Kiến thức thái độ hành vi về việc hiến thận chết não tại một số cộng đồng tại thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT Mục tiêu: phân tích kiến thức, thái độ, về việc hiến thận và các yếu tố có liên quan với hành vi hiến thận khi chết ở người trên 18 tuổi ở một số cộng đồng tại TP Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phỏng vấn 1063 người trên 18 tuổi dựa vào bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: 77% đồng ý hiến thận bản thân khi chết, và 63,8% đồng ý hiến thận người thân khi chết. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận bản thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, kiến thức đúng về nhu cầu hiến ghép thận, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận người thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, Thiên Chúa giáo, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo, thái độ đúng về quan điểm chia sẻ. Lí do chính của việc từ chối hiến là sợ người nhà không đồng ý và sợ “chết không toàn thây”. Yêu cầu chính sau khi hiến là sự công bằng. Kết luận: kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân ủng hộ hiến thận, các chiến lược tuyên truyền để nâng cao kiến thức và quan niệm của người dân là rất cần thiết, và là nền tảng cho khoa học ghép tạng ở nước ta phát triển bền vững
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức thái độ hành vi về việc hiến thận chết não tại một số cộng đồng tại thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 80 KIẾN THỨC THÁI ĐỘ HÀNH VI VỀ VIỆC HIẾN THẬN CHẾT NÃO TẠI MỘT SỐ CỘNG ĐỒNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Trần Ngọc Sinh* Lê Hoàng Ninh**, Hoàng Thị Diễm Thúy*** TÓM TẮT Mục tiêu: phân tích kiến thức, thái độ, về việc hiến thận và các yếu tố có liên quan với hành vi hiến thận khi chết ở người trên 18 tuổi ở một số cộng đồng tại TP Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phỏng vấn 1063 người trên 18 tuổi dựa vào bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: 77% đồng ý hiến thận bản thân khi chết, và 63,8% đồng ý hiến thận người thân khi chết. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận bản thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, kiến thức đúng về nhu cầu hiến ghép thận, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận người thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, Thiên Chúa giáo, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo, thái độ đúng về quan điểm chia sẻ. Lí do chính của việc từ chối hiến là sợ người nhà không đồng ý và sợ “chết không toàn thây”. Yêu cầu chính sau khi hiến là sự công bằng. Kết luận: kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân ủng hộ hiến thận, các chiến lược tuyên truyền để nâng cao kiến thức và quan niệm của người dân là rất cần thiết, và là nền tảng cho khoa học ghép tạng ở nước ta phát triển bền vững. Từ khoá: kiến thức, thái độ, hiến thận, chết não ABSTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDE AND BEHAVIOR ABOUT BRAIN-DEATH KIDNEY DONATION OF COMMUNITIES IN HO CHI MINH CITY Tran Ngoc Sinh, Le Hoang Ninh, Hoang Thi Diem Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - No 4 - 2016: 80 - 85 Objectives: to explore the knowledges, attitudes about deceased kidney Donation after death and the factors associated with the decision to donate among the selective populations in HoChiMinh city. Subjects and method: interviewing of 1063 people from 18 years old by questionnaire, the interviewees filled in themselves. Main results: 77% and 63.8% agreed to donate their own kidney and the kidney of their relatives respectively after death. The factors associated with Donation of their own kidney comprised of: the population Kinh, the good knowledge on the need of transplantion and Donation, the good attitude of altruism. The factors associated with Donation of the kidney of their relatives comprised of: the population Kinh, Catholism, the good attitude of altruism, the good attitude of sharing. The main reasons of refusal were the family constraint and the concept of “the whole body at death”. The main requirement when a person donates was the egality of organ using. Conclusion: most people agreed with donation at HoChiMinh city. We need education campaign to ameliorate the public point of view. The education must be the background for the development of transplantation in our country. Key words: knowledge, attitude, kidney donation, brain death * Trường ĐHYD TP Hồ Chí Minh, ** Viện vệ sinh Y tế công cộng, *** Trường ĐHYK Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: ThS. BS. Hoàng Thị Diễm Thúy, ĐT: 0908235287, Email: thuydiemhoang@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học 81 ĐẶT VẤN ĐỀ Từ cuối thế kỷ XX, sự bùng nổ của suy thận mạn trên toàn cầu đã làm cho ngành y học phải đối đầu với một tình trạng mất cân bằng cung - cầu trầm trọng của thận ghép- một hiện trạng đang đồng hành với các tiến bộ không ngừng của khoa học ghép thận. Vấn đề này đã, đang và sẽ trở nên một thách thức đối với sức khoẻ cộng đồng trên toàn thế giới. Vì thế, cùng với việc phát triển kĩ thuật ghép, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến khía cạnh xã hội và pháp lí của vấn đề này để đi tìm giải pháp cho nguồn thận ghép, tạo cơ sở để thúc đẩy khoa học ghép thận phát triển bền vững. Một trong những rào cản quan trọng của công tác ghép thận là tình trạng thiếu hụt nguồn thận để ghép. Nguồn thận từ người cho sống rất giới hạn trong khi đó, nguồn thận từ người cho chết não chưa được huy động hết. Ngày 29.11.2006, tại Việt Nam Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người đã được Quốc hội thông qua... Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về hiến thận nói riêng và các bộ phận cơ thể nói chung còn rất hạn chế. Có rào cản nào khác về kinh tế, văn hóa, xã hội trong việc hiến thận ở người Việt Nam? Trên cơ sở này, chúng tôi thực hiện khảo sát Kiến thức –Thái độ về việc hiến thận của một số cộng đồng tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó, góp phần đề ra chiến lược cụ thể để vận động hiến thận trong dân chúng. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả và phân tích trên 3 nhóm đối tượng: sinh viên, Thiên Chúa giáo, Phật giáo. - Cỡ mẫu: 1063 người. - Thời gian: tháng 4 – 6 năm 2011 - Địa điểm nghiên cứu: + Thiên chúa giáo: tại nhà thờ Thủ đức: 250 + Phật giáo: tại chùa Thiền Lâm - Quận 8: 250 + Sinh viên: trường ĐH Luật t/p Hồ Chí Minh, ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch: 568 - Phương pháp: phát phiếu câu hỏi tự điền - Phương pháp thống kê: tần số và tỉ lệ được sử dụng cho biến số định tính; biến sô tuổi có phân phối không bình thường nên trung vị và khoảng tứ phân vị được sử dụng. Chi bình phương được sử dụng để xét mối liên quan giữa đặc tính mẫu nghiên cứu, kiến thức, thái độ với việc hiến thận. Số đo kết hợp PR được sử dụng để đo lường độ lớn mối liên quan giữa biến số hiến thận và đặc tính mẫu nghiên cứu, kiến thức, thái độ. Hồi quy Poisson và tùy chọn robust được sử dụng để kiểm soát biến số gây nhiễu như đặc tính mẫu nghiên cứu. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu - Tuổi trung vị: 22 (25p =20, 75p= 32) - Giới: nam 413 (39 %); nữ: 645 (61%) - Học vấn: phổ thông 260 (24,62 %); đại học 782 (74,05 %); sau đại học 14 (1,33 %) - Dân tộc: Kinh 986 (93,82% ); Hoa 37 (3,52 %) Khmer 16 (1,52%), Khác: Chăm: 12 (1,14%) - Tôn giáo: Phật 292 (25,6 %); Thiên Chúa 281 (24,6%);Thờ ông bà 330 (28,9 %); không theo một tôn giáo nào 227 (19,9 %); khác 10 (0,8 %) - Tình trạng hôn nhân: có gia đình 231 (21,73 %), độc thân 832 (78,27 %) - Kinh tế: giàu 37 (3,51 %); khá 225 (21,37 %); trung bình 681 (64,67); nghèo 110 (10,45 %). - Nghề nghiệp: Bảng 1: Phân bố nghề nghiệp Nghề nghiệp Số lượng % HSSV 707 67,14 CNV 135 12,82 Nội trợ 59 5,6 Buôn bán nhỏ 52 4,94 Lao động phổ thông 39 3,7 Chủ doanh nghiệp 29 2,75 Khác 29 2,75 Nông dân 3 0,28 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 82 Phương tiện tiếp cận thông tin về hiến thận Bảng 2: phương tiện tiếp cận thông tin PHƯƠNG TIỆN Số lượng % Truyền hình 649 61 Sách 544 51 Báo 539 50,5 Người khác 338 31,6 Người thân bị bệnh 158 14,8 Radio 105 9,8 Chưa bao giờ nghe 38 3,6 Kết quả về kiến thức Kiến thức về nhu cầu hiến – ghép thận của xã hội Câu 14. Suy thận nặng sẽ chết nếu không được lọc máu hay ghép thận Câu 15. Những người bị suy thận hiện nay đang rất cần có những người cho thận để được cứu sống. Anh/chị ông / bà có biết về thông tin này. Bảng 3: kết quả kiến thức về nhu cầu ghép thận Câu Số trả lời (%) Đúng: Số lượng (%) Sai: số lượng (%) Câu 14 1049 (98,2%) 988 (94,2%) 61 (5,8%) Câu 15 1051 (98,4%) (86,1%) 146 (13,9%) Nhận xét: đa số người được khảo sát nhận thức được suy thận là bệnh nặng và cần được thay thế thận. Kiến thức chết não Câu 16. Chết não là tình trạng tim còn đập nhưng não hoàn toàn hư hại, không còn khả năng phục hồi Câu 17.Chết não thường xảy ra trong những cái chết “bất đắc kỳ tử” như: tại nạn, tai biến mạch máu não, Anh/chị có biết điều này không? Bảng 4: Kết quả kiến thức về chết não Câu Số trả lời (%) Đúng: Số lượng (%) Sai: số lượng (%) Câu 16 1046 (97,9%) 880 (84,1%) 166 (15,9%) Câu 17 1052 (98,5%) 856 (81,4%) 196 (18,6%) Nhận xét: đa số người được khảo sát đồng ý với quan niệm chết não là bất hồi phục và tình huống xảy ra là đột ngột. Kiến thức đúng về nhu cầu hiến ghép thận: khi trả lời “đúng” câu 14 và “có” câu 15 Kiến thức đúng về chết não: khi trả lời “đúng “câu 16 và “ có” câu 17 Bảng 5: Kết quả kiến thức đúng về nhu cầu ghép thận và chết não NỘI DUNG Số trả lời (%) Số đúng (%) Số sai (%) Nhu cầu 1045 (98%) 866 (82,8%) 179 (17,2%) Chết não 1052 (98,5%) 877 (83,4%) 175 (16,6%) Nhận xét: hơn 80% người được khảo sát có kiến thức đúng về nhu cầu hiến –ghép thận và về chết não Kết quả về thái độ Quan điểm nhân đạo. Câu 19. Việc cho thận cho người bị bệnh là một nghĩa cử nhân đạo? Câu 20. “Khi người ta chết đi nhưng còn một bộ phận trên cơ thể đem cho lại cho một người khác thì giống như thân xác vẫn còn trên cõi đời này.Ông bà anh chị nghĩ sao về quan điểm này? Bảng 6: Kết quả thái độ về quan điểm nhân đạo Câu Số trả lời Rất đồng ý Đồng ý Không đồng ý Rất không đồng ý 19 1062 (99,9%) 364 (34,3%) 654 (61,6%) 38 (3,6%) 6 (0,5%) 20 1054 (99,1%) 231 (21,9%) 573 (54,4%) 230 (21,8%) 20 (5,1%) Nhận xét: tỉ lệ người đồng ý hiến thận là nghĩa cử nhân đạo rât cao (95,9%). Tỉ lệ cho rằng hiến cơ quan khi chết giống như thân xác còn trên cõi đời thấp hơn (76,3%). Quan điểm chia sẻ Câu 21.Việc tuyên truyền giáo dục hiến thận trên các phương tiện thông tin đại chúng có cần không? Câu 22. Việc hiến thận sẽ dễ dàng hơn nếu được bàn bạc trước với người thân, Ông bà anh chị có nghĩ rằng mình sẽ bàn bạc với người thân khi quyết định không ? Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học 83 Câu 23. Ông bà anh chị có nghĩ rằng mình cũng có thể có lúc cần được người khác cho thận không ? Bảng 7: Kết quả thái độ về quan điểm chia sẻ Câu Số trả lời (%) Có: Số lượng (%) Không*: số lượng (%) Câu 21 1056 (98,9%) 957 (90,6 %) 99 (9,4%) Câu 22 1057 (99 %) 971 (91,9%) 86 (8,1%) Câu 23 1044 (97,7%) 893 (85,4%) 151 (14,6%) *trả lời không biết = không Nhận xét: tỉ lệ người đồng ý với việc thực hiện tuyên truyền hiến thận trên phương tiện thông tin đại chúng là 90,6%. Tỉ lệ người quyết định bàn bạc với người thân là 91,9%. Tỉ lệ người nghĩ rằng bản thân mình có lúc cũng có thể bị suy thận là 85,4%. Thái độ đúng về quan điểm nhân đạo: khi trả lời “đồng ý” hoặc “rất đồng ý “2 câu 19,20 Thái độ đúng về quan điểm chia sẻ: khi trả lời “có” 3 câu 21,22,23 Bảng 8: Kết quả thái độ đúng NỘI DUNG Số trả lời (%) Số đúng (%) Số sai (%) Nhân đạo 1053 (99%) 784 (74,4%) 269 (25,6%) Chia sẻ 1035 (97,4%) 782 (75,5%) 253 (24,5%) Nhận xét: tỉ lệ người có thái độ đúng về quan điểm nhân đạo; tỉ lệ người có thái độ đúng về quan điểm chia sẻ là 75,5%. Thái độ đồng ý hiến thận khi chết và các yếu tố tương quan Thái độ đồng ý hiến thận Bảng 9: Kết quả về thái độ hiến thận khi chết Nội dung Số trả lời Đồng ý Không đồng ý* Hiến thận của bản thân 1020 (95,5%) 785 (77%); 235 (23%) Hiến thận của người thân 1005 (94,1%) 641 (63,8%); 364 (36,2 %) *trả lời không biết = không Nhận xét: tỉ lệ người đồng ý hiến thận bản thân khi chết là 77% Tỉ lệ người đồng ý hiến thận người thân khi chết là 63,8%. Các yếu tố tương quan đến việc hiến thận khi chết Bảng 10: Mô hình hồi qui đa biến giữa các biến số kiến thức, thái độ, đặc tính mẫu và thái độ hiến thận bản thân khi chết Hiến thận bản thân PR điều chỉnh (KTC 95%) p Có kiến thức đúng về nhu cầu 1,15 1,03-1,27 0,01 Có thái độ đúng về quan điểm nhân đạo 1,30 1,17-1,43 <0,001 Dân tộc kinh so với dân tộc khác 1,38 1,11-1,72 0,003 Nhận xét: khi phân tích đa biến, dân tộc Kinh, những người có kiến thức đúng về nhu cầu hiến-ghép thận và thái độ đúng về quan điểm nhân đạo có tỉ lệ đồng ý hiến cao hơn có ý nghĩa thống kê. Bảng 11: Mô hình hồi qui đa biến giữa các biến số kiến thức, thái độ, đặc tính mẫu và thái độ hiến thận người thân khi chết Hiến thận người thân PR điều chỉnh (KTC 95%) p Có thái độ đúng về quan điểm nhân đạo 1,44 1,24-1,66 <0,001 Có thái độ đúng về quan điểm chia sẻ 1,26 1,09-1,45 0,001 Tôn giáo (so với không tôn giáo) - Phật 1,07 0,93-1,24 0,34 - Thiên Chúa 1,15 1-1,3 0,04 - Thờ ông bà-khác 1,02 0,9-1,2 0,73 Dân tộc kinh so với dân tộc khác 1,41 1,06-1,87 0,016 Nhận xét: khi phân tích đa biến, dân tộc Kinh, những người theo đạo Thiên Chúa, những người có thái độ đúng về quan điểm nhân đạo và quan điểm chia sẻ có tỉ lệ đồng ý hiến cao hơn có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 84 Lí do không đồng ý hiến thận Bảng 13: Lí do không đồng ý hién thận Lí do không hiến thận Số lượng % Gia đình không đồng ý 185 44,8 Sợ 115 27,8 Khác * 70 19,6 Tôn giáo 20 4,8 *Lí do khác: muốn giữ nguyên vẹn cơ thể (45), sợ mai táng chậm trễ (7), sợ sử dụng không đúng mục đích (13), thủ tục khó khăn (4), không tin tưởng (1). Nhận xét: lí do chính không đồng ý hiến thận là sợ gia đình không đồng ý (44,8%). Các yêu cầu khi hiến thận (N= 155) - Công bằng: 109 (70,3 %) - Tài chính: 30 (19,4%) - Khác: 16 (10,3 %) + Có chính sách ưu tiên cho người hiến: 08 + Ưu tiên người trẻ và trẻ em: 04 + Được biết người nhận: 02 + Hội ý gia đình: 02 BÀN LUẬN Ở nước ta, trung bình mỗi ngày có 30 người tử vong vì tai nạn giao thông. Những người này tử vong trong tình trạng chết não, nghĩa là hoàn toàn không có khả năng phục hồi dù tim vẫn còn đập và tuổi đời còn rất trẻ. Nếu nạn nhân và gia đình đồng ý hiến tặng, đây sẽ là nguồn tạng quí giá để cứu sống những người suy thận giai đoạn cuối nói riêng, và suy tạng mạn nói chung. Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về hiến thận nói riêng và các bộ phận cơ thể nói chung còn rất hạn chế. Vì chưa có nhiều thông tin về hiến tạng tại Việt Nam, chúng tôi chọn 3 đối tượng trên để khảo sát vì mục đích thuận tiện, với giả thuyết rằng đây là 3 đối tượng dế tiếp cận nhất để có chương trình can thiệp sau này. Dân số nghiên cứu của chúng tôi chưa có tính đại diện cho dân số Việt Nam, đây là khảo sát bước đầu để tạo tiền đề cho các nghiên cứu khác quy mô hơn. Nhiều tác giả trên thế giới(1,2,3) cũng chọn sinh viên và đối tượng tôn giáo để can thiệp, đặc biệt, sinh viên là nhóm đối tượng trẻ, có tư tưởng thoáng và dễ tạo hiệu ứng thứ phát do có mức độ trao đổi cao. Kiến thức đúng về bệnh thận và chết não không thấp hơn đáng kể so với kết quả nghiên cứu ở các nước phát triển. Theo khảo sát đa quốc gia của Manninen(1), có 92,7% người có kiến thức về sự thiếu hụt mô tạng để ghép; 66,5% đồng ý rằng bản thân họ có thể là người phải nhận thận; 64% có kiến thức đúng về chết não. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ người đồng ý hiến thận bản thân khá cao. Tỉ lệ đồng ý hiến thận của người thân thấp hơn, phù hợp với các nghiên cứu khác. Kết quả của chúng tôi không phù hợp với nhiều tác giả nhận thấy hành vi hiến thận có tương quan với nghề nghiệp, mức độ kinh tế, kiến thức đúng về chết não và sự bàn bạc với người thân(4). Trong số những người đã từng bàn bạc về hiến thận trong gia đình có 77% người hiến, trong khi đó chỉ có 42% đồng ý hiến ở nhóm chưa từng thảo luận(4). Hành vi hiến thận trong nghiên cứu này thực chất chỉ là hành vi “ảo”. Theo các tác giả, con số thật của hiến tạng chỉ còn 1/3-1/4 con số kháo sát được do sự tác động chủ yếu từ người nhà(4). Tuy nhiên, kết quả trên cũng đã cho thấy sự đón nhận của người Việt Nam về hiến tạng khá tốt, là động lực thúc đẩy các chương trình vận động hiến tạng hoạt động. Ngoài ra, đòi hỏi chính của những người đồng ý hiến tạng là “công bằng ”, trong khi đòi hỏi về tài chính chỉ chiếm 19,8%, thấp hơn các tác giả trên thế giới(3). Về đối tượng cần được tuyên truyền hiến thận, đa số đồng ý đưa vào giáo dục từ cấp 3, tuy nhiên số người không đồng ý tuyên truyền còn cao (14,6%). Đây cũng là nhóm cần được quan tâm khảo sát sâu, tuy không phải là đa số, nhưng họ có thể tạo ảnh hưởng không tốt cho cộng đồng. KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi tại thành phố Hồ Chí Minh về kiến thức, thái độ và hành vi về hiến thận cho thấy các kết quả khả quan với 77% Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Số 4 * 2016 Nghiên cứu Y học 85 đồng ý hiến thận bản thân khi chết, và 63,8% đồng ý hiến thận người thân khi chết. Có trên 80% người được khảo sát có kiến thức đúng về tình hình bệnh thận hiện nay trong dân số và nhu cấu ghép thận. Có hơn 80% người được khảo sát có kiến thức đúng về chết não. Có 75% người được khảo sát đồng ý với quan điểm nhân đạo và chia sẻ khi hiến thận. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận bản thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, kiến thức đúng về nhu cầu hiến ghép thận, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo. Các yếu tố có tương quan với thái độ đồng ý hiến thận người thân khi chết bao gồm: dân tộc Kinh, Thiên Chúa giáo, thái độ đúng về quan điểm nhân đạo, thái độ đúng về quan điểm chia sẻ. Lí do chính của việc từ chối hiến là sợ người nhà không đồng ý và sợ “chết không toàn thây”. Yêu cầu chính sau khi hiến là sự công bằng. Chúng ta cần có thêm nhiều nghiên cứu trên nhiều đối tượng khác trong dân chúng để có nghiên cứu có tính đại diện hơn cho người Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số người dân ủng hộ hiến thận, các chiến lược tuyên truyền, can thiệp là rất cần thiết, và là nền tảng cho khoa học ghép tạng ở nước ta phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Manninen DL, Evans RW (1985), Public attitudes and behavior regarding organ donation. JAMA.; 253(21): 3111-15. 2. Matas. AJ, Sutherland DER. (2005) The importance of innovative efforts to increase organ donation. JAMA.;294(13):1691-1693. 3. Price D. (1994) Living kidney Donation in Europe: Legal and ethical perspectives- the EUROTOLD Project. Transpl Int 7 (Suppl 1): S665- S667. 4. Siminoff L.A, N.Gordon, J. Hewlett (2001): Factors influencing families’s consent for donation of solid organ for transplantation. JAMA.;286(1):71-77. 5. Weaver M, Spigner C, Pinela M, Rabun KG, Allen MD (2001): Knowledge and opinions among urban high school students: pilot test of a health education. JAMA; 286:71-77. Ngày nhận bài báo: 10/11/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/11/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/12/2015
File đính kèm:
- kien_thuc_thai_do_hanh_vi_ve_viec_hien_than_chet_nao_tai_mot.pdf