Giáo trình Pháp luật về hợp đồng (Phần 1)
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng
Các văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ hợp đồng rất nhiều, bao gồm: Bộ
luật dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Bộ luật hàng hải năm 2005; Luật
Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa
đổi, bổ sung năm 2004); Luật Xây dựng năm 2004; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật
Đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009; Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006; Luật
Nhà ở năm 2005; Luật chuyển giao công nghệ năm 2006.
Có thể phân biệt thành hai nhóm như sau;
Nhóm 1: các quy định chung về hợp đồng: Bộ luật dân sự năm 2005.
- Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là những nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản
trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Các
quan hệ này diễn ra giữa các chủ thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có vị trí
độc lập, bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt, tự gánh chịu rủi ro cà tự chịu trách nhiệm
trong các giao lưu dân sự.
- Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức, biện pháp tác động của
ngành luật đó lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát
sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước phù hợp với ý chí của các chủ thể
tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập thể và các chủ thể khác
Nhóm 2: các quy định chuyên ngành: pháp luật về tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm,
xây dựng, vận chuyển, đầu tư chuyển giao công nghệ, thương mại và bất động sản.
Nhóm các văn bản pháp luật chuyên ngành có đối tượng điều chỉnh rộng trong đó có
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đặc thù trong các lĩnh vực chuyên ngành đó.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Pháp luật về hợp đồng (Phần 1)
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh GIÁO TRÌNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG Vinh - 2011 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh GIÁO TRÌNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG (Giáo trình đào tạo từ xa) Vinh - 2011 3 Phân công biên soạn: - Chủ biên: Nguyễn Thị Thanh - Các tác giả: ThS.Nguyễn Thị Thanh: Chương 1, 3 ThS.Phạm Thị Thúy Liễu: Chương 2, 4 CN. Hà Thị Thúy: Chương 5, 6 4 MỤC LỤC CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng 2. Khái niệm hợp đồng 3. Đặc điểm của hợp đồng 4. Phân loại hợp đồng dân sự 5. Nội dung của hợp dồng dân sự 6. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự CHƯƠNG 2: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG 1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng 2. Hợp đồng vô hiệu và các trường hợp hợp đồng vô hiệu 3. Phân loại 4. Hậu quả pháp lý: CHƯƠNG 3 TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG 1. Trách nhiệm dân sự 2. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng CHƯƠNG 4: MỘT SỐ LOẠI HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG 1. Hợp đồng mua bán nhà ở 2. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ 3. Hợp đồng cầm cố - dạng hợp đồng có mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ 4. Hợp đồng thế chấp tài sản 5. Một số mẫu hợp đồng cầm cố và thế chấp: CHƯƠNG 5: CÁC PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG 1. Thương lượng 2. Hòa giải 3. Trọng tài CHƯƠNG 6: KỸ THUẬT SOẠN THẢO HỢP ĐỒNG DÂN SỰ 1. Lý do vì sao phải soạn thảo hợp đồng 2. Kỹ thuật soạn thảo hợp đồng 3. Yêu cầu đối với việc soạn thảo một số hợp đồng để tranh hậu quả gây vô hiệu phổ biến tại Việt Nam 4. Các bước soạn thảo hợp đồng 5 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 1. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng Các văn bản pháp luật điều chỉnh về quan hệ hợp đồng rất nhiều, bao gồm: Bộ luật dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Bộ luật hàng hải năm 2005; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2004); Luật Xây dựng năm 2004; Luật Kinh doanh bảo hiểm; Luật Đất đai năm 2003 sửa đổi năm 2009; Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006; Luật Nhà ở năm 2005; Luật chuyển giao công nghệ năm 2006.... Có thể phân biệt thành hai nhóm như sau; Nhóm 1: các quy định chung về hợp đồng: Bộ luật dân sự năm 2005... - Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là những nhóm quan hệ về nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Các quan hệ này diễn ra giữa các chủ thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có vị trí độc lập, bình đẳng, tự nguyện, tự định đoạt, tự gánh chịu rủi ro cà tự chịu trách nhiệm trong các giao lưu dân sự. - Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức, biện pháp tác động của ngành luật đó lên các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước phù hợp với ý chí của các chủ thể tham gia quan hệ nhưng tôn trọng lợi ích của nhà nước, của tập thể và các chủ thể khác Nhóm 2: các quy định chuyên ngành: pháp luật về tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, vận chuyển, đầu tư chuyển giao công nghệ, thương mại và bất động sản... Nhóm các văn bản pháp luật chuyên ngành có đối tượng điều chỉnh rộng trong đó có điều chỉnh các quan hệ hợp đồng đặc thù trong các lĩnh vực chuyên ngành đó. 2. Khái niệm hợp đồng 2.1 Lịch sử chế định hợp đồng: Xuất hiện đầu tiên trong Luật Lamã (TK V –IV trc CN), sau đó du nhập vào Tây âu theo phong trào phục hưng Ở Việt nam, có hai nguyên nhân làm cho chế định này không hình thành phát triển được, đó là do: chính sách ức thương của triều đình phong kiến. Mặt khác luật lệ phong kiến lúc bấy giờ là xử theo quan (không có luật thành văn) nên tâm lý người dân không thiện chí với luật và lánh xa quan toà. Do vậy khái niệm hợp đồng không được nhắc trong Luật Hồng Đức hay Luật Gia Long. thể hiện không thật rõ nét qua các tình huống cụ thể như việc mua, bán, vay nợ, thuê mướn, bảo lãnh. Nói chung không có tính khái quát cao và áp dụng chung cho mọi trường hợp. - Thời kỳ pháp thuộc: Bộ Dân Luật giản yêu Nam kỳ (1883, Bộ Dân luật Trung kỳ (1936 và bộ Dân luật bắc kỳ (1931): các quy định của pháp luật về hợp đồng có sự ảnh hưởng theo tư tưởng và pháp luật của Pháp. - Thời kỳ Việt Nam dân chủ cộng hoà: Miền bẮc có: áo dụng luật cũ để giải quyết. Miền Nam có Bộ Luật dân sự Sài Gòn (1972) và bộ luật thương mại (1973) 6 - Sau 1975: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989 và Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991. Việc ban hành hai văn bản pháp luật về hợp đồng tạo nên sự hạn chế: hợp đồng vẫn bị cắt thành hai chế định tồn tại song song độc lập với nhau - BLDS 1995 ra đời nhưng pháp lệnh kinh tế vẫn có hiệu lực. Sau đó Luật Thương mại ra đời (1997) dẫn tới tình trạng tách rời chế định hợp đồng này vẫn tồn tại dài lâu và việc áp dụng các nguyên tắc của dân luật để giải quyết các tranh chấp phát sinh không có (khác với các nước trên thế giới theo truyền thống civil law - Đến năm 2005, BLDS 2005 ra đời là đạo luật chung điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản và cũng chấm dứt tình trạng chế định hợp đồng tác biệt. Đối với một số loại hợp đồng đặc thù ngành luật thương mại sẽ áp dụng luật chuyên ngành trước khi áp dụng nguyên tắc của luật chung để giải quyết. 2.2. Khái niệm: - Khái niệm hợp đồng theo luật La Mã: Theo tiếng latinh là: contractus nghĩa là ràng buộc. Các luật gia La Mã định nghĩa hợp đồng là căn cứ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật với hai dấu hiệu đặc trưng không thể thiếu: phải có sự thỏa thuận và phải có mục đích (mục đích pháp lý nhất định). Mục đích pháp lý này có thể là mong muốn tặng cho tiếp nhận một nghĩa vụ hoặc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nói chung. Ảnh hưởng khái niệm hợp đồng trong luật La Mã lan rộng trong các bộ dân luật Châu Âu, bắt đầu từ BLDS Pháp 1804, sau đó các nước khác: Ý, Nhật, Ai Cập, Nga... BLDS Pháp quy định: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc” BLDS Nga 1994: ”HĐ là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự” BLDS Đức không định nghĩa về HĐ mà quy định theo hướng HĐ được hình thành như thế nào ”người đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng với người khác phải chịu ràng buộc bởi đề nghị của mình, trừ trường hợp người đưa ra đề nghị thể hiện rõ ràng rằng anh ta không bị ràng buộc bởi đề nghị đó. - Ở Việt Nam quy định hợp đồng có sự thay đổi theo thời kỳ. Do bối cảnh kinh tế - xã hội, pháp luật phong kiến không quy định khái niệm hợp đồng. Đến tân sau này, những năm 90 có khái niệm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự. Đến BLDS 1995 có quy định hợp đồng và khái niệm đó không thay đổi cho đến BLDS 2005. - Khái niệm hợp đồng theo phương diện khách quan: là các quy phạm do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. - Khái niệm hợp đồng theo phương diện chủ quan: hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. BLDS 2005 chỉ rõ: ”hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc chấm dứt, thay đổi các quỳên và nghĩa vụ dân sự” (Đ388). Khái niệm hợp đồng dân sự ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm trong các lĩnh vực: dân sự theo nghĩa hẹp, hôn nhân và gai đình, thương mại kinh doanh và lao động. 7 Có thể thấy hợp đồng chiếm vị trí quan trọng trong BLDS: Trong tổng số 777 điều có trên dưới 250 điều quy định trực tiếp về hợp đồng 3. Đặc điểm của hợp đồng - Là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều chủ thể dân sự: + Các bên trong hợp đồng có sự khác biệt về lợi ích thỏa thuận để hướng tới mục tiêu cao nhất là hai bên cùng có lợi; + Các chủ thể phải bày tỏ ý chí của mình dưới một hình thức nhất định; + Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng (bao gồm cả trách nhiệm dân sự) do các bên thỏa thuận (Trừ các quyền, nghĩa vụ được qui định bởi pháp luật); + Thỏa thuận có hiệu lực là luật đối với các bên trong hợp đồng; - Mục đích của hợp đồng là nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự: + Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu không có mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự; + Mục đích của thỏa thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội 4. Phân loại hợp đồng dân sự Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà phân loại thành các hợp đồng khác nhau: - Theo hình thức của hợp đồng: hợp đồng được phân chia thành hợp đồng miệng, hợp đồng bằng văn bản, hợp đồng bằng hành vi - Theo mối liên hệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên chủ thể: hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng đơn vụ (chỉ có người bảo lãnh có nghĩa vụ) Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ đối với nhau. Tức là mỗi bên hợp đồng vừa có quyền và vừa có nghĩa vụ. Ví dụ: Hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ có bên có nghĩa vụ nhưng không có quyền đối với bên kia và bên kia có quyền nhưng không phải thực hiện nghĩa vụ nào cả. Trong luật thực định Việt Nam, quan hệ giữa các bên trong hợp đồng song vụ chịu sự chi phối của một số quy tắc không được áp dụng cho hợp đồng đơn vụ: nếu một bên trong hợp đồng song vụ không thể thực hiện nghĩa vụ do lỗi của bên kia, thì có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. - Căn cứ vào sự phụ thuộc về hiệu lực: hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng khác Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực của hợp đồng phụ thuộc vào hợp đồng chính - Căn cứ về mối liên hệ về lợi ích giữa các chủ thể: hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù Hợp đồng có đền bù: Là hợp đồng mà mỗi bên đều nhận được lợi ích từ phía bên kia. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp đều là lợi ích vật chất mà có thể cũng là lợi ích tinh thần. 8 Đa phần các hợp đồng dân sự đều là hợp đồng có đền bù vì xuất phát từ đặc điểm cơ bản của quan hệ dân sự (chủ yếu là quan hệ tài sản) mang tính chất ngang giá, đền bù tương đương. Hầu hết các hợp đồng mang tính chất đền bù là hợp đồng song vụ và ngược lại. Nhưng cũng có nhiều hợp đồng có đền bù nhưng lại là hợp đồng đơn vụ . Mặt khác, nhiều hợp đồng song vụ nhưng không mang tính đền bù. Hợp đồng không có đền bù là hợp đồng chỉ có một bên được nhận lợi ích từ phía bên kia và ngược lại. - Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng: Hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế: Hợp đồng ưng thuận: Là những hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được xác định vào thời điểm giao kết như hợp đồng mua bán Hợp đồng thực tế: là những hợp đồng mà sau khi thỏa thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. - Các hợp đồng đặc biệt: + Hợp đồng có điều kiện: Là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc thỏa thuận nội dung của hợp đồng, các bên còn thỏa thuận các điều kiện như khi xảy ra sự kiện nào thì hợp đồng mới phải thực hiện hoặc chấm dứt + Hợp đồng hỗn hợp: Là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải có nghĩa vụ và người thứ ba là người được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó. Ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thuê người chăm sóc người khác + Hợp đồng mẫu: Là những hợp đồng mà khi cùng một lúc làm phát sinh những quyền, nghĩa vụ dân sự với nội dung của hai hay nhiều hợp đồng thông thường khác. Trong thực tiễn, có hợp đồng mà nội dung được một bên chuẩn bị sẵn, được công bố rộng rãi cho mọi người và người đối tác chỉ có thể lựa chọn giữa chấp nhận và không chấp nhận giao kết chứ hầu như không có cơ hội thảo luận. Ðiển hình của loại thứ hai này là các hợp đồng vận chuyển đường sắt, đường không, hợp đồng cung ứng điện, nước, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng mua bán hàng hóa trong siêu thị. Loại hợp đồng này càng lúc càng trở nên thông dụng, theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ 5. Nội dung của hợp dồng dân sự Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận xác định quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Nội dung của hợp đồng dân sự bao gồm các điều khoản sau: điều khoản cơ bản (được gọi là nội dung chủ yếu của hợp đồng), các điều khoản tùy nghi và các điều khoản thông thường. - Điều khoản cơ bản: là những điều khỏan bắt buộc các bên phải thỏa thuận nếu thiếu những điều khỏan này thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khỏan cơ bản của mỗi loại hợp đồng có thể do pháp luật quy định và các bên thỏa thuận. - Điều khoản thông thường: là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận điều khoản này thì vẫn coi như 9 hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật quy định. Khi có tranh chấp thì sẽ căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết. Điều khỏan tùy nghi: là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Việc phân nội dung hợp đồng thành 3 nhóm điều khoản trên chỉ mang tính chất tương đối. Tự thân một điều khoản có thể bao hàm cả 3 loại điều khỏan cơ bản, thông thường và tùy nghi. 6. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự 6.1. Hình thức của hợp đồng: Hình thức được xem là phương tiện ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã thoả thuận. Hình thức của hợp đồng được Bộ luật dân sự quy định tại Điều 401. Các hình thức cụ thể của hợp đồng bao gồm: Hình thức miệng (bằng lời nói): Hình thức này được áp dụng trong những trường hợp các bên đã có độ tin cậy lẫn nhau hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt. Đối với hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng và thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hợp đồng này thường có hiệu lực pháp luật ngay tại thời điểm giao kết. Hình thức viết (bằng văn bản) áp dụng đối với những hợp đồng mà việc thực hiện và giao kết thường không xảy ra cùng một lúc. Đối với một số loại hợp đồng nhất định, pháp luật quy định phải lập thành văn bản như: hợp đồng thuê nhà có thời hạn dưới 6 tháng (Đ489 BLDS)Đối với các hình thức hợp đồng được lập bằng văn bản, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Hợp đồng được ký kết thành nhiều văn bản và mỗi bên giữ 1 bản. Khi tranh chấp hợp đồng xảy ra, hợp đồng được ký kết bằng văn bản là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp. Hình thức văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Hợp đồng có hình thức này là hợp đồng có giá trị chứng cứ cao nhất, được áp dụng đối với những đối tượng tài sản có tính chất quan trọng như bấ ... NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 và Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 18/04/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì việc xác định lỗi trong hợp đồng mua bán nhà ở, QSDĐ căn cứ vào: + Một bên (bên bán) bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà, đất hợp pháp. + Trường hợp hợp đồng mua bán nhà, đất vô hiệu do lỗi của bên nào thì tùy mức độ lỗi của mỗi bên (có thể bên bán hoặc bên mua) để buộc các bên phải chịu thiệt hại 20 (trừ trường hợp vi phạm điều cấm pháp luật và trái đạo đức xã hội) thì cần buộc các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tài sản giao dịch, hoa lợi lợi tức bị tịch thu trong trường hợp pháp luật có quy định khác Quy định tịch thu tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức khi hợp đồng vô hiệu được quy định nhằm xử lý những tài sản là đối tượng của hợp đồng nhưng thuộc diện tài sản Nhà nước tịch thu, sung công quỹ. Trước đây, điều 137 BLDS 1995 đã quy định về trường hợp tịch thu, cụ thể là “giao dịch dân sự có nội dung vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu; tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu, sung quỹ nhà nước. 5. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu BLDS 2005 đã qui định thời hiệu khởi kiện khác nhau dựa trên sự phân loại hợp đồng vô hiệu: Thứ nhất là: Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều luật từ Điều 130 đến Điều 134, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu là hai năm bắt đầu từ thời điểm xác lập. Thứ hai là: Đối với các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 128 và Điều 129 BLDS (giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo; giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội), thì không bị hạn chế thời hạn. CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN 1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng? 2. Thế nào là hợp đồng vô hiệu? Phân loại hợp đồng vô hiệu? 3. So sánh hợp đồng vô hiệu tương đối và hợp đồng vô hiệu tuyệt đối? 4. Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2005 so với Bộ luật Dân sự 1995 về quy định hợp đồng vô hiệu? 5. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu? 21 CHƯƠNG 3 TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG 1. Trách nhiệm dân sự 1.1. Khái niệm và các loại trách nhiệm dân sự Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ phát sinh giữa các chủ thể, khi bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại, do bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ với bên có quyền Theo nghĩa chủ quan: trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật do vi phạm quan hệ nghĩa vụ dân sự, phải bồi thường thiệt hại hoặc thực hiện công việc hoặc không thực hiện công việc đối với bên có quỳên bị xâm phạm và phải gánh chịu những hậu quả bất lợi khác về tài sản Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có hành vi trái pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó. Trách nhiệm này là hình thức cưỡng chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng và luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm đó + Biểu hiện của hành vi ở đây là: không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự. + Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến tài sản. + Áp dụng với người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể áp dụng đối với người khác (người đại diện cho người chưa thành niên) 22 + Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh là việc bắt buộc thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm thoả mãn quyền lợi của người bị vi phạm 2. Khái niệm trách nhiệm do vi phạm hợp đồng Vi phạm hợp đồng là hành vi đơn phương của một bên đã xử sự trái với cam kết trong hợp đồng. Khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không dầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”. Vi phạm cơ bản hợp đồng, theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, là “ sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích giao kết hợp đồng”. Đây là cơ sở để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng. Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng cũng được quy định tại Điều 25 Công ước Viên, theo đó “ một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một trường hợp đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự”. Từ quy định trên, xét về mặt lý thuyết, có thể thấy vi phạm hợp đồng được xác định dựa trên các yếu tố: Phải có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đó phải dẫn đến hậu quả là một bên mất đi điều mà họ chờ đợi (mong muốn có được) từ hợp đồng; bên vi phạm hợp đồng không thể nhận thấy trước được hậu quả của sự vi phạm đó. 2.1. Trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng + Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì bên có quyền được quyền yêu cầu họ phải giao đúng vật đó, nếu không phải thanh toán theo giá thị trường giá trị của vật. nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì phải bồi thường cả thiệt hại sau khi đã thanh tóan giá trị của vật cho bên có quyền. + Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một công việc Khi đó bên có quyền có thể: - Yeu cầu ben co nghĩa vụ tiếp tục thực hiện; - Tự mình thực hiện; - Giao cho người khác thực hiện công việc đó; - Tất cả các chi phí phát sinh họ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán, nếu phát sinh thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Nhưng đối với một công việc mà bên nghĩa vụ không được thực hiện mà lại thực hiện nó thì phải chấm dứt thực hiện, khơi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại. + Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Đ305) 23 Bên nghĩa vụ chưa hoàn thành nghĩa vụ khi đã quá thời hạn thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại. Bên nghĩa vụ thực hiện chậm đến mức việc thực hiện nghĩa vụ không cần thiết thì bên có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện đó và được bồi thường thiệt hại. Nếu là nghĩa vụ chậm trả tiền thì trả lãi bằng lãi suất cơ bản tại thời điểm đó của ngân hàng nhà nước, từ thời điểm phải thanh toán đối với số tiền chậm trả. + Trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ mà bên có quyền chậm tiếp nhận làm phát sinh thiệt hại thì họ phải bồi thường thiệt hại và chịu mọi rủi ro xảy ra từ thời điểm chậm tiếp nhận đó. 2.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại Trách nhiệm bồi thường này phát sinh khi có 4 điều kiện - Có hành vi trái pháp luật. - Có thiệt hại xác định được: Thiệt hại được hiểu ở đây là sự giảm bớt những lợi ích vật chất hợp pháp của một người xác định được như: tài sản bị tiêu huỷ, hư hỏng, giảm giá trị về tài sản những chi phí trong việc ngăn chặn hạn chế thiệt hại, những tổn thất do thu nhập thực tế bị giảm sút của bên có quyền, những chi phí khắc phục về hậu quả về tài sản do người vi phạm nghĩa vụ gây ra. Có thể chia ra thành thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại gián tiếp: dựa trên sự tính toán khoa học mới xác định được mức độ thiệt hại - Mối quan hệ giữa nhân quả và hành vi vi phạm pháp luật: Mối quan hệ nhân quả được hiểu là mối liên hệ phổ biến, biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng được xác định trên cở sở khách quan. Hành vi vi phạm là nguyên nhân, thiệt hại xảy ra là hậu quả. - Người vi phạm có lỗi: lỗi vô ý hoặc cố ý Lỗi cố ý: Một người đã nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác nhưng vẫn thực hiện hành ví đó. Nếu họ mong muốn hậu quả xảy ra do việc thực hiện hành vi đó thì gọi là lỗi cố ý. Nếu không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra thì đó là lỗi cố ý gián tiếp. 2.3. Phạt vi phạm hợp đồng Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật. Phạt vi phạm chỉ có thể xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Điều này có nghĩa phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên nên một bên không thể yêu cầu bên kia phải chịu phạt vi phạm nếu các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng về vấn đề này. Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận”. Theo quy định của LTM 2005 thì việc thoả thuận về phạt vi phạm chỉ xảy ra nếu trong hợp đồng có thỏa thuận. 24 Điều này có thể hiểu là phải có thỏa thuận từ trước trong hợp đồng. Nhưng quy định như trên của pháp luật là chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên, nếu như các bên chưa quy định về phạt vi phạm trong hợp đồng thì họ vẫn có quyền quy định một điều khoản ngoài hợp đồng, độc lập với hợp đồng và có thể giao kết sau khi hợp đồng được ký kết thì vẫn có hiệu lực thi hành bình thường như đã được quy định trong hợp đồng từ trước. Quy định trên của pháp luật đã làm hạn chế quyền tự thỏa thuận của các bên trong các quan hệ hợp tác. Phạt vi phạm hợp đồng là một thỏa thuận mang tính “mở”. Có nghĩa là không ai bắt buộc các bên phải thỏa thuận và ghi vào hợp đồng về việc này. Nhưng nếu các bên muốn thì có thể thỏa thuận và ghi vào hợp đồng. Và nếu đã ghi vào hợp đồng thì phải thực hiện đúng như vậy. + Vi phạm hợp đồng để có thể phạt vi phạm là những vi phạm cơ bản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của một bên trong quan hệ hợp đồng. Đó là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc vi phạm hợp đồng này có thể đã hoặc chưa gây ra thiệt hại thực tế thì bên bị vi phạm đều có quyền yêu cầu bên vi phạm hợp đồng chịu phạt vi phạm +. Có hành vi thiệt hại thực tế xảy ra. +. Hành vi vi phạm pháp luật hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. +. Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của LTM. Vì vậy, để chế định phạt vi phạm có thể phát huy hết khả năng trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong hợp đồng thì khi soạn thảo các thỏa thuận trong hợp đồng, các bên cần có quy định về các trường hợp phạt vi phạm cũng như điều kiện để tiến hành phạt vi phạm một cách chi tiết và cụ thể nhất. Để khi có vi phạm xảy ra, các bên không phải lúng túng trong việc xác định tính đúng sai của sự việc, cũng như xảy ra các tranh chấp không đáng có trong quan hệ hợp tác, dẫn đến những hậu quả không mong muốn trong quan hệ làm ăn hiện tại cũng như trong tương lai. + Chủ thể vi phạm không rơi vào các trường hợp miễn trách được quy định của pháp luật thương mại. Theo đó, phạt vi phạm phải được thỏa thuận trong hợp đồng. Do bản chất của phạt vi phạm là phải có thỏa thuận trong hợp đồng, nên khi có vi phạm xảy ra mà các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì các bên chỉ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại mà thôi. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.Chế định phạt vi phạm nhằm ngăn ngừa các vi phạm có thể xảy ra trong hợp đồng,là chế định xuất phát từ sự dự liệu về quan hệ của các bên khi tiến hành ký kết hợp đồng. Vì thế, chế tài phạt vi phạm có thể áp dụng cho dù chưa có thiệt hại xảy ra hoặc thiệt hại nhỏ hơn mức phạt vi phạm. Các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mình để có thể thỏa thuận những điều khoản hợp lý nhất. Nhưng ở 25 đây có sự không thống nhất giữa quy định về chế tài phạt vi phạm theo quy định của LTM 2005 và chế tài phạt vi phạm trong BLDS 2005. Điều 294 Luật Thương mại: “Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm: 1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đó thoả thuận; b) Xảy ra sự kiện bất khả khỏng; c) Hành vi vi phạm của một bờn hoàn toàn do lỗi của bên kia; d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. 2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.” - Mức phạt vi phạm hợp đồng Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, có hai văn bản pháp luật có giá trị điều chỉnh quan hệ về chế tài phạt vi phạm là Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. - Bộ luật dân sự 2005 quy định : + Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận. (Khoản 2 điều 422 Bộ luật dân sự ). + Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.(Khoản 3 điều 422 Bộ luật dân sự) Điều này có thể được hiểu là các bên có quyền tự lựa chọn mức phạt vi phạm mà không hề bị khống chế bởi quy định của pháp luật. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc tự do thỏa thuận theo quy định của luật dân sự. - Luật thương mại quy định: + “Mức phạt vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại điều 266 của Luật này” (Điều 301 Luật Thương mại). + Điều 266 Luật Thương mại quy định các trường hợp ngoại lệ như sau: “Phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai: 1. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định. 2. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định. 3. Khách hàng có nghĩa vụ chứng minh kết quả giám định sai và lỗi của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định.”
File đính kèm:
- giao_trinh_phap_luat_ve_hop_dong_phan_1.pdf