Giáo trình Kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1.1 Đối tượng nghiên cứu của môn học
Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lí, các chủ thể có thẩm
quyền ban hành văn bản để giải quyết các công việc phát sinh nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Văn bản là hình thức cụ thể hóa pháp luật, là
phương tiện, công cụ, sản phẩm không thể thiếu để điều hành hoạt động
quản lí nhà nước.
Xây dựng văn bản pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước
được pháp luật trao quyền, là môn khoa học pháp lý mang tính ứng dụng, có
đối tượng nghiên cứu riêng.
Môn học này nghiên cứu toàn bộ những vấn đề có liên quan đến quá
trình hình thành văn bản pháp luật. Đó là :
- Nghiên cứu về thẩm quyền tổ chức và hoạt động của chủ thể trong
quá trình hình thành văn bản. Thẩm quyền ở đây được tiếp cận dưới 2 góc
độ: về thẩm quyền hình thức và thẩm quyền về nội dung1
- Nghiên cứu cách thức trình bày văn bản pháp luật về hình thức và
nội dung. Đây là hoạt động quan trọng xuyên suốt trong quá trình xây dựng
văn bản pháp luật.
- Nghiên cứu quy tắc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ giữ vai trò quan
trọng quy định nội dung của văn bản pháp luật.
- Nghiên cứu về kiểm tra, xử lý những văn bản có khiếm khuyết.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Cao Thị Kim Oanh Nguyễn Thị Hà GIÁO TRÌNH KỸ THUẬT XÂY DỰNGVĂN BẢN PHÁP LUẬT Vinh - 2011 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên Cao Thị Kim Oanh Nguyễn Thị Hà GIÁO TRÌNH KỸ THUẬT XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 3 Phân công biên soạn: - Chủ biên: Nguyễn Thị Hà Các tác giả cùng tham gia biên soạn: - Cao Thị Kim Oanh 4 LỜI NÓI ĐẦU Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, một trong những hình thức để thể hiện ý chí của mình đó là ban hành văn bản. Văn bản vừa là phương tiện vừa là sản phẩm của quá trình quản lí, tạo lập và duy trì mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí, giúp cho hoạt động quản lí đạt hiệu quả tốt nhất. Đặc biệt trong quá trình đổi mới này đặt ra yêu cầu cần phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, việc ban hành văn bản đáp ứng yêu cầu xã hội là điều rất thiết thực. Để phục vụ công tác giảng dạy và học tập chương trình đào tạo cử nhân luật, Trường Đại học Vinh xuất bản giáo trình “Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật” nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về quá trình hình thành văn bản, kiểm tra và xử lí văn bản pháp luật. Do môn học có liên quan nhiều đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, bên cạnh đó thực tế đối với việc ban hành văn bản pháp luật còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, mặc dù đã rất cố gắng trong biên soạn, song giáo trình Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến quý báu của bạn đọc quan tâm để hoàn thiện hơn giáo trình cho lần tái bản sau. 5 MÔ TẢ VẮN TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật là môn khoa học có tính ứng dụng cao nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản được sắp xếp từ những lý luận chung nhất đến những kiến thức cụ thể về quá trình hình thành văn bản pháp luật bao gồm: quy định về thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật; về cách thức trình bày hình thức, nội dung; trình tự, thủ tục ban hành văn bản pháp luật, cách thức diễn đạt ngôn ngữ và phân chia, sắp xếp nội dung văn bản pháp luật do các chủ thể ban hành; về kiểm tra và xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết... là cơ sở để vận dụng soạn thảo văn bản hoàn chỉnh giải quyết công việc phát sinh trên thực tế, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngoài ra môn học còn trang bị những kiến thức cơ bản về việc soạn thảo từng loại văn bản pháp luật cụ thể như: luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư, chỉ thị, nghị quyết, công văn, công điện... Môn học được chia thành 2 phần: - Phần lí thuyết tập trung giới thiệu một số nội dung cơ bản về văn bản pháp luật và kĩ năng soạn thảo một số văn bản pháp luật điển hình. - Phần thực hành: trên cơ sở lí thuyết được giới thiệu học viên, sinh viên vận dụng và soạn thảo văn bản pháp luật để giải quyết các tình huống cụ thể. Môn học Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật được xây dựng trong giáo trình này gồm những nội dung bắt buộc do Đại học Vinh quy định để giảng dạy cho học viên, sinh viên chuyên ngành luật với thời lượng 03 tín chỉ và 06 chương cụ thể là: Chương 1. Khái quát về xây dựng văn bản pháp luật 6 Chương 2. Hình thức của văn bản pháp luật Chương 3. Soạn thảo văn bản qui phạm pháp luật Chương 4. Soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật Chương 5. Soạn thảo văn bản hành chính Chương 6. Kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật 7 MỤC TIÊU CỦA MÔN HỌC Khi nghiên cứu môn Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật học viên, sinh viên phải đạt được các yêu cầu sau: - Nắm rõ được phần lý thuyết về vấn đề cơ bản của văn bản pháp luật gồm: khái niệm, đặc điểm, phân loại và vai trò của văn bản pháp luật; Thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật; Quy trình ban hành văn bản pháp luật. - Nhận thức đúng về vai trò của văn bản pháp luật phục vụ cho hoạt động quản lí. - Phân biệt được tính chất và thẩm quyền ban hành từng loại văn bản pháp luật của các chủ thể khác nhau và phân biệt được văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính. - Nhớ được quy trình kiểm tra, xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết. - Hiểu và vận dụng được những nguyên tắc và kỹ thuật cơ bản để soạn thảo được một số văn bản pháp luật hoàn chỉnh. 8 9 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT 1. XÂY DỰNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT 1.1 Đối tượng nghiên cứu của môn học Trong quá trình thực hiện hoạt động quản lí, các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản để giải quyết các công việc phát sinh nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Văn bản là hình thức cụ thể hóa pháp luật, là phương tiện, công cụ, sản phẩm không thể thiếu để điều hành hoạt động quản lí nhà nước. Xây dựng văn bản pháp luật là hoạt động của các cơ quan nhà nước được pháp luật trao quyền, là môn khoa học pháp lý mang tính ứng dụng, có đối tượng nghiên cứu riêng. Môn học này nghiên cứu toàn bộ những vấn đề có liên quan đến quá trình hình thành văn bản pháp luật. Đó là : - Nghiên cứu về thẩm quyền tổ chức và hoạt động của chủ thể trong quá trình hình thành văn bản. Thẩm quyền ở đây được tiếp cận dưới 2 góc độ: về thẩm quyền hình thức và thẩm quyền về nội dung1 - Nghiên cứu cách thức trình bày văn bản pháp luật về hình thức và nội dung. Đây là hoạt động quan trọng xuyên suốt trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật. - Nghiên cứu quy tắc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ giữ vai trò quan trọng quy định nội dung của văn bản pháp luật. 1 Xem mục 3.1.1 chương 1 10 - Nghiên cứu về kiểm tra, xử lý những văn bản có khiếm khuyết. 1.2. Phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu, môn học có nội dung được hình thành trong mối liên hệ mật thiết giữa lý luận với pháp luật thực định và hoạt động thực tiễn. Do đó, khi nghiên cứu về văn bản pháp luật thường sử dụng các phương pháp sau đây : Phương pháp phân tích: Văn bản được nghiên cứu trên mọi bình diện về thẩm quyền, về cách thức xác lập phần hình thức và nội dung, về quy trình ban hành Do vây, sử dụng phương pháp này để xác định nội dung, ý nghĩa, vai trò của các bộ phận cấu thành, từng giai đoạn trong hoạt động xây dựng và những đặc thù của từng loại văn bản. Phương pháp tổng hợp: Sau khi phân tích mô tả về hình thức, nội dung và quy trình ban hành từng loại văn bản cụ thể để khái quát hóa, đưa ra những luận điểm, quan niệm về quá trình xây dựng văn bản nói riêng và sáng tạo pháp luật nói chung. Phương pháp so sánh: trong quá trình ban hành văn bản được tiến hành nghiên cứu bằng phương pháp so sánh trên các phương diện sau: - Giữa các thời kỳ khác nhau của lịch sử xây dựng văn bản để kế thừa thành tựu đạt được nhằm hoàn thiện quá trình ban hành văn bản. - Giữa các loại văn bản khác nhau để phân biệt phục vụ cho quá trình soạn thảo và áp dụng pháp luật vừa hợp pháp vừa hợp lí. - Giữa lý luận với thực tiễn nhằm xây dựng được hệ thống lý thuyết và đưa ra được những kiến giải thực tế góp phần hoàn thiện công tác xây dựng và ban hành văn bản. 11 Ngoài những phương pháp trên, trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp thống kê, tổng kết thực tiễn, đối chiếu thực tiễn, phương pháp xã hội học... nhằm bảo đảm tính toàn diện, tính hệ thống và xác thực những nội dung được nghiên cứu đối với hoạt động xây dựng văn bản pháp luật. 1.3. Các yêu cầu đối với hoạt động xây dựng văn bản pháp luật Hoạt động xây dựng văn bản pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, đặc biệt đối với Nhà nước pháp quyền, giúp Nhà nước có thể hoàn thiện, tổ chức và thực hiện pháp luật, để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý nhằm đạt được các mực tiêu đã đề ra. Xây dựng văn bản pháp luật là hoạt động thể hiện ý chí của Nhà nước, quá trình ban hành văn bản gồm những hoạt động chuyên môn nghiệp vụ khá phong phú về nội dung và hình thức được lựa chọn trên cơ sở các quy định của pháp luật về thủ tục xây dựng đối với từng nhóm văn bản nhất định. Do đó, để hoạt động hoạt động xây dựng văn bản đạt chất lượng cần phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. 1.3.1. Xây dựng văn bản pháp luật phải đúng thẩm quyền. Thẩm quyền được nói đến trong văn bản pháp luật là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung nhằm đảm bảo tính hợp pháp cho văn bản được ban hành. * Xây dựng văn bản phải đúng thẩm quyền về nội dung. - Thẩm quyền về nội dung của chủ thể ban hành văn bản pháp luật là “giới hạn quyền lực” do pháp luật quy định cho các chủ thể ban hành văn bản để giải quyết những công việc nhất định trong phạm vi chức năng, 12 nhiệm vụ, quyền hạn, chính là việc chủ thể đó được sử dụng quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí. * Xây dựng văn bản phải đúng thẩm quyền về hình thức. Thẩm quyền về hình thức là việc chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định trong việc ban hành văn bản pháp luật theo tên gọi (hình thức) nhất định. 1.3.2. Xây dựng văn bản phải được tiến hành đúng thủ tục do pháp luật quy định. Thủ tục trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật được hiểu là cách thức và trình tự tiến hành các hoạt động cần thiết của chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ban hành văn bản pháp luật. Trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật có nhiều thủ tục được áp dụng cho việc ban hành văn bản bao gồm một số hoạt động được thực hiện theo những trình tự nhất định. Việc xác lập các thủ tục này thường xuất phát từ thẩm quyền ban hành văn bản, phạm vi điều chỉnh của văn bản và chủ đề văn bản. Ví dụ: Thủ tục lập biên bản trước khi ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với mức phạt từ 200.000 trở lên.. Hoặc: Thủ tục trình dự án Luật, Pháp lệnh tại kỳ họp của Quốc hội; Thủ tục thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. 1.3.3. Xây dựng văn bản pháp luật phải được tiến hành đúng chuyên môn, nghiệp vụ. a. Khảo sát thực tiễn. 13 Trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật, việc khảo sát thực tiễn là xâm nhập thực tiễn để nắm bắt tồn tại xã hội liên quan tới nội dung văn bản được ban hành. Đây là công đoạn nhằm phát hiện về nhu cầu các quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật ở những giai đoạn nhất định. Hoạt động này mang tính định hướng giúp cho văn bản ban hành phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phù hợp đường lối chủ trương của Đảng, đáp ứng nguyện vọng nhân dân lao động, phù hợp với các đối tượng có liên quan đến việc thực hiện văn bản pháp luật có tính khả thi. b. Nghiên cứu. Trong quá trình ban hành văn bản người soạn thảo phải tiến hành nghiên cứu nắm bắt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lí luận khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề có liên quan đến chủ đề của dự thảo văn bản để ban hành văn bản đáp ứng yêu cầu về chính trị, yêu cầu về pháp lí và kĩ thuật. Tuy nhiên, đối với từng loại văn bản pháp luật là văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật hay văn bản hành chính sẽ có cách thức phù hợp cho hoạt động nghiên cứu. c. Soạn thảo văn bản pháp luật. Soạn thảo văn bản pháp luật là hoạt động do nhiều chủ thể thực hiện, là hoạt động thể hiện ý chí nhà nước. Vì vậy, đối với các nhóm văn bản khác nhau, hoạt động này được thực hiện bằng những cách thức tiến hành khác nhau. - Đối với văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động soạn thảo được thực hiện bởi sự phối hợp, tham gia của nhiều chủ thể. Trong nhiều trường hợp, chủ thể soạn thảo văn bản không phải là chủ thể banh hành văn bản. Nhìn 14 chung, các hoạt động được tiến hành trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật gồm: + Viết dự thảo văn bản và thảo luận góp ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. + Đánh giá việc thi hành các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến nội dung của dự thảo. + Khảo sát, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến nội dung dự thảo. Trong hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, việc xây dựng đề cương dự thảo văn bản là công đoạn có ý nghĩa quan trọng đối với cơ cấu và nội dung của văn bản. - Đối với văn bản áp dụng pháp luật và văn bản hành chính, việc tổ chức soạn thảo thường do một hoặc một số cá nhân được giao nhiệm vụ soạn thảo, sau đó lấy ý kiến của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân liên quan khi xét thấy cần thiết. Nhìn chung, việc xây dựng đề cương dự thảo thường không phải là yêu cầu bắt buộc như văn bản quy phạm pháp luật đối với 2 nhóm văn bản này. d. Thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản. Thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản pháp luật là hoạt động mang tính chuyên môn trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật nhằm đảm bảo tính hợp hiến, tính hợp pháp và nâng cao tính đồng bộ, tính thực thi của hệ thống pháp luật. Hoạt động này được thực hiện bởi một số cơ quan chuyên môn có thẩm quyền, nhằm xem xét, đánh giá một cách toàn diện, chính xác, khách quan dự thảo văn bản trước khi ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành. 15 Theo quy định của pháp luật, hoạt động thẩm định, thẩm tra được tiến hành bởi một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm: - Cơ quan chuyên môn có chức năng, nhiệm vụ thực hiện hoạt động thẩm định dự thảo văn bản trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản. Ví dụ: Bộ Tư pháp thẩm định dự án luật để Chính phủ xem xét trước khi quyết định trình Quốc hội. Hoặc: Sở Tư pháp thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh trước khi trình. - Cơ quan chuyên môn có hoạt động liên quan đến nội dung, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh. - Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội thẩm tra (Luật, Pháp lệnh) - HĐND, các Ban của HĐND (thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật của các địa phương ban hành) e. Thông qua văn bản pháp luật. Thông qua văn bản pháp luật là hoạt động được tiến hành sau khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản nhận được dự thảo văn bản. Tuỳ thuộc nội dung dự thảo văn bản pháp luật, cơ quan có thẩm quyền có thể thông qua văn bản theo một số hướng sau: - Thông qua dự thảo văn bản mà không có sự sửa đổi hoặc bổ sung (thông qua toàn văn). - Thông qua dự thảo sau khi đã sửa đổi hoặc bổ sung một số nội dung nhất định. - Thủ tục thông qua văn bản pháp luật được tiến hành theo 2 cách, tuỳ theo loại văn bản và cơ quan thông qua văn bản. 16 + Cơ quan hoạt động theo chế độ tập thể thì dự thảo văn bản được thông qua bằng biểu quyết đa số. + Cơ quan hoạt động theo chế độ cá nhân thủ trưởng thì thủ trưởng đơn vị là người có thẩm quyền thông qua. f. Ký văn bản pháp luật. Là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền sử dụng chữ kí của mình đã đăng kí với Nhà nước để minh chứng cho việc ban hành văn bản pháp luật đã được chủ thể có thẩm quyền thông qua đúng thủ tục và thể thức do pháp luật quy định g. Ban hành văn bản pháp luật. Là việc công khai toàn bộ văn bản pháp luật đã được thông qua cho các đối tượng chịu sự tác động biết và thực hiện. Tuỳ theo từng loại văn bản pháp luật và chủ thể ban hành văn bản, hình thức ban hành văn bản có những cách thức như: Công bố (đối với văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội); ... tích, trọng lượng, khối lượng, số lượng, chiều dài Trên cơ sở những dấu hiệu định tính của hành vi, chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải dự đoán về khả năng “đem lại lợi ích” hay “xâm hại lợi ích” của Nhà nước, của xã hội đối với hành vi đó để làm cơ sở lựa chọn quy phạm tương ứng ban hành từ đó đưa ra các phán quyết cụ thể đối với từng hành vi. Có thể lựa chọn một trong những cách thức sau đây để phán quyết đối với từng hành vi cụ thể: Cấm thực hiện hành vi (quy phạm ngăn cấm) Bắt buộc thực hiện hành vi (quy phạm đặt nghĩa vụ) Cho phép thực hiện hành vi (quy phạm trao quyền) a. Soạn thảo quy phạm pháp luật cấm thực hiện hành vi Đây là quy phạm pháp luật mà nội dung của phần quy tắc xác định hành vi nào đó mà chủ thể không được phép thực hiện. - Điều kiện để lựa chọn hành vi bị cấm thực hiện đó là hành vi có khả năng xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Với nhóm hành vi này có thể xuất phát từ tính chất khách quan của hành vi như hành vi giết người . Hoặc tính chất khách quan ẩn chứa trong hành vi như buôn bán, tàng trữ, sử dụng ma túy. - Thông thường để thiết lập các quy phạm pháp luật cấm thực hiện hành vi, người soạn thảo sử dụng câu bắt đầu bằng các từ: Không cho phép Không được mô tả hành vi 98 Cấm Nghiêm cấm Người soạn thảo có thể lựa chọn một trong các từ trên tùy thuộc vào mức độ hành vi cần mô tả mà không được nối các từ đó lại với nhau khi diễn đạt hành vi bị cấm. Ví dụ: Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ b. Soạn thảo quy phạm pháp luật bắt buộc thực hiện hành vi Đây là quy phạm pháp luật mà nội dung của phần quy tắc xác định hành vi nào đó mà chủ thể buộc phải thực hiện. - Điều kiện để lựa chọn hành vi bắt buộc thực hiện đó là hành vi có khả năng đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội. Hoặc nếu không thực hiện sẽ gây hậu quả bất lợi cho nhà nước, cho xã hội. - Hướng phán quyết này thường được diễn đạt bằng cách Ai Có trách nhiệm Có nghĩa vụ mô tả hành vi (chủ thể quan hệ pháp luật) Cần Phải Ví dụ: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật ” Điều 80 Hiến pháp 1992. Hoặc: Bắt buộc ai làm gì mô tả hành vi Làm gì đối với ai 99 Ví dụ: Bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông trên các phương tiện xe gắn máy. c. Soạn thảo quy phạm pháp luật cho phép thực hiện hành vi Đây là quy phạm pháp luật mà nội dung của phần quy tắc xác định hành vi nào đó mà chủ thể có thể được thực hiện. - Điều kiện để lựa chọn quy phạm cho phép thực hiện hành vi đó là hành vi không xâm hại đến lơi ích của Nhà nước, của xã hội mà có khả năng đem lại lợi ích cho Nhà nước, cho xã hội. Trong những trường hợp này, nhà nước không cấm và cũng không bắt buộc thực hiện hành vi, mà cho phép chủ thể lựa chọn hoặc thực hiện hoặc không thực hiện hành vi. - Hướng phán quyết này thường được diễn đạt bằng cách Ai Có quyền phần mô tả hành vi (chủ thể quan hệ pháp luật) Được quyền Ví dụ: Công dân được quyền có chỗ ở hợp pháp Hoặc: Ai Có quyền được hưởng cái gì (vật chất (chủ thể quan hệ pháp luật) Được hưởng hay tinh thần Đây là hướng xác lập quy phạm pháp luật “trao quyền” của đối tượng thi hành văn bản, cho phép họ lựa chọn hành vi của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật 100 Ví dụ: Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật” (điều 57 Hiến pháp 1992) Khi soạn thảo quy phạm điều chỉnh hành vi của chủ thể cần xem xét về các biện pháp bảo đảm thực hiện phán quyết đối với hành vi. Về cách thức thực hiện hành vi thường là những nội dung xác định điều kiện, hoàn cảnh, thời gian thực hiện hành vi được xác lập cùng với hành vi và lượng phán quyết của cơ quan ban hành văn bản đối với hành vi đó. Thông thường, cách thức xác lập nội dung này được trình bày trong cùng một điều khoản của văn bản. - Theo quy định của pháp luật, đối với các hành vi mà nhà nước bắt buộc thực hiện hoặc cho phép thực hiện khi soạn thảo cần trình bày đầy đủ các yếu tố về chủ thể thực hiện hành vi, điều kiện và thời gian thực hiện hành vi. Ví dụ: Cách thức thực hiện đối với hành vi: + Hành vi khiếu nại, tố cáo (theo luật khiếu nại, tố cáo). + Hành vi gửi giấy triệu tập đối với các đối tượng: theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. - Đối với hành vi bị cấm thực hiện thì không cần phải xác lập các nội dung quy định về chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện và thời gian thực hiện hành vi, mà chỉ xác lập hướng phán quyết của cơ quan ban hành văn bản cùng với hành vi bị cấm đoán. Về các biện pháp bảo đảm thực hiện pháp luật thường được quy ở hai nhóm là: cưỡng chế và khen thưởng đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan đến hành vi được quy định. 101 - Các biện pháp này có thể được xác định ngay trong cùng văn bản quy phạm pháp luật với những điều khoản về quản lý nhà nước như: các biện pháp kỷ luật (hoặc khen thưởng) đối với cán bộ, công chức. Ví dụ: “ Luật giáo dục Chương VIII: Khen thưởng và xử lý vi phạm 1. Phong tặng danh hiệu NGND, NGƯT 2. Khen thưởng đối với tổ chức, cá nhân có thành tích trong giáo dục. 3. Khen thưởng đối với người học” 2.3. Soạn thảo phần kết thúc (hiệu lực pháp lí) của văn bản quy phạm pháp luật Hiệu lực pháp lí của văn bản quy phạm pháp luật là khả năng tác động của văn bản lên các quan hệ xã hội trong những phạm vi nhất định như: phạm vi không gian, thời gian và đối tượng tác động của văn bản. Thông thường, đối với văn bản quy phạm pháp luật phần này có thể được kết cấu ngay trong chương những quy định chung được quy định về phạm vi điều chỉnh. Ngoài ra, phần điều khoản thi hành được xác lập ở chương cuối cùng của văn bản quy phạm pháp luật thường xác lập hiệu lực về thời gian. 2.3.1. Soạn thảo quy phạm về phạm vi tác động của văn bản quy phạm pháp luật Phạm vi tác động (phạm vi điều chỉnh) của văn bản quy phạm pháp luật là khả năng tác động của văn bản ở những phạm vi về không gian, thời gian và phạm vi về lĩnh vực chuyên môn nhất định. a. Phạm vi tác động về không gian của văn bản quy phạm pháp luật: là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật được xác định theo 102 phạm vi lãnh thổ về địa lý, vùng, hay khu vực mà theo đó văn bản có hiệu lực pháp luật. Phạm vi không gian của văn bản quy phạm pháp luật thường không được xác lập bằng một quy phạm cụ thể mà căn cứ vào vị trí của cơ quan ban hành văn bản. Do đó, theo nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành có khả năng tác động trên toàn quốc, văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ở địa phương ban hành có khả năng tác động trên phạm vi ở địa phương đó. 18 Trường hợp có những thay đổi về phạm vi không gian hay tự thu hẹp khả năng tác động của văn bản quy phạm pháp luật thì cần xác định rõ văn bản được thực hiện ở phạm vi không gian nào. Khi đó nên trình bày nội dung này thành một quy định độc lập với những nội dung khác. Trong thực tiễn, khả năng này được xác lập trong một só trường hợp sau: + Đặt ra các quy định để thực hiện thử nghiệm. + Đặt ra các quy định chỉ liên quan tới một số địa phương có những đặc thù về địa lý, dân cư, điều kiện kinh tế - xã hội. b. Phạm vi tác động về thời gian Là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật được xác định trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi văn bản phát sinh hiệu lực đến khi kết thúc. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định hiệu lực của văn bản bao gồm: thời điểm bắt đầu có hiệu lực, hiệu lực trở về trước, ngưng hiệu lực và trường hợp văn bản hết hiệu lực. 18 xem điều 82, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 103 - Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được xác lập trong chương điều khoản thi hành với quy phạm pháp luật có tên gọi “ Hiệu lực thi hành” điều 78, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Ví dụ: Điều 95, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành Đối với văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành được quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân và Ủy ban nhân dân năm 2004. Theo đó: thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh ban hành không được sớm hơn 10 ngày; cấp huyện không được sớm hơn 07 ngày; văn bản cấp xã không được sớm hơn 05 ngày. - Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật (hiệu lực hồi tố): được hiểu là giá trị tác động của văn bản đối với những vụ việc xảy ra trước khi văn bản có hiệu lực Điều 79 quy định: Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước. - Ngưng hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật: 104 Văn bản bị ngưng hiệu lực khi có quyết định của chủ thể có thẩm quyền cho tạm dừng việc áp dụng văn bản đó cho đến khi có quyết định khôi phục lại hiệu lực. Khoản 1, điều 80 quy định: Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ việc thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực Điều 81 quy định: Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây: 1. Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định trong văn bản; 2. Được sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng văn bản mới của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó; 3. Bị hủy bỏ hoặc bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với quy định về ngưng hiệu lực và hết hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật còn được quy định cụ thể khác. c. Phạm vi tác động về lĩnh vực chuyên môn. Trên thực tế, các văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung điều chỉnh các vấn đề mang tính chuyên môn thường tập trung vào một vấn đề có tính trọng tâm, trọng điểm. Khi đó, cần xác lập hướng tìm hiểu nội dung của vấn đề liên quan đến ngành hoặc lĩnh vực cụ thể nào; vấn đề liên quan đến một hay nhiều lĩnh vực khác nhau và thuộc thẩm quyền quản lý của một hay nhiều ngành để xác định phạm vi tác động của văn bản. 105 Để xác định đúng khả năng tác động của văn bản vào những vấn đề hoặc lĩnh vực nhất định, cần xem xét một số cách xác lập như sau: - Nếu vấn đề có liên quan đến nhiều ngành (lĩnh vực) cần lựa chọn văn bản của một trong hai cơ quan sau: + Cơ quan quyền lực (Quốc hội, hội đồng nhân dân) + Cơ quan có thẩm quyền quản lý chung (Chính phủ, ủy ban nhân dân) - Nếu vấn đề có liên quan đến một ngành (lĩnh vực) cần lựa chọn văn bản của cơ quan có thẩm quyền quản lý chuyên môn. - Nếu vấn đề có liên quan đến một hoặc hai ngành (lĩnh vực) cần lựa chọn văn bản liên tịch. 2.3.2. Soạn thảo quy định về đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật. Trong văn bản quy phạm pháp luật, đối tượng tác động của văn bản là những cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có trách nhiệm thi hành văn bản, có quyền và nghĩa vụ liên quan tới nội dung trong văn bản. Thông thường, đối tượng tác động của văn bản quy phạm pháp luật được xác lập một cách chung chung và diễn đạt theo hướng viết trừu tượng hoá. Cách thức xác lập thường tập trung vào hai nhóm đối tượng. - Thứ nhất, nhóm đối tượng được cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trao quyền. Tức là, khi thi hành văn bản quy phạm pháp luật nhóm đối tượng này được sử dụng quyền lĩnh vực nhà nước trong những trường hợp cụ thể. 106 Khi xác lập nhóm đối tượng này trong văn bản quy phạm pháp luật cơ quan ban hành văn bản thường xác định rõ chức vụ, hành vi, thẩm quyền của cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thi hành văn bản - Thứ hai, nhóm đối tượng thi hành văn bản quy phạm pháp luật với tư cách cá nhân, tổ chức không sử dụng quyền lực nhà nước. Trên thực tế, việc xác lập nhóm đối tượng này thường không giống nhau giữa các văn bản quy phạm pháp luật do có sự không đồng nhất về nội dung các vấn đề, cũng như phạm vi điều chỉnh của văn bản. Do vậy, nhóm đối tượng không sử dụng quyền lực nhà nước khi thi hành văn bản quy phạm pháp luật thường được xác định là mọi cá nhân, tổ chức, nhưng cũng có thể chỉ là một, nhóm người có chung nghề nghiệp, mục đích. Ngoài ra, cách thức xác lập phần đối tượng thi hành văn bản quy phạm pháp luật còn được đề cập ở một số khuynh hướng sau đây: - Khuynh hướng thứ nhất, sử dụng các ngữ danh từ chỉ người để chỉ các đối tượng đại diện cho một nhóm người có chung dấu hiệu đặc thù về độ tuổi, hành vi, nghề nghiệp, mục đích như trẻ em, người chưa thành niên, người khởi kiện, người lao động, cán bộ, công chức, hoặc tổ chức có cùng các dấu hiệu về hoạt động, tổ chức như: pháp nhân, thể nhân, công ty Cách xác lập này được sử dụng để xác định đối tượng tác động của toàn văn bản, khi sự có mặt của nó được coi là việc biểu đạt chung cho các quy định pháp luật trong nội dung văn bản. Thông thường, cách quy định này được trình bày trong văn bản quy phạm pháp luật với ý nghĩa là các quy phạm giải thích. Ví dụ: Người khởi kiện, Người tố cáo - Khuynh hướng thứ hai là việc hình thành các kiểu câu khuyết chủ ngữ hoặc không xác lập phần chủ ngữ khi mô tả đối tượng thi hành văn bản. 107 Tức là, không chỉ ra đối tượng tác động của văn bản mà sử dụng một số từ có ý nghĩa mặc định để chỉ bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào như: người nào, tổ chức nào Ví dụ: Người nào trả thù người khiếu nại, tố cáo thì bị phạt tù từ Hoặc để chỉ tất cả mọi đối tượng. Ví dụ: Nghiêm cấm việc chuyển, sử dụng, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma tuý. Tuy nhiên, việc sử dụng các từ ngữ này trong một số trường hợp cần xét tới yếu tố ngữ cảnh được xác lập trong văn bản. Tức là, cần đặt cách xác lập này trong phạm vi nội dung văn bản để từ đó xác định hướng hiểu, hướng áp dụng thống nhất. Chẳng hạn, với từ “Người nào” khi đặt trong nội dung của Bộ luật Hình sự thì không được hiểu là tất cả mọi cá nhân, mà chỉ gồm những người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 12 của Bộ luật Hình sự. CÂU HỎI ÔN TẬP 1.Nêu khái niệm, đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật. Phân biệt văn bản quy phạm pháp luật và văn bản pháp luật. 2. Nêu thẩm quyền của chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nhận xét thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi bổ sung năm 2002. 3. So sánh quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với thủ tục đầy đủ và thủ tục rút gọn. 108 4. Trình bày hiệu lực pháp lí của văn bản quy phạm pháp luật. 5. Tại sao thẩm định là hoạt động bắt buộc trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
File đính kèm:
- giao_trinh_ky_thuat_xay_dung_van_ban_phap_luat.pdf