cuộc sống; những kỹ năng này giúp cá 
nhân thể hiện được chính mình cũng như tạo ra những 
nội lực cần thiết để thích nghi và phát triển trong các 
điều kiện khác nhau của cuộc sống [2, tr. 12-13]. 
2.1.3. Kỹ năng cứng: KN này thường được hiểu là 
những kiến thức, đúc kết và thực hành có tính chất kỹ 
thuật nghề nghiệp và liên quan đến chỉ số thông minh 
(IQ) của cá nhân. KN cứng là KN nền tảng, được đo, 
đào tạo từ nhà trường. KN cứng được phát triển dần từ 
mức độ thấp lên các mức độ cao hơn, thông qua quá 
trình dạy học, tự học, thực hành, hoạt động thực tiễn 
một cách hệ thống. KN cứng thường xuất hiện trên 
bản lý lịch về khả năng học vấn, kinh nghiệm và sự 
thành thạo về chuyên môn của mỗi con người. Như 
vậy, KN cứng là những KN nghề nghiệp thể hiện trình 
độ học vấn hay bằng cấp và chứng chỉ, kinh nghiệm 
và sự thành thạo về chuyên môn qua hành vi, hành 
động của mỗi con người [1, tr 8]. 
2.1.4. Kỹ năng mềm: Là thuật ngữ dùng để chỉ các 
KN quan trọng trong cuộc sống, thể hiện cách sống, 
cách tích lũy kinh nghiệm từ cuộc sống và được xem 
là chìa khóa vàng dẫn đến thành công của mỗi con 
người. KNM có được từ hoạt động thực tế cuộc sống, 
hoạt động nghề nghiệp và liên quan đến chỉ số về trí 
tuệ cảm xúc (EQ) của con người. KNM là khả năng 
làm cho hành vi và sự thay đổi của mình phù hợp với 
cách ứng xử tích cực của con người, kiểm soát, quản 
lý có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong 
cuộc sống. 
Theo Radhika Ch. KNM được định nghĩa: “Là kỹ 
năng giao tiếp giữa người này với người khác và KN 
cư xử mà con người cần để có thể ứng dụng được 
những kiến thức cũng như các KN chuyên môn ở nơi 
làm việc” [6, tr.25]. Theo Rani S: [7, tr. 55], "KNM là 
những kỹ năng mà con người sử dụng để hành xử, làm 
việc với nhau, giải quyết các mâu thuẫn, thân thiện, 
lạc quan và thuyết phục người khác". Tác giả Alex K. 
lại cho rằng: “KNM là các KN giúp con người sử 
dụng các KN chuyên môn và kiến thức thực tế hiệu 
quả hơn, giúp bạn tiến xa hơn trong một nghề nghiệp 
nào đó” [4, tr. 36]. Khái niệm KNM có nhiều cách tiếp 
cận khác nhau, chúng tôi sử dụng khái niệm: KNM là 
hệ thống các KN cơ bản được thực hiện tự giác dựa 
trên tri thức về công việc, khả năng hòa nhập xã hội, 
thái độ và hành vi ứng xử hay tương tác với xã hội, 
cộng đồng, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác, tổ chức của 
mỗi cá nhân nhằm phát huy tối đa hiệu quả công việc 
và thành đạt trong cuộc sống. 
2.2. Vai trò của KNM đối với SV các trường đại học 
KNS theo nghĩa rộng là giúp con người có khả 
năng tồn tại và thích ứng trước cuộc sống thực tế, là 
một năng lực quan trọng để con người làm chủ được 
bản thân và chung sống, thích ứng với mọi người xung 
quanh, với xã hội; với môi trường, với thiên nhiên, 
một cách hiệu quả. 
 KNM giúp cá nhân tồn tại, thành công trong công 
việc hay trong những mối quan hệ với người khác, 
hướng đến giúp mỗi cá nhân thích nghi trong công 
việc, tương tác hiệu quả với người khác và thúc đẩy 
công việc đạt hiệu quả cao. KNM phụ thuộc vào nghề 
nghiệp, đặc biệt là đối tượng của nghề nghiệp hướng 
đến. Mỗi con người để có một công việc, tất yếu họ 
phải được đào tạo đủ KN chuyên môn (KN cứng) đáp 
ứng các yêu cầu tối thiểu của vị trí công việc. KN 
cứng giúp con người bước vào ngưỡng cửa của nghề 
nghiệp, vị trí làm việc, Song các KNM mới là thứ 
giúp cho họ vững vàng trong nghề nghiệp, giữ được 
việc làm và thành đạt trong cuộc sống. Thái độ đối với 
công việc, giao tiếp, trí tuệ tình cảm và các đức tính, 
giá trị cá nhân khác là những KNM không thể thiếu để 
mỗi người phát triển nghề nghiệp. KNM luôn đồng 
hành cùng KN cứng và KNM bổ trợ cho các KN cứng 
được phát huy, phát triển. Nhờ có sự kết hợp giữa KN 
cứng và KNM giúp cho mỗi cá nhân có được sự thành 
công trong quá trình phát triển nghề nghiệp của mình, 
P.T.Quyen/ No.15_Mar 2020|p.49-54 
51 
họ khẳng định được vị trí của mình trong tổ chức, xã 
hội [3, tr. 27-29]. 
Xã hội tri thức đòi hỏi con người ngoài năng lực 
chuyên môn cần phải có hệ thống các KNM để thích 
ứng với môi trường luôn biến đổi của thị trường lao 
động và thế giới việc làm. Trong xã hội tri thức, KNM 
giúp con người có khả năng giải quyết linh hoạt, sáng 
tạo các vấn đề của cuộc sống và nghề nghiệp đặt ra, sử 
dụng hiệu quả kiến thức, KN cứng trong lao động 
nghề nghiệp, phát triển chuyên môn và dịch chuyển 
nghề nghiệp trong thế giới việc làm luôn thay đổi. 
Trong nghiên cứu về: "Vai trò của giáo dục đối với 
sự hình thành các KNM" tác giả Greenberg A.D. và 
Nilssen A.H. đã đưa ra kết luận: Các nhà trường phải 
trang bị tốt hơn cho người học những kiến thức và 
KNM cần thiết để họ có thể sẵn sàng làm việc sau khi 
ra trường [5, tr.28]. Vì vậy, các chương trình phát triển 
KMN trong giáo dục nghề nghiệp cần tích hợp vào các 
chương trình dạy KN nghề nghiệp nhằm thực hiện 
mục tiêu kép, đó là tăng cường cho người học cơ hội 
học tập, chuẩn bị bước vào thế giới công việc bằng 
việc tạo cho họ đầu vào là những KN nghề nghiệp 
được đào tạo. Đồng thời, tăng tính hiệu quả và sự phù 
hợp của người học với các KN nghề được đào tạo (đáp 
ứng thị trường lao động, mong muốn của cá nhân về 
sự thăng tiến, thu nhập...). Như vậy, rèn KNM cho SV 
là đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội. 
2.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả rèn 
KNM cho SV 
 Để nâng cao hiệu quả rèn KNM cho SV, GV cần 
sử dụng phối kết hợp nhiều biện pháp tùy thuộc vào 
nội dung, điều kiện, hoàn cảnh của nhà trường và SV. 
Đây là cách thức, con đường tổ chức các hoạt động 
rèn KNM cho SV, giúp KNM của SV tiến triển theo 
chiều hướng tăng lên từ mức độ thấp đến mức độ cao 
hơn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn [3, tr. 27-
29]. Trong nghiên cứu này chúng tôi đề xuất 3 biện 
pháp sau. 
2.3.1. Biên soạn tài liệu hướng dẫn giảng dạy 
KNM 
Biên soạn tài liệu hướng dẫn giảng dạy KNM 
nhằm trang bị cho GV những tri thức, đặc điểm các 
KNM; phát triển chương trình, thiết kế nội dung bài 
giảng, sử dụng các phương pháp giảng dạy, đánh giá 
phù hợp. Ngoài ra, thông qua tài liệu bồi dưỡng giúp 
GV tự bồi dưỡng năng lực giảng dạy KNM và coi như 
là cẩm nang để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy 
KNM cho SV. 
Mục tiêu của tài liệu được biên soạn là trợ giúp 
cho GV thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, tích hợp giảng 
dạy KNM cho SV. Thực hiện biện pháp này gồm 2 
nội dung sau: 
1/ Tài liệu hướng dẫn thiết kế module dạy học 
KNM gồm nội dung: - Hướng dẫn cách xây dựng các 
module dạy học KNM; - Hướng dẫn xây dựng các tiểu 
module, tài liệu cần giúp GV hiểu về module, tiểu 
module dạy học KNM và cách lắp ráp các tiểu module 
với nhau để đạt được mục tiêu dạy học; - Hướng dẫn 
cách xác định hệ vào của module: Hệ vào của module 
phải được thiết kế dựa trên tính vấn đề của nội dung 
dạy học và năng lực nhận thức, trình độ đạt được ở 
SV, hệ vào của modul được thiết kế chuẩn có tác dụng 
định hướng năng lực và định hướng hành động cho 
SV trong quá trình thực hiện thân module và hệ ra của 
module; - Hướng dẫn xây dựng thân module: Thân 
module chứa đựng các hành động học tập, rèn luyện 
của SV dưới vai trò định hướng của GV, vì vậy đòi 
hỏi việc thiết kế thân module phải khoa học, logic và 
đảm bảo tính sư phạm, tính mục đích khi rèn KNM 
cho SV; - Hướng dẫn xây dựng hệ ra của module, bởi 
hệ ra của module có tác dụng đánh giá sơ bộ kiến 
thức, KN của SV đã đạt được thông qua quá trình 
tham gia hoạt động ở thân module; - Hướng dẫn xây 
dựng hệ thống thông tin phản hồi, hệ thống bài tập 
thực hành rèn luyện KNM cho SV và các biện pháp, 
kỹ thuật dạy học theo module, những điểm GV cần 
lưu ý trong quá trình tổ chức thực hiện. 
2/ Hướng dẫn giảng dạy các module KNM, bao 
gồm: - Hướng dẫn xác định các module giảng dạy 
KNM, nội dung phát triển KNM cho SV phù hợp để 
đạt tới các mục tiêu đã đề ra; - Hướng dẫn GV lựa 
chọn các hình thức tổ chức dạy học, phương pháp 
giảng dạy và học tập phù hợp giúp chuyển tải được 
nội dung môn học, nội dung phát triển KNM và đạt tới 
mục tiêu; - Hướng dẫn GV xác định các phương pháp 
đánh giá phù hợp (động viên, khuyến khích, đánh giá 
đúng trình độ của người học). Đề ra tiêu chuẩn, tiêu 
chí đánh giá cụ thể, công khai gồm: + Đánh giá 
thường xuyên: Kiểm tra thường ngày trên lớp thông 
qua phát biểu, thảo luận, kết quả bài tập cá nhân, 
nhóm được giao, kết quả thực hành,; + Đánh giá 
định kỳ: Được thực hiện bằng cách giao bài tập cho cá 
nhân (hoặc nhóm) /tuần (tháng). Bài tập lớn (tiểu luận) 
học kỳ (hình thức bài tập nghiên cứu hoặc nhóm dự 
án); + Đánh giá cuối kỳ (hoặc hết môn): Được thực 
hiện bằng bài tổng luận môn học (mức độ biết phát 
hiện vấn đề, biết vận dụng, giải quyết vấn đề). Tất các 
P.T.Quyen/ No.15_Mar 2020|p.49-54 
52 
những hướng dẫn nêu trên phải được GV thể hiện 
trong đề cương môn học và chương trình đào tạo của 
từng chuyên ngành. 
Điều kiện thực hiện biện pháp là chuyên gia biên 
soạn tài liệu hướng dẫn về giảng dạy KNM phải là 
người am hiểu sâu về khoa học kinh tế, tài chính, quản 
trị kinh doanh, hiểu biết sâu về KNM và quá trình 
giảng dạy, rèn luyện, phát triển KNM cho SV. Tài liệu 
phải được biên soạn theo từng phần, dễ hiểu và thuận 
lợi cho GV tự nghiên cứu, vận dụng hiệu quả. Do đó, 
GV cần nhận thức rõ ràng, đầy đủ về tầm quan trọng 
và vai trò của năng lực giảng dạy nói chung, năng lực 
giảng dạy KNM nói riêng đối với việc nâng cao chất 
lượng đào tạo của nhà trường. Từ đó có ý thức tự 
nghiên cứu, tự bồi dưỡng, rèn luyện năng lực giảng 
dạy trong suốt quá trình dạy học của mình. 
2.3.2. Tổ chức dạy học tích hợp phát triển KNM 
cho SV 
KNM chỉ được hình thành, phát triển thông qua 
hoạt động, bằng hoạt động. Vì vậy, trong mỗi giờ lên 
lớp bất kỳ một môn học nào, GV đều phải quan tâm 
rèn luyện cho SV hệ thống các KNM cần thiết, việc 
làm đó phải được tiến hành ngay từ khâu thiết kế bài 
giảng. Biện pháp này giúp GV thông qua nội dung 
môn học chuyên môn, tích hợp KNM trong quá trình 
thiết kế bài giảng phần phương pháp, biện pháp, kỹ 
thuật dạy học, tạo môi trường, tăng cường rèn luyện 
KNM cho SV. Môi trường học tập các môn học được 
thiết kế theo hướng tăng cường hoạt động, giúp SV có 
cơ hội được thực hành các KNM, qua đó phát triển 
KNM cho SV. Để giờ học thành công, đạt hiệu quả thì 
ngay từ khâu thiết kế bài giảng GV đã phải thể hiện 
tường minh từng nội dung hoạt động, từng KN được 
rèn luyện, tập luyện trong các giờ học sẽ tiến hành. 
Việc thiết kế bài giảng có tích hợp KNM cho SV là cơ 
sở để GV tổ chức bài học thành công, hiệu quả, giúp 
GV biến những mục tiêu về phát triển KNM cho SV 
thành hành động thực tiễn ở SV. 
KNM không tồn tại độc lập mà nó có mối quan hệ 
mật thiết với KN chuyên môn. Vì vậy, GV cần có KN 
tổ chức dạy học theo hướng tích hợp KNM để phát 
triển KNM, việc phát triển KNM cần được phối kết 
hợp trong quá trình hình thành và phát triển KN 
chuyên môn cho SV. Dạy học theo hướng tích hợp 
phát triển KNM cho SV nhằm tận dụng kép thời gian 
và nguồn lực trong các môn học. Mặt khác, tích hợp 
việc học kiến thức chuyên ngành và phát triển KNM 
giúp SV phát triển kiến thức chuyên ngành sâu hơn. 
Về phía GV sẽ đưa các KNM phù hợp vào chuẩn đầu 
ra của môn học do GV phụ trách, tạo cơ hội cho SV 
phát triển các KN này thông qua hoạt động giảng dạy 
và học tập trên lớp. 
 Lồng ghép, tích hợp phát triển KNM cho SV 
trong dạy học môn học theo các bước sau: 
- Bước 1: Công bố mục tiêu bài học và mục tiêu 
phát triển KNM cần lồng ghép, tích hợp để SV định 
hướng hành động. GV cần nêu rõ mục tiêu kiến thức 
KN chuyên môn và các KNM mà SV cần rèn luyện 
qua bài học. Định hướng cách thức rèn luyện cho SV 
qua quá trình tham gia hoạt động và lĩnh hội, rèn 
luyện kiến thức, KN chuyên môn, trải nghiệm thực tế 
nghề nghiệp và cuộc sống. 
- Bước 2: Tạo môi trường hoạt động học tập để SV 
lĩnh hội kiến thức, KN chuyên môn và rèn luyện các 
KNM GV có thể sử dụng những biện pháp kĩ thuật 
hiện đại để tạo môi trường học tập, rèn luyện cho SV 
(ví dụ như phương pháp xử lý tình huống, nghệ thuật 
phá vỡ tảng băng, phương pháp tổ chức trò chơi, kỹ 
thuật phòng tranh hay sử dụng các kỹ thuật khác) 
với mục đích tạo ra tâm lý thoải mái, tự tin, khích lệ 
SV tích cực tham gia hoạt động, rèn luyện để phát 
triển kiến thức, KN chuyên môn và KNM. 
- Bước 3: Tổ chức các tình huống dạy học để hình 
thành tri thức, KN chuyên môn và KNM cho SV. Bài 
học được thực hiện theo các tình huống dạy học, trong 
đó chứa đựng tình huống có vấn đề buộc người học 
phải tích cực tham gia để rèn luyện KNM, thông qua 
các tình huống dạy học GV có nhiệm vụ thu hút người 
học hoạt động trải nghiệm để lĩnh hội kiến thức, KN 
chuyên môn và KNM. 
Khi tổ chức bài dạy theo quan điểm tích hợp, GV 
không chỉ chú trọng nội dung kiến thức tích hợp mà 
còn phải quan tâm tổ chức một hệ thống hoạt động, 
thao tác tương ứng giúp tổ chức, dẫn dắt người học 
từng bước thực hiện để hình thành năng lực và KNM. 
Bài dạy lồng ghép, tích hợp phát triển KNM phải là 
một giờ học có những hoạt động phức hợp đòi hỏi sự 
tích hợp các kiến thức, KN chuyên môn, KNM để giải 
quyết tình huống nghề nghiệp và cuộc sống. 
Điều kiện thực hiện biện pháp là GV phải giỏi về 
kiến thức chuyên môn giảng dạy, am hiểu sâu về 
KNM; có KN sư phạm tốt, am hiểu và làm chủ các 
phương pháp, phương tiện, biện pháp kỹ thuật dạy học 
(đặc biệt là sử dụng phương tiện dạy học hiện đại) 
chiếm ưu thế trong việc phát triển KNM cho SV. 
Ngoài ra, GV phải là người có KN thiết kế kịch bản 
rèn luyện KNM cho SV trong quá trình thiết kế bài 
học. Để tổ chức dạy học lồng ghép, tích hợp phát triển 
P.T.Quyen/ No.15_Mar 2020|p.49-54 
53 
KNM thành công đòi hỏi GV phải biên soạn được 
giáo án tích hợp nội dung phát triển KNM phù hợp với 
trình độ của người học, điều kiện thực tiễn của cơ sở 
đào tạo, nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu, nội dung và 
thời gian đã quy định. 
2.3.3. Đổi mới hoạt động đánh giá kết quả học tập 
của SV theo tiếp cận năng lực 
Điều này tạo động lực cho quá trình rèn luyện KN 
chuyên môn và KNM của của SV đạt hiệu quả cao, 
kích thích SV tích cực vươn lên trong học tập, rèn 
luyện để phát triển toàn diện về năng lực, phẩm chất 
nhân cách. Thông qua hoạt động đánh giá giúp GV và 
cá nhân SV quan tâm nhiều hơn đến việc SV “làm 
được gì?”, “vận dụng được gì?” từ những điều đã học 
trong thực tiễn học tập, lao động nghề nghiệp và cuộc 
sống. Đổi mới hoạt động kiểm tra, đánh giá sẽ tạo 
động lực cho quá trình dạy học, giáo dục phát triển và 
SV tích cực rèn luyện KN chuyên môn, KNM, giúp 
SV khẳng định năng lực của mình, từ đó có kế hoạch 
tự hoàn thiện bản thân. 
Đổi mới cách đánh giá phải bắt đầu từ đổi mới 
cách dạy, GV cần đổi mới từ thiết kế đề cương chi tiết 
môn học, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, phương 
pháp dạy học theo tiếp cận năng lực, quan tâm đến 
việc giúp SV hiểu và vận dụng kiến thức nhiều hơn là 
yêu cầu SV phải học thuộc lòng và ghi nhớ một cách 
máy móc những kiến thức đã học. 
Trước tiên GV cần thiết kế được hệ thống các mục 
tiêu học tập có tích hợp KNM theo 3 cấp độ khác 
nhau: - Nhận biết, tái hiện; - Hiểu, vận dụng; vận dụng 
thành thạo trong những tình huống khác nhau; - Giải 
quyết vấn đề dựa trên sự phân tích, tổng hợp, đánh giá 
thể hiện quan điểm cá nhân. 
Từ hệ thống mục tiêu ở 3 cấp độ nêu trên, GV thiết 
lập ma trận ngân hàng câu hỏi theo 3 cấp độ khác 
nhau để đánh giá năng lực của SV qua hình thức đánh 
giá. Hình thức này càng được đa dạng hóa bao nhiêu 
thì kết quả đánh giá càng khách quan bấy nhiêu. Vì 
vậy, GV cần đa dạng hóa các hình thức đánh giá như: 
Đánh giá cá nhân, đánh giá kết quả của nhóm, đánh 
giá tự học, chuẩn bị bài ở nhà, đánh giá tiểu luận, bài 
tập, kết quả thực hành, kiểm tra định kỳ, thi tổng kết 
cuối kỳ Mục đích đánh giá không chỉ là điểm số mà 
là sự tiến bộ về năng lực của SV. Quá trình dạy học 
phải bám sát năng lực của SV, tùy trình độ và đặc 
điểm hiện có của SV mà cách thức tác động sẽ khác 
nhau để SV thích học, hứng thú với hoạt động học tập 
và tích cực học tập. Hay nói cách khác, để đảm bảo 
đánh giá theo năng lực GV cần tiến hành tổ chức dạy 
học phân hóa một cách hiệu quả. Cho nên, những 
thông tin phản hồi thường xuyên của GV đối với SV 
cần được thực hiện một cách nghiêm túc giúp SV điều 
chỉnh kịp thời, qua đó GV cũng điều chỉnh về hình 
thức tổ chức, phương pháp dạy học phù hợp. 
Điều kiện thực hiện biện pháp này là những quy 
định về đánh giá kết quả học tập của SV theo tiếp cận 
năng lực cần được thể hiện ngay khi thiết kế chương 
trình dạy học, GV và cán bộ quản lý cần thay đổi nhận 
thức về phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá 
hiện nay. GV cần nắm vững quy trình, cách thức tiến 
hành kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận năng lực. Nhà 
trường cần có hệ thống văn bản hướng dẫn và quản lý 
hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, rèn 
luyện của SV theo tiếp cận năng lực. 
3. Kết luận 
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về 
KNM, chúng tôi đã đề xuất 3 biện pháp với mục đích 
nâng cao hiệu quả việc rèn KNM cho SV các trường 
đại học. Để các biện pháp được thực hiện mang lại kết 
quả cần có sự đồng thuận, nhất quán về nhận thức 
trong cán bộ, GV, viên chức, SV nhà trường về tầm 
quan trọng rèn KNM cho SV. Cần xác định nội dung, 
hình thức và phương pháp đào tạo, giáo dục phù hợp, 
hiệu quả để phát triển kỹ năng nói chung, KNM nói 
riêng cho SV, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo 
của nhà trường. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện đầu tư 
kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị để nhà trường tổ 
chức các hoạt động giáo dục, dạy học theo hướng chủ 
động, sáng tạo và tăng cường hoạt động của SV, tạo 
môi trường để SV phát triển kỹ năng (KN nghề 
nghiệp, KNM), nâng cao chất lượng đào tạo, thực hiện 
đào tạo theo yêu cầu thị trường lao động. Ban hành cơ 
chế chính sách giúp gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường 
với doanh nghiệp; các cơ quan, tổ chức trong quá trình 
đào tạo; thực hiện đào tạo gắn với yêu cầu xã hội 
trong thời kì mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa (2012), 
Hoạt động giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho 
học sinh trung học, Tài liệu tập huấn/bồi dưỡng giáo 
viên của Bộ GD&ĐT tập 1, trang 8, Hà Nội. 
2. Huỳnh Văn Sơn (2009), Nhập môn kĩ năng 
sống, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, trang 12-13. 
3. Tạ Quang Thảo (2014), Phát triển kỹ năng mềm 
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng đáp ứng 
yêu cầu của thị trường lao động trong giai đoạn hiện 
P.T.Quyen/ No.15_Mar 2020|p.49-54 
54 
nay, Tạp chí giáo dục, số 329 kì 01, trang 27, 28, 29, 
tháng 3/2014. 
4. Alex K. (2010), Soft skills: Knowing yourself & 
Know the World, New Delhi: S. Chnd. & Company 
Ltd, page 36, 2010. 
5. Greenberg A. D. & Nilssen A.H. (2015), The 
role of education in building soft skills, Wain house 
Research, LLC, page 28, 2015. 
6. Radhika Ch (2013), Soft skills - A buzz word in 
the new millennium, Indian Streams Research 
Journal, Volume 3, Issue 7, ISSN 2230-7850, page 
25, 2013. 
7. Rani S (2010), Need and importance of soft 
skills in students, Sri Sarada College for Women, 
Salem - 636016, page 55, 2010. 
Solutions to improve efficiency of soft skills for students in universities 
Pham Thi Quyen 
Article info Abstract 
Recieved: 
19/12/2019 
Accepted: 
10/3/2020 
Training soft skills for students is an objective mission that is caring to enhance the 
training quality and meet the social demand. This article mentions some definitions 
that are related to soft skills, function and solution to improve efficiency of soft skills 
for students in universities. 
Keywords: 
Soft skills; improve soft 
skills for students; 
solution to improve soft 
skills. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_hieu_qua_ren_ky_nang_mem_cho_sinh_vien_ca.pdf