Hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam
Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường là một trong những
định hướng của Chính phủ Việt Nam hiện nay. Nhà nước đã và đang
áp dụng các công cụ chính sách, công cụ pháp luật và công cụ tài
chính nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Theo đó, Quỹ Bảo vệ môi
trường Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, được thành lập
và hoạt động như một công cụ tài chính nhà nước để thực thi và hỗ
trợ tài chính cho các doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động bảo
vệ môi trường, song song đồng hành cùng các chính sách, pháp luật
bảo vệ môi trường khác. Qua thời gian dài hình thành và phát triển,
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất
định nhưng vẫn còn một số tồn tại cần phải hoàn thiện hơn. Bài viết
phân tích công tác hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ
Bảo vệ môi trường Việt Nam giai đoạn vừa qua, chỉ ra những hạn
chế của hoạt động này, từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với hoạt
động cho hỗ trợ tài chính của Quỹ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam
28 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019 Hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Lê Hải Lâm Ngày nhận: 01/03/2019 Ngày nhận bản sửa: 11/03/2019 Ngày duyệt đăng: 25/03/2019 Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường là một trong những định hướng của Chính phủ Việt Nam hiện nay. Nhà nước đã và đang áp dụng các công cụ chính sách, công cụ pháp luật và công cụ tài chính nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Theo đó, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, được thành lập và hoạt động như một công cụ tài chính nhà nước để thực thi và hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường, song song đồng hành cùng các chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường khác. Qua thời gian dài hình thành và phát triển, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn một số tồn tại cần phải hoàn thiện hơn. Bài viết phân tích công tác hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam giai đoạn vừa qua, chỉ ra những hạn chế của hoạt động này, từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với hoạt động cho hỗ trợ tài chính của Quỹ. Từ khóa: Cho vay ưu đãi; Bảo vệ môi trường; Quỹ bảo vệ môi trường; Tín dụng nhà nước. 1. Khái quát về Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam ùng với sự phát triển của kinh tế và xã hội, Việt Nam trở thành một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường là do các doanh nghiệp, cá nhân thiếu nguồn vốn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt là các nguồn vốn ưu đãi. Nhằm giải quyết vấn đề này, ngày 26/6/2002 Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 82/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam (Quỹ) là một tổ chức tài chính nhà nước (quỹ ngoài ngân sách nhà nước) hoạt động không vì mục đích lợi nhuận. Quỹ là công cụ tài chính của nhà nước để thực thi nhiệm vụ bảo vệ môi trường quốc gia, giải quyết vấn đề cấp vốn đầu tư cho CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019 công tác bảo vệ môi trường. Quỹ trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường với vốn điều lệ ban đầu là 200 tỷ đồng. Đến nay, số vốn điều lệ của Quỹ là 1.000 tỷ đồng và được cấp từ nguồn ngân sách nhà nước theo quy định. Là một tổ chức tài chính nhà nước, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam có chức năng cho vay lãi suất ưu đãi, tài trợ, hỗ trợ lãi suất cho các chương trình, dự án, các hoạt động, nhiệm vụ bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu trên phạm vi toàn quốc. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận và phải bảo toàn vốn điều lệ. Nhìn lại kết quả sau gần 17 năm hoạt động đến nay, hoạt động hỗ trợ tài chính của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã có những kết quả nhất định, hoàn thành được một số nhiệm vụ, chính sách của nhà nước đề ra. Tuy nhiên, qua quá trình hoạt động cho thấy cơ chế hỗ trợ tài chính của Quỹ đã và đang bộc lộ nhiều vấn đề, dẫn tới hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam chưa được sâu, rộng, chuyên nghiệp và đảm bảo tầm cỡ của một Quỹ quốc gia để thực thi được đầy đủ nhiệm vụ bảo vệ môi trường của nhà nước. Hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay của Quỹ được xem như là xương sống trong hoạt động của Quỹ. Mặt khác, hoạt động hỗ trợ tài chính của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam không chỉ là đòn bẩy quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư bảo vệ môi trường mà còn đóng vai trò quan trọng đối với việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công tác bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, việc đưa ra các biện pháp hoàn thiện cơ chế hoạt động hỗ trợ tài chính, đặc biệt là hoạt động cho vay của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng đối với sự phát triển của Quỹ trong giai đoạn tới, không những nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn góp phần tăng vị thế cho Quỹ. 2. Thực trạng hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam 2.1. Đối tượng và khung pháp lý cho hoạt động hỗ trợ tài chính của Quỹ Các dự án Quỹ cho vay đều mang tính cấp bách, tập trung vào một số dự án gây ảnh hưởng lớn đến môi trường và cần nguồn vốn để xử lý ô nhiễm theo mục tiêu hoạt động của Quỹ. Hàng năm, Quỹ ban hành quy định về tiêu chí lựa chọn dự án cho vay. Ngoài việc đáp ứng các điều kiện trên, dự án đầu tư bảo vệ môi trường được đánh giá một cách tổng thể về các phương diện như năng lực chủ đầu tư vay vốn, năng lực triển khai dự án, tính khả thi về mặt tài chính, môi trường, xã hội của dự án vay vốn, phương án trả nợ, phương án bảo đảm bảo tiền vay.... (Thông tư 03/2017/ TT-BTNMT ngày 21/3/2017). Theo Quyết định số 78/2014/ QĐ-TTg ngày 26/12/2014 về tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, nguồn vốn của Quỹ bao gồm vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp, ngân sách nhà nước cấp bù kinh phí tài trợ, các khoản bồi thường thiệt hại về môi trường, lệ phí bán, chuyển các chứng chỉ giảm phát thải khí nhà kính, các khoản tài trợ, đóng góp tự nguyện, ủy thác của tổ chức và cá nhân, và các nguồn vốn hợp pháp khác. Hiện nay, nguồn vốn hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam chủ yếu vẫn là vốn điều lệ do ngân sách nhà nước cấp. Lãi suất vay vốn được Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam ban hành hàng năm theo quy định tại Thông tư 03/2017/ TT-BTNMT ngày 21/3/2017. Theo đó, lãi suất cho vay Biểu đồ 1. Cơ cấu sử dụng vốn tính đến thời điểm 31/12/2018 Nguồn: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019 phải đảm bảo nhỏ hơn 50% lãi suất tín dụng đầu tư nhà nước. Hiện nay, theo Thông tư số 76/2015/TT-BTC ngày 19/5/2015, mức lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước bằng VNĐ là 8,55%/ năm. 2.2. Thực trạng hỗ trợ tài chính trong hoạt động cho vay tại Quỹ Tính đến 31/12/ 2018, hoạt động cho vay ưu đãi các dự án là hoạt động chính của Quỹ, chiếm trên 84% tổng vốn hoạt động. Trợ giá điện gió và các sản phẩm Cơ chế phát triển sạch (CDM) chiếm 11%. Hoạt động tài trợ (không hoàn lại) và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chỉ chiếm 4% tổng nguồn vốn sử dụng của Quỹ. Do phải bảo toàn nguồn vốn điều lệ nên nguồn vốn cho công tác hoạt động tài trợ không hoàn lại và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư rất hạn chế. Theo quy chế quản lý tài chính mới, nguồn vốn cho công tác tài trợ không hoàn lại và hỗ trợ lãi suất được trích 20% từ chênh lệch thu chi hàng năm vào nguồn vốn bổ sung của Quỹ để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ, tài trợ. Quỹ có trách nhiệm hạch toán, theo dõi riêng khoản vốn này. Lãi suất cho vay được Hội đồng Quản lý Quỹ phê duyệt hàng năm với điều kiện nhỏ hơn 50% lãi suất tín dụng đầu tư nhà nước. Lãi suất cho vay được áp dụng chung đối với tất cả loại hình dự án đề xuất vay vốn. Theo đó, mức lãi suất cao nhất được Quỹ phê duyệt là 5,4% giai đoạn 2004 đến 2013; từ 2013 đến 2018 mức lãi suất giảm dần từ 3,6% đến 2,6%. Thống kê lãi suất giai đoạn 2004- 2018 thể hiện tại Biểu đồ 2. Trong số các hoạt động hỗ trợ Biểu đồ 2. Lãi suất cho vay giai đoạn 2004- 2018 Nguồn: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam Biểu đồ 3. Tổng hợp số liệu ký kết hợp đồng, giải ngân và thu nợ từ 2004 - 2018 Nguồn: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 31Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019 tài chính thì hoạt động cho vay chiếm hơn 84% kết quả hoạt động của Quỹ. Hoạt động cho vay có xu hướng tăng trưởng mạnh qua các năm từ 2004 đến 2018. Tính từ thời điểm phê duyệt khoản vay đầu tiên vào năm 2004 thì đến cuối năm 2018 Quỹ đã cấp vốn cho 294 dự án với tổng số vốn tương ứng là 2.523 tỷ đồng. Trong đó, đã giải ngân số vốn tương ứng là 1.860 tỷ đồng (đạt 74% tổng số tiền cho vay), tổng thu nợ gốc 1.093 tỷ đồng và lãi vay là 180 tỷ đồng. Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam có trụ sở duy nhất tại thành phố Hà Nội. Trong khi đó, phạm vi và địa bàn hoạt động của Quỹ là toàn quốc. Số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2004 Quỹ chỉ hoạt động ở trên 2 tỉnh thành, năm 2008 đã hoạt động trên 19 tỉnh thành, đến cuối năm 2018 Quỹ đã hoạt động trên 53 tỉnh thành. Quỹ đã cho vay hơn 865 tỷ đồng tại miền Bắc, 689 tỷ đồng tại miền Trung và 968 tỷ đồng tại miền Nam. Kết quả cho vay tại Quỹ cũng cho thấy các lĩnh vực cho vay bao gồm xử lý nước thải tập trung tại các khu, cụm công nghiệp, xử lý chất thải công nghiệp và nguy hại, quản lý và xử lý chất thải rắn là các lĩnh vực chính, chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động cho vay của Quỹ. 2.3. Những hạn chế trong hoạt động cho vay tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và nguyên nhân Tính từ thời điểm thành lập đến nay, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã thực hiện được chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc bảo vệ môi trường, hỗ trợ được phần vốn đáng kể cho các chủ thể vay vốn đầu tư bảo vệ môi trường. Các hoạt động hỗ trợ tài chính của Quỹ bao gồm cho vay với lãi suất ưu đãi, tài trợ, hỗ trợ lãi suất, trợ giá điện gió và sản phẩm CDM (cơ chế phát triển sạch), trong đó hoạt động cho vay là chính và chủ yếu. Địa bàn hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam trải rộng khắp quốc gia. Tuy nhiên, để hướng tới một tổ chức tài chính chuyên nghiệp, mang tầm cỡ quốc gia và thực hiện được sứ mệnh và vai trò trong việc hỗ trợ tài chính bảo vệ môi trường quốc gia, Quỹ cần phải không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách, bộ máy tổ chức, đào tạo Bảng 1. Kết quả hoạt động cho vay theo vùng miền từ 2004 đến 2018 TT Vùng miền Số lượng tỉnh, thành phố Số lượng dự án Số tiền cho vay (triệu đồng) 1 Miền Bắc 21 144 865.235 2 Miền Trung và Tây Nguyên 19 68 689.660 3 Miền Nam 13 82 968.047 Tổng cộng 53 294 2.522.941 Nguồn: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam Bảng 2. Thống kê giá trị tài sản bảo đảm từ 2015 - 2018 TT Nội dung 2015 Tỷ lệ 2016 Tỷ lệ 2017 Tỷ lệ 2018 Tỷ lệ Giá trị TSBĐ 493.339 100% 541.375 100% 603.464 100% 641.043 100% 1 Bảo lãnh vay vốn 452.737 92% 502.982 93% 593.356 98% 632.563 99% 2 Tài sản thế chấp1 40.602 8% 38.393 7% 10.109 2% 8.480 1% 1 Tài sản thế chấp Quỹ đã và đang nhận của Chủ đầu tư vay vốn từ nguồn vốn từ nguồn ngân sách nhà nước cho đến thời điểm hiện tại bao gồm tài sản là bất động sản (nhà đất), tài sản hình thành từ vốn vay (xe chuyên chở rác, lò nung gốm) trên địa bàn TP. Hà Nội và các tỉnh lân cận. Nguồn: Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019 nguồn nhân lực. Để làm được điều đó, cần phải tìm ra hạn chế, nguyên nhân của hạn chế và đưa ra các giải pháp phù hợp. Theo đánh giá của tác giả, một số hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế như sau: - Hoạt động hỗ trợ cho vay ưu đãi của Quỹ chủ yếu hiện nay là các hoạt động xử lý chất thải (xử lý nước thải, chất thải rắn, xử lý khí) mang tính “cuối đường ống”, các lĩnh vực mang tính “đầu đường ống” (xử lý đầu nguồn) như sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, nguồn năng lượng tái tạo còn chiếm tỷ trọng thấp trong hoạt động cho vay của Quỹ. Nguyên nhân là do các hoạt động xử lý chất thải hiện nay mang tính cấp thiết và trực tiếp gây ô nhiễm tới môi trường. Hơn nữa, thông thường các dự án đầu tư như năng lượng tái tạo cần nguồn vốn lớn (điện mặt trời, điện gió, ) vượt quá khả năng đáp ứng của Quỹ. - Theo quy định, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam có thể sử dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật bao gồm thế chấp, cầm cố, bảo đảm của bên thứ 3. Tuy nhiên, thực tế biện pháp bảo đảm tiền vay hiện nay tại Quỹ áp dụng chỉ bao gồm 02 hình thức là bảo lãnh vay vốn và thế chấp tài sản (đất đai, nhà cửa, trang thiết bị). Trong đó, bảo lãnh vay vốn của các ngân hàng thương mại chiếm trên 90% giá trị của nghĩa vụ bảo đảm. Phương án bảo đảm tiền vay bằng tài sản thế chấp có xu hướng giảm đi, với tỷ lệ giá trị tài sản thế chấp trên tổng giá trị tài sản bảo đảm năm 2015 là 8%, đến năm 2018 tỷ lệ này chỉ còn 1%. Lý giải vấn đề này nằm ở 02 khía cạnh. Thứ nhất, theo quy định tại Điều lệ và tổ chức hoạt động Quỹ phải bảo toàn vốn điều lệ. Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh ngân hàng là biện pháp bảo đảm an toàn cao đối với Quỹ, ngân hàng bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay nếu chủ đầu tư mất khả năng chi trả. Trong khi đó, đối với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác như cầm cố và thế chấp, khi khách hàng mất khả năng chi trả, Quỹ có thể thực hiện xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn cho Quỹ. Tuy nhiên, thực tế các ngân hàng thương mại cho thấy việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là vấn đề nan giải hiện nay. Thứ hai, giả định rằng Quỹ có thể sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay khác như thế chấp tài sản là bất động sản nhưng do không có các mạng lưới hoạt động chi nhánh dày đặc khắp các tỉnh thành trải dài khắp cả nước như các ngân hàng thương mại nên Quỹ không thể kiểm soát được các loại tài sản này. - Chính sách lãi suất của Quỹ hiện nay mang tính ưu đãi đối với các dự án đầu tư bảo vệ môi trường, là nguồn vốn giá rẻ các doanh nghiệp có thể tranh thủ. Tuy nhiên, Quỹ áp dụng mức lãi suất duy nhất cho tất cả các loại hình dự án, trong khi đối với dự án đầu tư bảo vệ môi trường có tính đặc thù riêng. Có dự án có thể mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư (mặc dù ít hơn so với các dự án thương mại khác), có dự án không mang lại lợi nhuận hoặc thậm chí có dự án đầu tư bảo vệ môi trường mang tính xã hội và cộng đồng. Do vậy, nhà đầu tư không thể lúc nào cũng có thể dùng nguồn tiền sinh lời từ hoạt động của chính dự án để trả nợ vay vốn. - Kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp vay vốn sau đầu tư tương đối khó khăn đối với Quỹ. Do khoảng cách về mặt địa lý, Quỹ không đáp ứng đủ nguồn lực để kiểm tra cũng như giám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn một cách thường xuyên và liên tục. Trong khi đó, việc kiểm tra giám sát sau giải ngân vốn vay là rất quan trọng, giúp đánh giá tình hình của doanh nghiệp và có phương án phòng ngừa rủi ro thích hợp. - Mặc dù có nguồn vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng được cấp từ ngân sách nhà nước, nhưng nguồn vốn này hiện nay không đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Việc tăng vốn của Quỹ phụ thuộc vào kế hoạch của Chính phủ, được quy định tại các Quyết định quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam do Chính phủ ban hành. 3. Khuyến nghị Thông qua việc tìm hiểu nghiên cứu chung về tín dụng nhà nước, hoạt động cho vay ưu đãi tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, tác giả đề CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019 xuất các khuyến nghị như sau: Thứ nhất, cần có sự liên kết hoạt động giữa Quỹ Bảo vệ môi trường quốc gia và các Quỹ môi trường địa phương. Theo thống kê của tác giả, hiện nay có 41 tổ chức Quỹ Bảo vệ môi trường, trong đó, có 1 Quỹ Bảo vệ môi trường Trung ương (Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam), 39 Quỹ Bảo vệ môi trường địa phương (trực thuộc Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành địa phương) và 01 Quỹ bảo vệ môi trường ngành than (trực thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam). Hệ thống các Quỹ Bảo vệ môi trường hiện nay hoạt động hoàn toàn độc lập với nhau. Để các Quỹ Bảo vệ môi trường hoạt động tập trung, thống nhất và đạt hiệu quả cao, cần hình thành hệ thống kết nối giữa các Quỹ Bảo vệ môi trường. Trong đó, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đóng vai trò là đầu mối quốc gia, phát huy được năng lực tài chính của chính mình cũng như huy động năng lực tài chính của toàn mạng lưới cho các mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là đơn vị có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ tài chính đầu tư bảo vệ môi trường, hỗ trợ cho các Quỹ môi trường địa phương trong công tác đào tạo, nâng cao năng lực, hỗ trợ công tác quản lý tài chính. Quỹ Bảo vệ môi trường địa phương sẽ đóng vai trò trong việc cung cấp thông tin khách hàng tại địa bàn địa phương. Đồng thời, có thể phối hợp đồng cho vay trong các dự án ngoài khả năng cho vay của các quỹ địa phương (đồng tài trợ). Ngoài ra, việc thống nhất trong hình thái và tổ chức hoạt động sẽ giúp cho việc thực thi chính sách nhà nước về bảo vệ môi trường triệt để và hiệu quả hơn. Hơn nữa, cần xem xét, xây dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp lý nhằm thống nhất chính sách và lĩnh vực cho vay ưu đãi của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam và các Quỹ Bảo vệ môi trường địa phương để nguồn vốn ưu đãi được tập trung, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Để hiện thực hóa kiến nghị này, cần có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Tài nguyên và Môi trường (là cơ quan chủ quản của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam) và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh (là cơ quan chủ quản của Quỹ Bảo vệ môi trường địa phương). Thứ hai, sớm mở rộng và đi vào vận hành ổn định hoạt động của chi nhánh Quỹ tại các vùng miền, trước hết cho khu vực miền Nam và tiến tới là khu vực miền Trung. Theo quy định tại Điều lệ hoạt động và tổ chức của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ có thể mở trung tâm, chi nhánh để phục vụ cho hoạt động của Quỹ. Mặt khác, xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay về phục vụ khách hàng, miền Nam là vùng ở khoảng cách xa Quỹ nhất nhưng lại cho vay nhiều nhất tại đây. Miền Nam cũng là khu vực phát triển kinh tế với nhiều ngành nghề, lĩnh vực, do đó cần tăng đầu tư bảo vệ môi trường. Để có thể mở rộng hoạt động của Quỹ, tăng trưởng hoạt động cho vay, thu hút khách hàng vay vốn thì việc mở rộng bộ máy tổ chức của Quỹ là điều thiết yếu. Theo đó, để có thể nâng cao vị thế của Quỹ cũng như đáp ứng tình hình thực tế triển khai trong các hoạt động hỗ trợ tài chính của Quỹ, tác giả đề xuất mở chi nhánh tại miền Nam trong giai đoạn 2019 đến 2020, khu vực miền Trung giai đoạn 2020 đến 2022. Khu vực các tỉnh phía Nam có số dự án chiếm đa số tại Quỹ cũng như là điểm nóng về công tác bảo vệ môi trường. Thứ ba, Hội đồng Quản lý Quỹ cần ban hành chính sách tín dụng linh hoạt hơn đối với lãi suất cho vay và bảo đảm tiền vay. Không áp dụng một mức lãi suất cố định đối với tất cả các loại hình dự án vay vốn. Lãi suất cho vay đối với các dự án khác nhau theo quan điểm của ngân hàng sẽ khác nhau. Lãi suất của ngân hàng được cấu thành bởi lãi suất huy động, phần bù rủi ro, lợi nhuận kỳ vọng và các loại chi phí. Tuy nhiên, cách tính lãi suất này không phù hợp trong việc áp dụng đối với Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam. Học tập kinh nghiệm từ các Quỹ môi trường trên thế giới, các Quỹ quay vòng vốn hoạt động hiệu quả, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam nên thực hiện phân loại dự án theo tính CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 34 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 202- Tháng 3. 2019 chất khác nhau để các dự án được hỗ trợ một cách hiệu quả hơn, chính sách tín dụng được đa dạng hơn. Hiện nay, lãi suất hàng năm của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam (R) được tính toán dựa trên cơ sở tình hình phát triển kinh tế và phải thỏa mãn nhỏ hơn 50% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển. Lãi suất này áp dụng chung cho tất cả các đối tượng vay vốn, lĩnh vực đầu tư. Điều này chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế khi mà các dự án vay vốn và chủ thể vay vốn có những điều kiện sinh lợi, hoàn vốn và chi phí đầu tư khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, tác giả đề xuất chính sách lãi suất phù hợp hơn (Bảng 3). - Đối với lãi suất cho vay đầu tư thì các dự án đầu tư bảo vệ môi trường thuộc các lĩnh vực có mang lại nguồn lợi nhuận (dự án mang tính thương mại) sẽ được cho vay với lãi suất cao hơn. Trong khi đó, đối với các dự án đầu tư bảo vệ môi trường để đảm bảo tuân thủ chính sách pháp luật của nhà nước (dự án phi thương mại) thường không sinh ra nguồn lợi nhuận đáng kể thì cần có chính sách ưu tiên về lãi suất hơn. - Đối với lãi suất cho vay theo phương án bảo đảm tiền vay cũng cần có chính sách khuyến khích đối với 2 đối tượng khác nhau là bảo lãnh vay vốn và thế chấp bằng tài sản. Đối với các đối tượng bảo lãnh vay vốn, mức phí bảo lãnh vay vốn trên thị trường hiện nay dao động từ 1%- 2% tùy thuộc vào ngân hàng. Do vậy, cần có chính sách hỗ trợ lãi suất khi chủ đầu tư sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay là bảo lãnh ngân hàng. - Đối với bảo đảm tiền vay, cần tăng cường và mở rộng với các phương án bảo đảm tiền vay. Không chỉ áp dụng chủ yếu cho bảo lãnh ngân hàng mà Quỹ cần phải mở rộng thêm các biện pháp về cầm cố và thế chấp. Quỹ cần tìm ra được những khách hàng tốt, có năng lực tài chính tốt, có phương án kinh doanh khả dĩ thì hoàn toàn có thể sử dụng phương án bảo đảm tiền vay bằng thế chấp. Thứ tư, tăng cường nguồn vốn hoạt động từ ngân sách nhà nước cũng như tìm kiếm các nguồn tài trợ từ nước ngoài Bảng 3. Đề xuất chính sách lãi suất đối với Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam TT Nội dung Lĩnh vực Lãi suất (%) 1 Lãi suất cho vay theo lĩnh vực cho vay (lĩnh vực ưu tiên) - Lĩnh vực đầu tư có mang lại nguồn lợi nhuận như xử lý, tái chế chất thải nguy hại, chất thải sinh hoạt, các sản phẩm sạch, thân thiện môi trường R - Lĩnh vực đầu tư không mang lại nguồn lợi nhuận (hoặc rất nhỏ) như đầu tư xử lý nước thải, khí thải nhà máy, khu công nghiệp và làng nghề R - 2% 2 Lãi suất cho vay theo phương án bảo đảm tiền vay - Bảo lãnh vay vốn của Ngân hàng thương mại R - 1,5% - Thế chấp bằng tài sản R và các nguồn khác. Hiện nay, vốn điều lệ được nhà nước cấp cho Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam theo quy định là 1.000 tỷ đồng. Nếu thời gian tới không có nguồn vốn cấp thêm, Quỹ có khả năng “cạn” nguồn vốn do hoạt động tín dụng luôn tăng trưởng qua các năm, dẫn tới dư nợ tăng lên. Trong khi đó, nguồn vốn quay vòng (thu hồi gốc vay) không đủ để tái cấp cho dự án mới do thời gian cho vay của Quỹ dài, thông thường 7 (bảy) năm. Trong khi đó, nguồn vốn cần thiết cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường là rất lớn. Mặc dù hoạt động của Quỹ mang tính kích thích và góp phần đẩy mạnh hoạt động đầu tư bảo vệ môi trường nhưng với nguồn vốn quá ít thì cũng không thể thực hiện được đầy đủ chính sách và nhiệm vụ của nhà nước giao cho. Ngoài ra, việc thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài cũng như các nguồn khác có thể giúp Quỹ đẩy mạnh thêm hoạt động tài trợ và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư do nguồn vốn sử dụng cho hoạt động này của Quỹ là hạn chế (Quỹ phải bảo toàn vốn điều lệ). CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 35Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 202- Tháng 3. 2019 Thứ năm, cần tập trung hơn và tiến tới đầu tư vào hoạt động cho vay mảng xanh “đầu đường ống” hơn là tập trung vào mảng nâu “cuối đường ống” như hiện nay. Quỹ Bảo vệ môi trường tại các nước Trung Âu trước đây cũng tập trung vào mảng nâu cuối đường ống khi nền kinh tế bước đầu trên đà phát triển. Tuy nhiên, đến nay hầu hết các nước này và các nước phát triển chỉ tập trung vào hỗ trợ các hoạt động trong mảng xanh như sản xuất sạch hơn, các hoạt động nghiên cứu vào môi trường, các hoạt động hỗ trợ vào phát triển công nghệ sạch, công nghệ mới thân thiện với môi trường, các hoạt động tập trung vào năng lượng tái tạo, năng lượng xanh, sạch. Thứ sáu, tăng cường hoạt động cho vay thông qua việc mở rộng và hướng tới sử dụng nhiều hơn biện pháp bảo đảm tiền vay là thế chấp tài sản. Phương án bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh ngân hàng là phương án an toàn đối với Quỹ, tuy nhiên đây lại là rào cản khá lớn với một số doanh nghiệp, chưa kể đến việc doanh nghiệp phải gánh chịu một khoản phí bảo lãnh Tài liệu tham khảo 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư 03/2017/TT-BTNMT ngày 21/3/2017, Hướng dẫn việc cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư từ Quỹ Bảo vệ môi trường. 2. Chính phủ, Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. 3. Chính phủ, Quyết định số 78/2014/QĐ-TTg ngày 26/12/2014 về tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam. 4. Dương Thị Bình Minh (2008), Cơ chế hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đến năm 2010 trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Công trình NCKH cấp bộ, TP. Hồ Chí Minh. 5. OECD (2007), Handbook for appraisal of environmental projects financed from public funds, Paris. 6. Patrick Francis, Jürg Klarer and Nelly Petkova (1999), Sourcebook on environmental funds in economies in transition, OECD. 7. Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết hoạt động Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam năm 2018, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình tín dụng ngân hàng, NXB Thống kê, Hà Nội 2013. Thông tin tác giả Lê Hải Lâm, Thạc sĩ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam Email: lehailam.vn@gmail.com Summary Financial support in lending activitiy at the Vietnam Environment Protection Fund Economic development along with environmental protection is one of the orientations of the Government of Vietnam recently. The state has been applying policy tools, legal instruments and financial instruments to protect the environment. Accordingly, Vietnam Environment Protection Fund is a state-owned financial institution, established and operating as a state financial instrument for implementation and financial support for businesses and individuals in the operation environmental protection activities, in parallel with other environmental protection policies and laws. After a long time of formation and development, Vietnam Environment Protection Fund has achieved certain results but there are still some shortcomings that need to be improved. The article uses case studies at the Vietnam Environment Protection Fund and through which provides recommendations for activities for the Fund’s financial support. Key words: Preferential Loan, Environmental Protection; Environment Funds; State Finance.. Lam Hai Le, MEc. Vietnam Environment Protection Fund đối với ngân hàng bảo lãnh. Điều này dẫn tới Quỹ có thể mất một lượng khách hàng lớn. Tuy nhiên, để mở rộng hoạt động cho vay trong đó sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay là tài sản thế chấp, Quỹ cần phải kiện toàn bộ máy tổ chức, quy trình hoạt động và đào tạo tốt nguồn nhân lực để Quỹ có thể lựa chọn được những khách hàng và dự án tốt, đảm bảo cho việc thu hồi nợ của Quỹ. ■
File đính kèm:
- phat_trien_kinh_te_di_doi_voi_bao_ve_moi_truong_la_mot_trong.pdf