Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT
SƯ BÀO CHỮA
Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là một chế
định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt. Hoạt động tranh
tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế Tòa án gắn với việc tổ
chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận quyền được bào chữa, đảm bảo
tự do, nhân quyền của các đương sự.
Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các quy
định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình thành sau
khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp luật về luật sư là
một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ nghĩa thực dân và đế quốc
xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước
thực dân và bán nước.
Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh dấu bởi
thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng nhân quyền, đảm bảo
quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị
can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên
ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ
chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho
phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh
số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư, trong đó nêu
rõ: “Cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn
tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành5
với các điều sửa đổi sau này (.) các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả
các tòa án (.)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu chuẩn để được
làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ;
có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ)
ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật
sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều
nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và
đủ tư cách làm luật sư tập sự. Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù
hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Hành nghề luật sư (Phần 1)
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Bùi Thị Phương Quỳnh GIÁO TRÌNH HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 2 MỤC LỤC CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ .......... 4 1..LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT SƯ BÀO CHỮA. ............................................................................ 4 2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ .............................................................................................................. 7 3. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TẠI VIỆT NAM ...................................................................... 8 4. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ. .............................................. 10 CHƯƠNG II: VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 19 1. LUẬT SƯ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................................................... 19 2. LỰA CHỌN VÀ THAY ĐỔI LUẬT SƯ ............................................ 21 3 . NHỮNG TRƯỜNG HỢP LUẬT SƯ KHÔNG ĐƯỢC THAM GIA TỐ TỤNG VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA .................................... 22 4. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG CÁC GIAI ĐOẠN KHÁC NHAU CỦA TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................................... 23 5. QUYỀN TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ KHI BÀO CHỮA CHO BỊ CAN, BỊ CÁO ........................................................................................................ 32 CHƯƠNG III: TỔ CHỨC QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ VÀ CÔNG TY LUẬT ..................................................................... 42 1. CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ ................................................. 42 2. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ .................... 43 3. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT ..................................................................................................................... 44 3.1. Biên chế ............................................................................................. 44 3.2. Điều kiện vật chất ............................................................................. 45 3.3. Bộ máy .............................................................................................. 47 4. HOẠT ĐỘNG CỦA VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT HỢP DANH ......................................................................... 48 4.1. Đào tạo nguồn nhân lực ................................................................... 48 4.2. Lĩnh vực hoạt động .......................................................................... 49 5. QUẢN LÝ VĂN PHÒNG LUẬT SƯ, CÔNG TY LUẬT HỢP DANH .............................................................................................. 51 5.1. Lĩnh vực quản lý............................................................................... 51 5.2. Quyền quản lý và trách nhiệm ........................................................ 52 5.3. Quản lý phát triển ............................................................................ 52 5.4. Nguyên tắc quản lý Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh .... 53 D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 54 3 E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN: ....................... 54 CHƯƠNG IV: KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ KHI TIẾP XÚC VỚI KHÁCH HÀNG .............................................................................. 55 1. Khách hàng trong vụ án hình sự ........................................................ 55 2. Bản chất mối quan hệ của luật sư với khách hàng trong vụ án hình sự .............................................................................................................. 55 3. Các giai đoạn tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi tiếp nhận bào chữa .......................................................................................................... 56 CHƯƠNG V: KỸ NĂNG XÂY DỰNG BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGƯỜI BỊ HẠI ..................................................................... 57 1. CHUẨN BỊ LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI .................................... 57 1.1. Tổng hợp các tài liệu đã thu thập được ........................................... 57 1.2. Chuẩn bị các tài liệu liên quan phục vụ cho việc bảo vệ ................ 58 1.3. Xác định phương hướng viết bản bảo vệ ........................................ 58 1.4. Trao đổi với thân chủ ....................................................................... 59 2. CƠ CẤU BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO BỊ HẠI ............................... 59 2.1. Phần mở đầu ..................................................................................... 59 2.2. Phần nội dung ................................................................................... 60 2.3. Phần kết luận .................................................................................... 64 CHƯƠNG VI: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM .............................................................................................. 66 1. NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE, DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI ................. 66 1.1. Khách thể của tội phạm ................................................................... 66 1.2. Mặt khách quan của tội phạm ......................................................... 66 1.3. Chủ thể của tội phạm ....................................................................... 66 1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................. 66 2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA ..................................................................................................................... 67 2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 67 2.2. Gặp và trao đổi với thân chủ và những người khác liên quan....... 67 3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 69 CHƯƠNG VII: KỸ NĂNG BÀO CHỮA TRONG VỤ ÁN THAM NHŨNG ........................................................................................... 70 1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG ................................. 71 2. HOẠT ĐỘNG CHUẨN BỊ CHO VIỆC BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA ..................................................................................................................... 71 2.1. Nghiên cứu hồ sơ .............................................................................. 71 2.3. Xây dựng bản luận cứ bào chữa ...................................................... 72 3. THAM GIA PHIÊN TÒA ...................................................................... 72 D. NỘI DUNG TỰ HỌC ................................................................ 73 E. CÂU HỎI ÔN TẬP, CÂU HỎI THẢO LUẬN ......................... 73 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT SƯ BÀO CHỮA Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là một chế định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt. Hoạt động tranh tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế Tòa án gắn với việc tổ chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận quyền được bào chữa, đảm bảo tự do, nhân quyền của các đương sự. Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các quy định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình thành sau khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp luật về luật sư là một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ nghĩa thực dân và đế quốc xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước thực dân và bán nước. Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập, đánh dấu bởi thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, tư tưởng nhân quyền, đảm bảo quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được thực hiện trên thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ chức luật sư cũ do Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư, trong đó nêu rõ: “Cách tổ chức đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành 5 với các điều sửa đổi sau này (...) các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án (...)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc lệnh này, các tiêu chuẩn để được làm luật sư cũng được quy định cụ thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một văn phòng luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật sư tập sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ nhiều nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư tập sự... Điều đó cho thấy sự đánh giá cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam. Quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định trong lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trò của người luật sư trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người bảo vệ, trợ giúp pháp lý cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào chữa và nhờ người khác - Luật sư bào chữa cho mình. Sắc lệnh 46/SL ngày 10/10/1945 đã trở thành một cột mốc quan trọng trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư trong chế độ Cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước ta, do chính Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều 67 đã quy định: “Các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong Bản tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên Hiệp quốc, ý tưởng này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1, Điều 11). Về sau, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã được Đại hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) cũng khẳng định quyền bào chữa của con người và vai trò của luật sư 6 trong xã hội tiến bộ. Cụ thể là trong quá trình xét xử về một tội phạm hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi đủ thời gian phù hợp, điều kiện thuận tiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn, trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ về pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu họ không có đủ điều kiện trả (khoản 3, Điều 14, Công ước). Đến năm 1990, Hội nghị Liên Hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống tội phạm tổ chức ở Havana (Cu Ba) đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư” - (Basic principles on the role of lawyers) đặt trách nhiệm cho các Chính phủ và Hiệp hội chuyên môn của luật sư ở các nước là phải thúc đẩy những chương trình nhằm thông báo cho công chúng biết rõ vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triền và hoàn thiện dần của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, quyền bào chữa của công dân và vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao. Quyền bào chữa và nghề luật sư được xác định ngày càng cụ thể trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Hiến pháp nước ta năm 1980, Điều 133 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Nhà nước ta lần lượt thể chế hóa, nâng cao vai trò của luật sư qua các văn bản quy phạm pháp luật từ thấp đến cao: Pháp lệnh Tổ chức luật sư ngày 18/12/1987 và Quy chế Đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định số 15/HĐBT ngày 12/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý đối với nghề luật sư theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Để tiếp tục hoàn thiện chế định luật sư, mười hai năm sau một pháp lệnh mới về luật sư được ban hành, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đưa chế định luật sư nước ta tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập thế giới trong quá 7 trình toàn cầu hóa. Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật Luật sư năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001 cụ thể và chi tiết hóa các quy định trước đây về địa vị pháp lý và xác lập rõ nét hơn vai trò luật sư. Các Bộ luật Tố tụng Hình sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự của nhà nước ta cũng từng bước tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm đầy đủ quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước pháp luật và không ngừng nâng cao vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng. 2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT SƯ Đạo đức là phép tắc đối xử trong xã hội, là phép tắc về quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và tập thể, ai cũng phải biết và tuân thủ, giữ dìn. - Luật sư là nghề đang được xã hội quan tâm, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Khi nói đến đạo đức nghề nghiệp của luật sư, trước hết phải đề cập tới sứ mệnh mà người luật sư phải gánh vác, sau đó đến phẩm chất, thanh danh của luật sư, kỹ năng hành nghề và cuối cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi hành nghề. - Đạo đức nghề nghiệp của luật sư bao gồm: những qui định chung về đạo đức của bản thân luật sư trong các mỗi quan hẹ với khách hàng, cơ quan nhà nước và đồng nghiệp trong hành nghề. - Những qui tắc chung về đạo đức nghề nghiệp của luật sư: + Độc lập, trung thực, khách quan: Luật sư độc lập trung thực, khách quan và tận tụy trong hành nghề; không vì bất cứ lợi ích vật chất, tinh thần hoặc áp lực nào khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật trong hoạt động nghề nghiệp. + Văn hóa ứng xử trong hành nghề và lối sống: Luật sư ứng xử đứng mực, có văn hóa trong hành nghề và trong lối sống để luôn tạo được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư. + Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý: Nghĩa vụ cao cả của luật sư là tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng 8 chính sách. Luật sư tận tâm, tích cực ... ), người giám định, người phiên dịch Trước đây, khi BLTTHS chưa có hiệu lực pháp luật, pháp luật chỉ có quyền yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm nhân dân, chứ không có quyền đề nghị thay đổi điều tra viên. BLTTHS ra đời, quyền bào chữa của bị can, bị cáo được mở rộng và bảo đảm thực hiện hơn nữa. Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng quy định tại Điều 14 BLTTHS; từ việc luật sư được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, tới khi khởi tố bị can như đã phân tích ở trên và nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo BLTTHS quy định luật sư có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là cần 35 thiết để bảo vệ bị can và góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Khi có căn cứ thay đổi người tiến hành tố tụng quy định tại Điều 42 và căn cứ quy định tại các điều từ Điều 44 đến Điều 47 BLTTHS; căn cứ thay đổi người giám định quy định tại khoản 4 Điều 60 BLTTHS; căn cứ thay đổi người phiên dịch quy định tại khoản 3 Điều 61 BLTTHS thì luật sư đề nghị thay đổi những người nói trên. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là một trong những quy định thể hiện tính dân chủ trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình bảo vệ bị can luật sư cần chú ý sử dụng để tránh việc oan sai hoặc xử lý vụ án không khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của bị can. * Luật sư có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật Nhà nước, bí mật công tác. BLTTHS 1988 chỉ quy định quyền đưa ra chứng cứ của luật sư mà không quy định quyền thu thập chứng cứ của luật sư. Thực tiễn thực hiện quyền bào chữa trong những năm qua cho thấy, việc quy định quyền này cũng chỉ là hình thức. Thậm chí có trường hợp luật sư trực tiếp đến nhà người bị hại để lấy lời khai rồi ghi biên bản như một hoạt động điều tra rồi xuất trình trước cơ quan tiến hành tố tụng. Việc này có được chấp nhận hay không là một vấn đề cần được giải quyết. Theo khoản 1 Điều 65 BLTTHS thì chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mới có quyền triệu tập những người biết về vụ án để nghe họ trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án. Do vậy, BLTTHS quy định quyền thu thập chứng cứ của luật sư trong phạm vi như trên là cần thiết và hợp lý. Kế thừa và phát triển những quy định của pháp luật TTHS trước đây, BLTTHS đã quy định luật sư có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Khi làm nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho bị can trong giai đoạn điều tra luật sư có thể phát hiện ra tài liệu, đồ vật mà Cơ quan điều tra chưa phát hiện được. Trong trường hợp này, luật sư có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra xem xét nhưng chỉ khi 36 chứng cứ đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi tình trạng của bị can như chứng cứ chứng minh sự vô tội của bị can nếu thực sự bị can không thực hiện hành vi phạm tội; chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can không đến mức nguy hiểm như tài liệu trong hồ sơ thể hiện; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà Cơ quan điều tra chưa thể hiện trong hồ sơ. Trong quá trình điều tra, cùng với việc đưa ra chứng cứ, luật sư cũng có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục những thiếu sót trong hoạt động điều tra khi cần thiết như đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định Khi luật sư đưa ra những yêu cầu có liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình giải quyết những yêu cầu của luật sư và báo cho luật sư biết kết quả. Trường hợp Cơ quan điều tra không chấp nhận yêu cầu đưa ra là không có căn cứ thì luật sư có quyền khiếu nại đến Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp. Khi hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát, luật sư có thể đưa ra những chứng cứ mà họ đã đưa ra ở giai đoạn điều tra nhưng không được Cơ quan điều tra chấp nhận hoặc đã chấp nhận nhưng chưa được xem xét, sử dụng. Luật sư cũng có thể đưa ra những chứng cứ mới, yêu cầu mới như yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng; yêu cầu trưng cầu giám định, giám định bổ sung Việc luật sư đưa ra những chứng cứ, những yêu cầu mới có lợi cho bị can không chỉ có tác dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can mà còn giúp Viện kiểm sát xem xét, đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện hơn khi lập cáo trạng truy tố bị can trước Tòa án. Trong giai đoạn truy tố, khi đọc hồ sơ vụ án nếu thấy hồ sơ thiếu những chứng cứ quan trọng để xác định hành vi phạm tội mà Cơ quan điều tra vẫn đề nghị truy tố, có căn cứ để khởi tố bị can về một tội khác nhẹ hơn tội danh mà Cơ quan điều tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can; hoặc phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, luật sư yêu cầu Viện kiểm sát xem xét hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu thấy có một trong những căn cứ sau, thì luật sư đề nghị Viện kiểm sát xem xét và ra quyết định đình chỉ vụ án: 37 - Không có sự việc phạm tội; - Hành vi không cấu thành tội phạm; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật; - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; - Tội phạm đã được đại xá; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; - Bị can đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm; - Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; - Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, bị can đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm; - Bị can là người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Khi thấy bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo; bị can trốn không biết bị can đang ở đâu thì luật sư yêu cầu Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Quyền đưa ra chứng cứ và những yêu cầu của luật sư có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị can, đồng thời giúp Cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá khách quan hành vi mà bị can đã thực hiện để kết luận và giải quyết vụ án. * Luật sư có quyền gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam Bào chữa sẽ trở thành hình thức nếu luật sư không hiểu rõ thái độ tâm lý và tâm tư của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khi gặp người bị tạm giữ, bị can, 38 bị cáo, luật sư giúp bị can nhận thức đúng đắn việc bào chữa là nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can trên cơ sở pháp luật và tôn trọng sự thật khách quan của vụ án; giải thích những vấn đề pháp luật liên quan, cần thiết đến việc bảo vệ bị can mà bị can chưa hiểu hoặc không biết trình bày trước Cơ quan tiến hành tố tụng nhằm minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can; phân tích cho bị can thấy cần phải khai báo thành khẩn để luật sư có căn cứ rõ ràng, vững chắc bảo vệ bị can. Có thể nói “đây là dịp để người bào chữa thu thập thêm thông tin về vụ án, về bị can, bị cáo đồng thời thực hiện chức năng cố vấn pháp lý đối với bị can, bị cáo”. * Luật sư được đọc và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật Quyền đọc và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa giúp luật sư nắm vững các tình tiết của vụ án. Có đọc hồ sơ luật sư mới biết bị can phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS; mới nắm được bị can bị buộc tội trên cơ sở nào và từ đó tìm ra các chứng cứ gỡ tội cho bị can. Thực tiễn cho thấy, nếu luật sư chỉ có mặt khi hỏi cung bị can hoặc tham dự các hoạt động điều tra khác thì không thể nắm được nội dung vụ án một cách đầy đủ. Do vậy, quyền được đọc hồ sơ vụ án tạo điều kiện cho luật sư nắm vững nội dung, diễn biến vụ án một cách toàn diện hơn từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Từ đó, luật sư có thể đánh giá đúng vai trò của các bị cáo trong vụ án để chuẩn bị bào chữa. Đọc hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra giúp luật sư hiểu rõ hơn diễn biến hành vi phạm tội trong Bản kết luận điều tra từ đó xác định các chứng cứ mà cơ quan điều tra sử dụng vào việc chứng minh tội phạm có đảm bảo không; ý kiến đề xuất giải quyết vụ án của Cơ quan điều tra có căn cứ không. Đồng thời, qua việc đọc hồ sơ, luật sư có thể tổng hợp các tài liệu để xác định: quá trình điều tra có vi phạm pháp luật không; có cần thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không; có đủ chứng cứ để kết tội không; bị can, bị cáo có phải là người thực hiện hành vi phạm tội đó không. Nếu xét thấy cần thiết, luật sư có thể trao đổi với Viện kiểm sát hoặc Tòa án để cung cấp thêm chứng cứ có lợi cho bị can, 39 bị cáo (nếu có) và đề xuất với Viện kiểm sát, Tòa án xem xét khi tiến hành giải quyết vụ án. Trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo thì luật sư đề nghị cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định. Khi đọc hồ sơ vụ án, luật sư phát hiện những chứng cứ có lợi, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo; phát hiện những vi phạm tố tụng trong hồ sơ vụ án, từ đó đưa ra những chứng cứ mới, những yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét, khắc phục. * Luật sư có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng Bảo đảm quyền khiếu nại và tố cáo của công dân đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng là một vấn đề có tính nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 31 BLTTHS với nội dung: “Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục”. Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can trong vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra, truy tố, người bào chữa có quyền khiếu nại đối với những việc làm trái pháp luật của Cơ quan điều tra trong những trường hợp như: bắt bị can để tạm giam khi không có căn cứ hoặc không đúng thủ tục theo quy định của pháp luật; tạm giam bị can khi không thuộc những trường hợp quy định tại Điều 88 BLTTHS; tạm giam bị can không có lệnh hoặc lệnh tạm giam không được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; khởi tố bị can khi không đủ căn cứ để xác định bị can là người đã thực hiện hành vi phạm tội Nếu thấy quyết định của Viện kiểm sát không có căn cứ và việc ra quyết định này không có lợi cho bị can mà luật sư bảo vệ; nếu thấy hoạt động của Kiểm sát viên là không đúng hoặc vi phạm pháp luật thì luật sư có quyền khiếu nại. Khiếu nại được gửi cho Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên. Cơ quan có thẩm 40 quyền có trách nhiệm phải giải quyết khiếu nại trong thời hạn do pháp luật quy định. Nếu khiếu nại đúng thì cơ quan có thẩm quyền phải có những biện pháp khắc phục ngay những vi phạm pháp luật hay thiếu sót đã được khiếu nại. Nếu khiếu nại không đúng và bị bác bỏ thì cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải trả lời cho người khiếu nại biết rõ lý do. * Luật sư có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa Xét hỏi và tranh luận là những hoạt động quan trọng trong trình tự xét xử vụ án tại phiên tòa. Thực chất của việc xét hỏi tại phiên tòa là hoạt động tiến hành điều tra công khai với sự có mặt của những người tham gia tố tụng được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa nhằm kiểm tra các chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án và thu thập thêm chứng cứ mới để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Do vậy, luật sư phải chú ý lắng nghe những câu hỏi và câu trả lời, so sánh và đối chiếu với các tình tiết của vụ án và phát hiện những tình tiết có lợi cho bị can, bị cáo và những lời khai không phù hợp với các tình tiết trong vụ án để kịp thời đưa ra những câu hỏi yêu cầu những người tham gia tố tụng làm rõ. Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp hiện nay là nâng cao hiệu quả của các cơ quan tư pháp mà chủ yếu là đổi mới hoạt động xét xử theo hướng tranh tụng. Vì thế, để phiên tòa thực sự được tiến hành theo hướng tăng cường yếu tố tranh tụng thì không chỉ phụ thuộc vào HĐXX và đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa mà còn phụ thuộc cả vào luật sư. Câu hỏi luật sư đưa ra phải: “sắc bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có lợi nhất cho bị can, bị cáo” mình bảo vệ. Tùy theo diễn biến xảy ra tại phiên tòa mà luật sư có thể sử dụng các quyền khác mà pháp luật cho phép nhằm bảo vệ bị cáo có hiệu quả như yêu cầu HĐXX công bố những tài liệu trong hồ sơ có lợi cho bị cáo mà mình bảo vệ trong những trường hợp sau: - Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa có mâu thuẫn với lời khai của họ tại Cơ quan điều tra; - Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa; - Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết. 41 Sau khi kết thúc phần xét hỏi, luật sư được tham gia tranh luận tại phiên tòa. Trong công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới thì vai trò của luật sư càng được tôn trọng và đề cao hơn nữa. Theo đó việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của luật sư để ra bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định. Trong tranh luận tại phiên tòa, sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, luật sư được trình bày lời bào chữa để bảo vệ bị cáo. Luật sư “đề xuất với HĐXX cách thức giải quyết vụ án, áp dụng điều luật về tội danh và hình phạt nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Luật sư được đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý, đề nghị HĐXX bác bỏ những chứng cứ buộc tội bị cáo không có cơ sở. * Luật sư có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần Sau khi tuyên án sơ thẩm, đối với bị cáo mà mình bảo vệ là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hay tâm thần thì luật sư có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 231 BLTTHS. Trong những trường hợp này, bị can, bị cáo là người có năng lực hành vi hạn chế, họ không thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách có hiệu quả theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc BLTTHS quy định quyền kháng cáo của luật sư là cần thiết.
File đính kèm:
- giao_trinh_hanh_nghe_luat_su_phan_1.pdf