Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ

1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT

SƯ BÀO CHỮA

Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là một chế

định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt. Hoạt động tranh

tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế Tòa án gắn với việc tổ

chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận quyền được bào chữa, đảm bảo

tự do, nhân quyền của các đương sự.

Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các quy

định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình thành sau

khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp luật về luật sư là

một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ nghĩa thực dân và đế quốc

xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước

thực dân và bán nước.

Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh dấu bởi

thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh

đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng nhân quyền, đảm bảo

quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị

can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên

ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ

chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho

phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh

số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư, trong đó nêu

rõ: “Cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn

tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành5

với các điều sửa đổi sau này (.) các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả

các tòa án (.)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu chuẩn để được

làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ;

có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ)

ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật

sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều

nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và

đủ tư cách làm luật sư tập sự. Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch

Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù

hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam.

pdf 41 trang yennguyen 8020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)

Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)
 1
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH 
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA 
Chủ biên 
Bùi Thị Phương Quỳnh 
GIÁO TRÌNH 
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ 
(Giáo trình đào tạo từ xa) 
 Vinh - 2011 
 2
 MỤC LỤC 
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ .......... 4 
1..LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH 
LUẬT SƯ BÀO CHỮA. ............................................................................ 4 
2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT 
SƯ .............................................................................................................. 7 
3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ TRANH TỤNG CỦA 
LUẬT SƯ TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 8 
4. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT 
ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ. .............................................. 10 
CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG 
HÌNH SỰ 19 
1. LUẬT SƯ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ 
TỤNG HÌNH SỰ......................................................................................... 19 
 2. LỰA CHỌN VÀ THAY ĐỔI LUẬT SƯ ............................................ 21 
3 . NHỮNG TRƯỜNG HỢP LUẬT SƯ KHÔNG ĐƯỢC THAM GIA TỐ 
TỤNG VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA .................................... 22 
4. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN KHÁC NHAU 
CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................................... 23 
5. QUYỀN TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ KHI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, 
BỊ CÁO ........................................................................................................ 32 
CHƯƠNG III: TỔ CHỨC QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ 
VÀ CÔNG TY LUẬT ..................................................................... 42 
1. CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ ................................................. 42 
2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ .................... 43 
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT
 ..................................................................................................................... 44 
3.1. Biên chế ............................................................................................. 44 
3.2. Điều kiện vật chất ............................................................................. 45 
3.3. Bộ máy .............................................................................................. 47 
 4. HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY 
LUẬT HỢP DANH ......................................................................... 48 
4.1. Đào tạo nguồn nhân lực ................................................................... 48 
4.2. Lĩnh vực hoạt động .......................................................................... 49 
5. QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT HỢP 
DANH .............................................................................................. 51 
5.1. Lĩnh vực quản lý............................................................................... 51 
5.2. Quyền quản lý và trách nhiệm ........................................................ 52 
5.3. Quản lý phát triển ............................................................................ 52 
5.4. Nguyên tắc quản lý Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh .... 53 
D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 54 
 3
E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN: ....................... 54 
CHƯƠNG IV: KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI TIẾP XÚC VỚI 
KHÁCH HÀNG .............................................................................. 55 
1. Khách hàng trong vụ án hình sự ........................................................ 55 
2. Bản chất mối quan hệ của luật sư với khách hàng trong vụ án hình 
sự .............................................................................................................. 55 
3. Các giai đoạn tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi tiếp nhận bào 
chữa .......................................................................................................... 56 
CHƯƠNG V: KỸ NĂNG XÂY DỰNG BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ 
CHO NGƯỜI BỊ HẠI ..................................................................... 57 
1. CHUẨN BỊ LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI .................................... 57 
1.1. Tổng hợp các tài liệu đã thu thập được ........................................... 57 
1.2. Chuẩn bị các tài liệu liên quan phục vụ cho việc bảo vệ ................ 58 
1.3. Xác định phương hướng viết bản bảo vệ ........................................ 58 
1.4. Trao đổi với thân chủ ....................................................................... 59 
2. CƠ CẤU BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI ............................... 59 
2.1. Phần mở đầu ..................................................................................... 59 
2.2. Phần nội dung ................................................................................... 60 
2.3. Phần kết luận .................................................................................... 64 
CHƯƠNG VI: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN 
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN 
PHẨM .............................................................................................. 66 
1. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, 
SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI ................. 66 
1.1. Khách thể của tội phạm ................................................................... 66 
1.2. Mặt khách quan của tội phạm ......................................................... 66 
1.3. Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 66 
1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................. 66 
2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA
 ..................................................................................................................... 67 
2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 67 
2.2. Gặp và trao đổi với thân chủ và những người khác liên quan....... 67 
3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 69 
CHƯƠNG VII: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG VỤ ÁN THAM 
NHŨNG ........................................................................................... 70 
1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG ................................. 71 
2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA
 ..................................................................................................................... 71 
2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 71 
2.3. Xây dựng bản luận cứ bào chữa ...................................................... 72 
3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 72 
D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 73 
E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN ......................... 73 
 4
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75 
 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ 
 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT 
SƯ BÀO CHỮA 
Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là một chế 
định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt. Hoạt động tranh 
tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế Tòa án gắn với việc tổ 
chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận quyền được bào chữa, đảm bảo 
tự do, nhân quyền của các đương sự. 
Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các quy 
định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình thành sau 
khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp luật về luật sư là 
một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ nghĩa thực dân và đế quốc 
xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước 
thực dân và bán nước. 
Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh dấu bởi 
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh 
đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng nhân quyền, đảm bảo 
quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị 
can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên 
ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ 
chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho 
phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh 
số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư, trong đó nêu 
rõ: “Cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn 
tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành 
 5
với các điều sửa đổi sau này (...) các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả 
các tòa án (...)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu chuẩn để được 
làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ; 
có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) 
ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật 
sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều 
nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và 
đủ tư cách làm luật sư tập sự... Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù 
hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam. 
Quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định trong 
lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trò của người luật sư 
trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người bảo vệ, trợ giúp pháp lý 
cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào chữa và nhờ người khác - Luật 
sư bào chữa cho mình. 
Sắc lệnh 46/SL ngày 10/10/1945 đã trở thành một cột mốc quan trọng 
trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư trong chế độ 
Cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước ta, do chính 
Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều 67 đã quy định: “Các phiên tòa 
đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự 
bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. 
Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong Bản tuyên ngôn thế 
giới về Nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc, ý tưởng 
này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội đều có quyền được 
coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một 
phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1, Điều 
11). 
Về sau, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã được Đại 
hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Việt Nam gia nhập ngày 
24/9/1982) cũng khẳng định quyền bào chữa của con người và vai trò của luật sư 
 6
trong xã hội tiến bộ. Cụ thể là trong quá trình xét xử về một tội phạm hình sự, 
mỗi người đều có quyền đòi hỏi đủ thời gian phù hợp, điều kiện thuận tiện để 
chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn, trong 
trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp 
đỡ về pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu họ không có đủ điều kiện trả 
(khoản 3, Điều 14, Công ước). 
Đến năm 1990, Hội nghị Liên Hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống tội 
phạm tổ chức ở Havana (Cu Ba) đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò 
của luật sư” - (Basic principles on the role of lawyers) đặt trách nhiệm cho các 
Chính phủ và Hiệp hội chuyên môn của luật sư ở các nước là phải thúc đẩy 
những chương trình nhằm thông báo cho công chúng biết rõ vai trò quan trọng 
của luật sư trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản của công dân. 
Cùng với sự phát triền và hoàn thiện dần của hệ thống pháp luật xã hội 
chủ nghĩa, quyền bào chữa của công dân và vai trò của luật sư ngày càng được 
nâng cao. Quyền bào chữa và nghề luật sư được xác định ngày càng cụ thể trong 
các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật 
khác. 
Hiến pháp nước ta năm 1980, Điều 133 quy định: “Quyền bào chữa của 
bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các 
đương sự khác về mặt pháp lý”. 
Điều 132 Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ: “Bị cáo có thể tự bào chữa 
hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. 
Nhà nước ta lần lượt thể chế hóa, nâng cao vai trò của luật sư qua các văn 
bản quy phạm pháp luật từ thấp đến cao: Pháp lệnh Tổ chức luật sư ngày 
18/12/1987 và Quy chế Đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định số 15/HĐBT 
ngày 12/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý 
đối với nghề luật sư theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). 
Để tiếp tục hoàn thiện chế định luật sư, mười hai năm sau một pháp lệnh mới về 
luật sư được ban hành, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đưa chế định luật sư nước ta 
tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập thế giới trong quá 
 7
trình toàn cầu hóa. Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật Luật sư 
năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 
2001 cụ thể và chi tiết hóa các quy định trước đây về địa vị pháp lý và xác lập rõ 
nét hơn vai trò luật sư. 
Các Bộ luật Tố tụng Hình sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự của nhà nước ta 
cũng từng bước tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm đầy đủ quyền bào chữa, bảo 
vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước pháp luật và không ngừng nâng cao 
vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. 
 2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ 
Đạo đức là phép tắc đối xử trong xã hội, là phép tắc về quan hệ giữa người 
với người, giữa cá nhân và tập thể, ai cũng phải biết và tuân thủ, giữ dìn. 
- Luật sư là nghề đang được xã hội quan tâm, nhất là trong bối cảnh Việt 
Nam hiện nay. Khi nói đến đạo đức nghề nghiệp của luật sư, trước hết 
phải đề cập tới sứ mệnh mà người luật sư phải gánh vác, sau đó đến phẩm 
chất, thanh danh của luật sư, kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những 
chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi hành nghề. 
- Đạo đức nghề nghiệp của luật sư bao gồm: những qui định chung về đạo 
đức của bản thân luật sư trong các mỗi quan hẹ với khách hàng, cơ quan 
nhà nước và đồng nghiệp trong hành nghề. 
- Những qui tắc chung về đạo đức nghề nghiệp của luật sư: 
+ Độc lập, trung thực, khách quan: Luật sư độc lập trung thực, khách quan 
và tận tụy trong hành nghề; không vì bất cứ lợi ích vật chất, tinh thần hoặc áp 
lực nào khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật trong hoạt động nghề 
nghiệp. 
+ Văn hóa ứng xử trong hành nghề và lối sống: Luật sư ứng xử đứng mực, 
có văn hóa trong hành nghề và trong lối sống để luôn tạo được sự tin cậy và 
tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư. 
+ Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý: Nghĩa vụ cao cả của luật sư là 
tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng 
 8
chính sách. Luật sư tận tâm, tích cực  ... ), 
người giám định, người phiên dịch 
Trước đây, khi BLTTHS chưa có hiệu lực pháp luật, pháp luật chỉ có 
quyền yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân,  chứ không có quyền 
đề nghị thay đổi điều tra viên. BLTTHS ra đời, quyền bào chữa của bị can, bị 
cáo được mở rộng và bảo đảm thực hiện hơn nữa. Xuất phát từ nguyên tắc bảo 
đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng quy định tại Điều 
14 BLTTHS; từ việc luật sư được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, 
tới khi khởi tố bị can như đã phân tích ở trên và nguyên tắc bảo đảm quyền bào 
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo BLTTHS quy định luật sư có quyền đề 
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là cần 
 35
thiết để bảo vệ bị can và góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ 
án. 
Khi có căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 42 và 
căn cứ quy định tại các điều từ Điều 44 đến Điều 47 BLTTHS; căn cứ thay đổi 
người giám định quy định tại khoản 4 Điều 60 BLTTHS; căn cứ thay đổi người 
phiên dịch quy định tại khoản 3 Điều 61 BLTTHS thì luật sư đề nghị thay đổi 
những người nói trên. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người 
giám định, người phiên dịch là một trong những quy định thể hiện tính dân chủ 
trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình bảo vệ bị can luật sư cần chú ý sử dụng 
để tránh việc oan sai hoặc xử lý vụ án không khách quan, ảnh hưởng đến quyền 
lợi của bị can. 
* Luật sư có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc 
bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người 
này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, 
bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. 
BLTTHS 1988 chỉ quy định quyền đưa ra chứng cứ của luật sư mà không 
quy định quyền thu thập chứng cứ của luật sư. Thực tiễn thực hiện quyền bào 
chữa trong những năm qua cho thấy, việc quy định quyền này cũng chỉ là hình 
thức. Thậm chí có trường hợp luật sư trực tiếp đến nhà người bị hại để lấy lời 
khai rồi ghi biên bản như một hoạt động điều tra rồi xuất trình trước cơ quan tiến 
hành tố tụng. Việc này có được chấp nhận hay không là một vấn đề cần được 
giải quyết. Theo khoản 1 Điều 65 BLTTHS thì chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm 
sát và Tòa án mới có quyền triệu tập những người biết về vụ án để nghe họ trình 
bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Do vậy, BLTTHS quy định quyền thu 
thập chứng cứ của luật sư trong phạm vi như trên là cần thiết và hợp lý. 
Kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật TTHS trước đây, 
BLTTHS đã quy định luật sư có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Khi làm 
nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho bị can trong giai đoạn điều tra luật sư có thể phát 
hiện ra tài liệu, đồ vật mà Cơ quan điều tra chưa phát hiện được. Trong trường 
hợp này, luật sư có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra xem xét nhưng chỉ khi 
 36
chứng cứ đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can như 
chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu thực sự bị can không thực hiện 
hành vi phạm tội; chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến 
mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện; các tình tiết giảm nhẹ trách 
nhiệm hình sự của bị can mà Cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ. 
Trong quá trình điều tra, cùng với việc đưa ra chứng cứ, luật sư cũng có 
quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục những thiếu sót trong hoạt động điều 
tra khi cần thiết như đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám 
định 
Khi luật sư đưa ra những yêu cầu có liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều 
tra trong phạm vi trách nhiệm của mình giải quyết những yêu cầu của luật sư và 
báo cho luật sư biết kết quả. Trường hợp Cơ quan điều tra không chấp nhận yêu 
cầu đưa ra là không có căn cứ thì luật sư có quyền khiếu nại đến Cơ quan điều 
tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp. 
 Khi hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát, luật sư có thể đưa ra những chứng 
cứ mà họ đã đưa ra ở giai đoạn điều tra nhưng không được Cơ quan điều tra 
chấp nhận hoặc đã chấp nhận nhưng chưa được xem xét, sử dụng. Luật sư cũng 
có thể đưa ra những chứng cứ mới, yêu cầu mới như yêu cầu triệu tập thêm 
người làm chứng; yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung Việc luật 
sư đưa ra những chứng cứ, những yêu cầu mới có lợi cho bị can không chỉ có tác 
dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can mà còn giúp Viện kiểm sát 
xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện hơn khi 
lập cáo trạng truy tố bị can trước Tòa án. Trong giai đoạn truy tố, khi đọc hồ sơ 
vụ án nếu thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng để xác định hành vi phạm 
tội mà Cơ quan điều tra vẫn đề nghị truy tố, có căn cứ để khởi tố bị can về một 
tội khác nhẹ hơn tội danh mà Cơ quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị 
can; hoặc phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều 
tra, luật sư yêu cầu Viện kiểm sát xem xét hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 
Nếu thấy có một trong những căn cứ sau, thì luật sư đề nghị Viện kiểm sát 
xem xét và ra quyết định đình chỉ vụ án: 
 37
- Không có sự việc phạm tội; 
- Hành vi không cấu thành tội phạm; 
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chưa đến tuổi chịu 
trách nhiệm hình sự; 
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình 
chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật; 
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 
- Tội phạm đã được đại xá; 
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp 
cần tái thẩm đối với người khác; 
- Bị can đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm; 
- Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm 
tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; 
- Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, bị can đã tự thú, khai rõ sự việc, 
góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế 
đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm; 
- Bị can là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội 
nghiêm trọng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình 
hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 
Khi thấy bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo; bị can trốn 
không biết bị can đang ở đâu thì luật sư yêu cầu Viện kiểm sát ra quyết định tạm 
đình chỉ vụ án. 
Quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu của luật sư có ý nghĩa quan 
trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị can, đồng thời giúp 
Cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá khách quan hành vi mà bị can đã thực hiện 
để kết luận và giải quyết vụ án. 
* Luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm 
giam 
Bào chữa sẽ trở thành hình thức nếu luật sư không hiểu rõ thái độ tâm lý 
và tâm tư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, 
 38
bị cáo, luật sư giúp bị can nhận thức đúng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ lợi 
ích hợp pháp của bị can trên cơ sở pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của 
vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên quan, cần thiết đến việc bảo vệ bị 
can mà bị can chưa hiểu hoặc không biết trình bày trước Cơ quan tiến hành tố 
tụng nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can; phân tích cho bị can 
thấy cần phải khai báo thành khẩn để luật sư có căn cứ rõ ràng, vững chắc bảo 
vệ bị can. Có thể nói “đây là dịp để người bào chữa thu thập thêm thông tin về 
vụ án, về bị can, bị cáo đồng thời thực hiện chức năng cố vấn pháp lý đối với bị 
can, bị cáo”. 
* Luật sư được đọc và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến 
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật 
Quyền đọc và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào 
chữa giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ luật sư mới 
biết bị can phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS; mới nắm được bị can bị 
buộc tội trên cơ sở nào và từ đó tìm ra các chứng cứ gỡ tội cho bị can. Thực tiễn 
cho thấy, nếu luật sư chỉ có mặt khi hỏi cung bị can hoặc tham dự các hoạt động 
điều tra khác thì không thể nắm được nội dung vụ án một cách đầy đủ. Do vậy, 
quyền được đọc hồ sơ vụ án tạo điều kiện cho luật sư nắm vững nội dung, diễn 
biến vụ án một cách toàn diện hơn từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều 
tra. Từ đó, luật sư có thể đánh giá đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án để 
chuẩn bị bào chữa. 
Đọc hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra giúp luật sư hiểu rõ hơn diễn 
biến hành vi phạm tội trong Bản kết luận điều tra từ đó xác định các chứng cứ 
mà cơ quan điều tra sử dụng vào việc chứng minh tội phạm có đảm bảo không; ý 
kiến đề xuất giải quyết vụ án của Cơ quan điều tra có căn cứ không. Đồng thời, 
qua việc đọc hồ sơ, luật sư có thể tổng hợp các tài liệu để xác định: quá trình 
điều tra có vi phạm pháp luật không; có cần thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn 
chặn không; có đủ chứng cứ để kết tội không; bị can, bị cáo có phải là người 
thực hiện hành vi phạm tội đó không. Nếu xét thấy cần thiết, luật sư có thể trao 
đổi với Viện kiểm sát hoặc Tòa án để cung cấp thêm chứng cứ có lợi cho bị can, 
 39
bị cáo (nếu có) và đề xuất với Viện kiểm sát, Tòa án xem xét khi tiến hành giải 
quyết vụ án. Trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của bị 
can, bị cáo thì luật sư đề nghị cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định. Khi 
đọc hồ sơ vụ án, luật sư phát hiện những chứng cứ có lợi, những tình tiết giảm 
nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo; phát hiện những vi phạm tố tụng trong hồ sơ 
vụ án, từ đó đưa ra những chứng cứ mới, những yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét, 
khắc phục. 
* Luật sư có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, 
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng 
Bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của cơ 
quan tiến hành tố tụng là một vấn đề có tính nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 
31 BLTTHS với nội dung: “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, 
công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng 
hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc 
của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan đó. 
Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, 
đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết 
cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục”. 
Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can trong vụ án hình sự 
ở giai đoạn điều tra, truy tố, người bào chữa có quyền khiếu nại đối với những 
việc làm trái pháp luật của Cơ quan điều tra trong những trường hợp như: bắt bị 
can để tạm giam khi không có căn cứ hoặc không đúng thủ tục theo quy định 
của pháp luật; tạm giam bị can khi không thuộc những trường hợp quy định tại 
Điều 88 BLTTHS; tạm giam bị can không có lệnh hoặc lệnh tạm giam không 
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; khởi tố bị can khi không đủ căn cứ để 
xác định bị can là người đã thực hiện hành vi phạm tội Nếu thấy quyết định 
của Viện kiểm sát không có căn cứ và việc ra quyết định này không có lợi cho bị 
can mà luật sư bảo vệ; nếu thấy hoạt động của Kiểm sát viên là không đúng hoặc 
vi phạm pháp luật thì luật sư có quyền khiếu nại. Khiếu nại được gửi cho Viện 
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên. Cơ quan có thẩm 
 40
quyền có trách nhiệm phải giải quyết khiếu nại trong thời hạn do pháp luật quy 
định. Nếu khiếu nại đúng thì cơ quan có thẩm quyền phải có những biện pháp 
khắc phục ngay những vi phạm pháp luật hay thiếu sót đã được khiếu nại. Nếu 
khiếu nại không đúng và bị bác bỏ thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu 
nại phải trả lời cho người khiếu nại biết rõ lý do. 
* Luật sư có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa 
Xét hỏi và tranh luận là những hoạt động quan trọng trong trình tự xét xử 
vụ án tại phiên tòa. Thực chất của việc xét hỏi tại phiên tòa là hoạt động tiến 
hành điều tra công khai với sự có mặt của những người tham gia tố tụng được 
Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa nhằm kiểm tra các chứng cứ đã có trong hồ 
sơ vụ án và thu thập thêm chứng cứ mới để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. 
Do vậy, luật sư phải chú ý lắng nghe những câu hỏi và câu trả lời, so sánh và đối 
chiếu với các tình tiết của vụ án và phát hiện những tình tiết có lợi cho bị can, bị 
cáo và những lời khai không phù hợp với các tình tiết trong vụ án để kịp thời 
đưa ra những câu hỏi yêu cầu những người tham gia tố tụng làm rõ. Một trong 
những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp hiện nay là nâng cao hiệu quả 
của các cơ quan tư pháp mà chủ yếu là đổi mới hoạt động xét xử theo hướng 
tranh tụng. Vì thế, để phiên tòa thực sự được tiến hành theo hướng tăng cường 
yếu tố tranh tụng thì không chỉ phụ thuộc vào HĐXX và đại diện Viện kiểm sát 
thực hành quyền công tố tại phiên tòa mà còn phụ thuộc cả vào luật sư. Câu hỏi 
luật sư đưa ra phải: “sắc bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng 
của vụ án chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất 
cho bị can, bị cáo” mình bảo vệ. Tùy theo diễn biến xảy ra tại phiên tòa mà luật 
sư có thể sử dụng các quyền khác mà pháp luật cho phép nhằm bảo vệ bị cáo có 
hiệu quả như yêu cầu HĐXX công bố những tài liệu trong hồ sơ có lợi cho bị 
cáo mà mình bảo vệ trong những trường hợp sau: 
- Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai 
của họ tại Cơ quan điều tra; 
- Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa; 
- Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết. 
 41
Sau khi kết thúc phần xét hỏi, luật sư được tham gia tranh luận tại phiên 
tòa. 
Trong công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 
08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm 
công tác tư pháp trong thời gian tới thì vai trò của luật sư càng được tôn trọng và 
đề cao hơn nữa. Theo đó việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào 
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng 
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của luật sư để ra bản án, quyết định đúng pháp 
luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. 
Trong tranh luận tại phiên tòa, sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, 
luật sư được trình bày lời bào chữa để bảo vệ bị cáo. Luật sư “đề xuất với 
HĐXX cách thức giải quyết vụ án, áp dụng điều luật về tội danh và hình phạt 
nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Luật sư được đáp lại ý kiến mà 
mình không đồng ý, đề nghị HĐXX bác bỏ những chứng cứ buộc tội bị cáo 
không có cơ sở. 
* Luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là 
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần 
Sau khi tuyên án sơ thẩm, đối với bị cáo mà mình bảo vệ là người chưa 
thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần thì luật sư có 
quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 231 BLTTHS. Trong những trường hợp 
này, bị can, bị cáo là người có năng lực hành vi hạn chế, họ không thể tự bảo vệ 
quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách có hiệu quả theo quy định của 
pháp luật. Do vậy, việc BLTTHS quy định quyền kháng cáo của luật sư là cần 
thiết. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_hanh_nghe_luat_su_phan_1.pdf