Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2015) (Phần 2)

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà

đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn

toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đất nước ta bước vào kỷ nguyên

mới: độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đất nước

được hòa bình, độc lập, thống nhất sau 30 năm chiến tranh chia

cắt đã tạo ra niềm phấn khởi tự hào trong lòng mỗi người Việt Nam.

Một khí thế cách mạng dâng lên sôi nổi trong Đảng bộ, quân

và dân tỉnh Bến Tre. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể

hăng hái bắt tay vào ổn định tình hình, xây dựng chính quyền

cách mạng, lãnh đạo nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định đời

sống. Quần chúng phấn khởi với khí thế chiến thắng vĩ đại của

dân tộc, tin tưởng vào Đảng, tham gia sôi nổi các buổi học chính

trị và các công tác cách mạng. Đồng bào ở các vùng kìm kẹp,

khu gom dân ở thị xã, thị trấn nô nức trở về quê cũ khai hoang

phục hóa ruộng vườn, xây dựng lại cuộc sống.

Sau giải phóng, tỉnh đã tiếp quản hầu hết các cơ sở hành

chính, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học của chế độ cũ.

Bến Tre là một tỉnh có tiềm năng kinh tế đa dạng, phong phú

như lúa, dừa, mía, cây ăn trái, thủy hải sản. Đất đai màu mỡ,

khí hậu điều hòa, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện.

Lực lượng lao động dồi dào với hơn 900.000 dân (năm 1976).

Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, Đảng bộ và nhân dân Bến

Tre phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới.

Nền kinh tế của tỉnh chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất nhỏ

là chính, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề với gần 30.000ha

đất ruộng bị hoang hóa, hai phần ba diện tích vườn dừa bị tàn

phá bởi bom pháo, chất độc hóa học, rừng ven biển hầu như bị

hủy diệt. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp kém phát triển,

toàn tỉnh không có một cơ sở công nghiệp nào quan trọng1. Bến

Tre chỉ có một nhà máy điện, một nhà máy cấp nước, một vài

cơ sở ép dầu, làm xà bông, nhà máy xay lúa, lò gạch, trại cưa

Một số nghề truyền thống vốn có trong tỉnh như dệt tơ lụa, dệt

chiếu do không cạnh tranh nổi phải phá sản hoặc bị đình trệ

sản xuất. Kinh tế của tỉnh cũng như cả miền Nam trước giải

phóng phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Thị trường tư bản chủ

nghĩa thường xuyên biến động, tư thương đầu cơ tích trữ, lũng

đoạn thị trường. Khó khăn lớn nhất là tình trạng thiếu lương

thực, bị sâu rầy, mất mùa liên tiếp trong hai năm (1977-1978),

gây nên nạn thiếu đói.

pdf 286 trang yennguyen 6340
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2015) (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2015) (Phần 2)

Lịch sử báo Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1930-2015) (Phần 2)
Chương IV
ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN 
HAI NHIỆM VỤ: XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC 
(1975-1986)
I- ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH, KHÔI PHỤC SẢN XUẤT, 
HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, GÓP PHẦN 
CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG HAI CUỘC CHIẾN TRANH 
XÂM LƯỢC Ở BIÊN GIỚI PHÍA TÂY NAM VÀ PHÍA BẮC 
NƯỚC TA (1975-1979) 
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà 
đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn 
toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống 
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đất nước ta bước vào kỷ nguyên 
mới: độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. 
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, đất nước 
được hòa bình, độc lập, thống nhất sau 30 năm chiến tranh chia 
cắt đã tạo ra niềm phấn khởi tự hào trong lòng mỗi người Việt Nam. 
Một khí thế cách mạng dâng lên sôi nổi trong Đảng bộ, quân 
và dân tỉnh Bến Tre. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể 
hăng hái bắt tay vào ổn định tình hình, xây dựng chính quyền 
cách mạng, lãnh đạo nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định đời 
sống. Quần chúng phấn khởi với khí thế chiến thắng vĩ đại của 
dân tộc, tin tưởng vào Đảng, tham gia sôi nổi các buổi học chính 
trị và các công tác cách mạng. Đồng bào ở các vùng kìm kẹp, 
khu gom dân ở thị xã, thị trấn nô nức trở về quê cũ khai hoang 
phục hóa ruộng vườn, xây dựng lại cuộc sống. 
Sau giải phóng, tỉnh đã tiếp quản hầu hết các cơ sở hành 
chính, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học của chế độ cũ. 
Chương IV: ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ: ... 363
Bến Tre là một tỉnh có tiềm năng kinh tế đa dạng, phong phú 
như lúa, dừa, mía, cây ăn trái, thủy hải sản. Đất đai màu mỡ, 
khí hậu điều hòa, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện. 
Lực lượng lao động dồi dào với hơn 900.000 dân (năm 1976).
Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, Đảng bộ và nhân dân Bến 
Tre phải đương đầu với những khó khăn, thách thức mới.
Nền kinh tế của tỉnh chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất nhỏ 
là chính, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề với gần 30.000ha 
đất ruộng bị hoang hóa, hai phần ba diện tích vườn dừa bị tàn 
phá bởi bom pháo, chất độc hóa học, rừng ven biển hầu như bị 
hủy diệt. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp kém phát triển, 
toàn tỉnh không có một cơ sở công nghiệp nào quan trọng1. Bến 
Tre chỉ có một nhà máy điện, một nhà máy cấp nước, một vài 
cơ sở ép dầu, làm xà bông, nhà máy xay lúa, lò gạch, trại cưa 
Một số nghề truyền thống vốn có trong tỉnh như dệt tơ lụa, dệt 
chiếu do không cạnh tranh nổi phải phá sản hoặc bị đình trệ 
sản xuất. Kinh tế của tỉnh cũng như cả miền Nam trước giải 
phóng phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Thị trường tư bản chủ 
nghĩa thường xuyên biến động, tư thương đầu cơ tích trữ, lũng 
đoạn thị trường. Khó khăn lớn nhất là tình trạng thiếu lương 
thực, bị sâu rầy, mất mùa liên tiếp trong hai năm (1977-1978), 
gây nên nạn thiếu đói. 
Do chiến tranh diễn ra hết sức ác liệt trên chiến trường 
tỉnh nhà nên mức độ và diện tàn phá diễn ra ở các vùng nông 
thôn rất nghiêm trọng. Hầu hết các con đường tỉnh lộ, hương 
lộ đều hư hỏng nặng, cầu cống các loại đều bị hư hoặc xuống 
cấp, việc đi lại chuyên chở rất khó khăn. Phần lớn các công 
1. Năm 1975, toàn tỉnh có một nhà máy điện diezen ở thị xã và ba 
cơ sở điện ở Mỏ Cày, Hàm Long (Châu Thành), Ba Tri; tổng công suất 
2.436KW/h, một vài nhà máy xay xát lúa gạo, lò gạch, năm nhà máy ép dầu 
với công suất 2.000 tấn/năm.
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)364
trình công cộng như công sở, trạm y tế, trường học, đều tạm 
bợ theo kiểu dã chiến. Sau chiến tranh, xăng dầu, phương tiện 
đi lại, vật liệu làm đường, làm cầu, cất nhà khan hiếm. Vì 
vậy, việc khôi phục giao thông vận tải, xây dựng lại các công 
trình phục vụ công cộng ở xã, ấp, làm nhà ở của nhân dân, 
nhất là vùng nông thôn trong tỉnh rất khó khăn. 
Chiến tranh và ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân mới 
đã để lại hậu quả nặng nề về xã hội: 25 vạn người chết và bị 
nhiễm chất độc hóa học; hơn 3 vạn gia đình liệt sĩ, hơn 1,5 vạn 
thương binh và người hưởng chính sách như thương binh; gần 
4 vạn sĩ quan, binh lính và nhân viên của chế độ cũ đầu hàng 
và tan rã trong tỉnh, một số hoang mang lo sợ bị trả thù; nhiều 
lao động không có việc làm, tập trung ở thị xã, thị trấn và các 
khu gom dân; các tệ nạn xã hội như trộm cắp, mại dâm, mê tín 
dị đoan, vẫn còn rải rác ở một số nơi. 
Trật tự trị an sau chiến tranh có những biến động phức 
tạp. Một số binh sĩ ngoan cố không chịu ra trình diện học tập 
cải tạo, tiếp tục nhen nhóm tổ chức, hoạt động phá hoại, tuyên 
truyền xuyên tạc gây hoang mang trong quần chúng. Bọn 
phản động quốc tế và tay sai đã tiến hành chiến tranh xâm 
lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc nước ta, dựng 
nên vấn đề “nạn kiều” cưỡng ép người Hoa trốn đi nước ngoài 
và thực hiện chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với ta. 
Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới tiếp quản còn 
non yếu, đội ngũ cán bộ, đảng viên còn thiếu1, không thể bố 
trí đủ các xã, ấp, nhất là vùng yếu, vùng tạm chiếm cũ. Trong 
giai đoạn mới, chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân 
1. Theo Dự thảo báo cáo một số đặc điểm cơ bản về tình hình từ sau 
giải phóng đến tháng 12-1975 của tỉnh, toàn tỉnh có 6 cán bộ cao cấp trong 
Thường trực Tỉnh ủy, 50 cán bộ trung cấp, 61 cán bộ hưởng lương sơ cấp, 
874 cán bộ cơ sở hưởng lương cơ sở. 
Chương IV: ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ: ... 365
sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, từ nhiệm vụ chiến đấu sang 
làm nhiệm vụ chính quyền, quản lý kinh tế, cán bộ, đảng viên 
còn lúng túng, lề lối làm việc chưa chuyển kịp với tình hình 
mới, chưa có kinh nghiệm, nhận thức, tư tưởng còn giản đơn 
về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ quan duy ý chí, nóng vội, 
chưa thấy hết khó khăn, phức tạp của tình hình. Trong quan 
hệ giữa Đảng và chính quyền còn chồng chéo, Đảng bao biện 
làm thay chính quyền. 
Tất cả những khó khăn đó đã gây ra những trở ngại lớn 
cho công cuộc xây dựng xã hội mới ở Bến Tre. Với tinh thần 
cách mạng tiến công, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre đã kiên 
quyết vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục giành những thắng lợi 
mới, đưa sự nghiệp cách mạng của tỉnh tiếp tục phát triển.
Tiếp thu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp 
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (ngày 29-9-1975) 
về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 16 của Trung ương Cục quyết 
định chủ trương và những công tác cấp bách sau giải phóng 
hoàn toàn miền Nam (tháng 7-1975), Đảng bộ tỉnh đã xác 
định nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ và quân dân trong tỉnh 
là: xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng vững mạnh; 
đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, ổn định tình hình; 
khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống nhân dân; cải tạo 
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Ngày 17-5-1975, Ủy ban quân quản tỉnh1 được thành lập, 
do đồng chí Nguyễn Văn Nguyễn (Trịnh Văn Nở) làm Chủ tịch 
1. Ủy ban quân quản có 7 đồng chí: 1. Nguyễn Văn Nguyễn (Tư Nở) 
làm Chủ tịch; 2. Bùi Hữu Thời (Tư Thi) làm Phó Chủ tịch; 3. Phan Văn 
Thậm (Tư Định), Tham mưu trưởng Tỉnh đội làm Tham mưu trưởng Ban 
Quân quản; 4. Trần Văn Vương (Hai Chiến), Phó Công an tỉnh phụ trách 
an ninh; 5. Thành Nam làm Thư ký; 6. Tư Ái phụ trách tài chính; 7. Bảy 
Thuận làm bảo vệ nội bộ.
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)366
có nhiệm vụ truy quét tàn quân ngụy ngoan cố, trấn áp bọn 
phản động ngóc đầu dậy, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an 
toàn xã hội, đồng thời, tiếp quản và điều hành toàn diện cơ sở 
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. 
Chính quyền cách mạng đã ra văn bản đầu tiên có tính 
pháp quy để quản lý xã hội, đó là Thông cáo số 1 “Quy định 
việc giữ gìn trật tự trị an”. Thông cáo xác định giữ gìn trật 
tự an ninh, bảo vệ chính quyền cách mạng chính là nghĩa vụ 
của mỗi người dân, nhằm bảo vệ và phát huy thành quả cách 
mạng, bảo vệ tài sản của nhân dân. Đồng thời, xác định nhiệm 
vụ cấp thiết là nhanh chóng ổn định trật tự trị an, ổn định 
sinh hoạt bình thường trong nhân dân. Sau Thông cáo số 1, 
liên tục 17 thông cáo khác ra đời xác định nhiệm vụ cấp bách 
trước mắt cần phải tổ chức thực hiện đó là truy quét tàn quân 
ngụy ác ôn, nguy hiểm, có nhiều nợ máu với cách mạng và 
nhân dân, còn ngoan cố lẩn trốn không chịu ra trình diện. 
Nội dung các thông cáo gồm: quy định việc tiếp quản các cơ 
quan hành chính, kinh tế, xã hội. Quy định việc thu gom vũ 
khí, chất nổ, tài sản, tài liệu của địch để lại. Quy định việc ghi 
danh trình diện của nhân viên, công chức hành chính, sĩ quan, 
binh lính các binh chủng, đảng viên các đảng phái phản động. 
Quy định việc sử dụng giấy tờ tùy thân, khai báo về hộ khẩu. 
Quy định việc tham gia giao thông của các phương tiện giao 
thông thủy, bộ. Tuyên bố giải tán các tổ chức kìm kẹp của địch 
ở hạ tầng cơ sở. Quy định xây dựng cơ cấu tổ chức chính quyền 
cách mạng ở khóm, ấp, xã, phường; nghiêm cấm các hình thức 
cờ bạc; quy định hình thành các tổ chức quần chúng. Đồng 
thời, tổ chức tuyên truyền học tập bằng nhiều hình thức cho sĩ 
quan, binh lính chế độ cũ và nhân dân về chính sách 10 điểm 
của cách mạng và 18 thông cáo của Ủy ban quân quản tỉnh. 
Kết quả, đã có 32.024 người ra trình diện; trong đó, hệ quân có 
Chương IV: ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ: ... 367
25.201 người (có 1 chuẩn tướng, 33 cấp tá, 45 cấp úy, 1.259 hạ 
sĩ quan, 23.863 lính), hệ chính quyền có 5.913 người (cấp tỉnh 
2.499 người, cấp huyện, xã 3.414 người).
Số được phân loại chuyển về trên quản huấn dài hạn 1.965 
người. Cấp tỉnh thành lập ba trại giam, hai trại quản huấn, mỗi 
huyện thành lập một trại giam, hai trại quản huấn để cải tạo đối 
tượng tập trung. Đồng thời, mở nhiều đợt giáo huấn tại chỗ và 
cấp cho mỗi người một giấy chứng nhận đã học tập trao trả quyền 
công dân. Đây là thắng lợi bước đầu có ý nghĩa quan trọng trong 
công tác ổn định xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng. Đi đôi với 
học tập cải tạo, có kế hoạch truy quét, tấn công những tên ác ôn, 
nguy hiểm, ngoan cố không chịu ra trình diện, cố tình lẩn trốn, 
câu móc hoạt động thực hiện kế hoạch hậu chiến của Mỹ, ngụy. 
Qua các đợt truy quét, ta bắt giữ 1.006 đối tượng1.
Công tác xây dựng Đảng có bước phát triển. Trung ương 
đã đưa nhiều đồng chí có năng lực về tăng cường cho tỉnh 
như Nguyễn Văn Trung, Võ Văn Phẩm, Nguyễn Nam Hồng, 
Nguyễn Văn Châu, Lê Minh Đào Tỉnh ủy mới được chỉ định 
do đồng chí Nguyễn Văn Trung làm Bí thư, đồng chí Nguyễn 
Văn Phiên (Nguyễn Hùng) làm Phó Bí thư thường trực, đồng 
chí Võ Văn Phẩm là Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân 
tỉnh. Các cấp ủy huyện, xã được củng cố. Các ban, ngành hình 
thành tương đối đầy đủ.
Đội ngũ cán bộ tỉnh được bổ sung thêm nhiều đồng chí từ 
các nhà tù về, cán bộ tập kết, cán bộ từ cấp khu giải thể trở về 
và một số cán bộ từ miền Bắc, nhất là tỉnh Vĩnh Phú kết nghĩa 
tăng cường cho tỉnh.
Để nhanh chóng xây dựng bộ máy chính quyền, Tỉnh ủy 
đã chỉ đạo tăng cường cán bộ cho các vùng mới giải phóng 
1. Theo Lịch sử Công an tỉnh Bến Tre (1975-1995), Sở Thông tin - 
Truyền thông tỉnh Bến Tre, 2011, tr. 23.
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)368
cơ sở cách mạng còn yếu. Các huyện Mỏ Cày, Châu Thành 
trong chiến tranh chia thành Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, 
Châu Thành Đông, Châu Thành Tây được sáp nhập trở lại 
như cũ. Toàn tỉnh có 7 huyện, 1 thị xã, 125 xã, 2 khu phố, 5 
phường. Chính quyền cách mạng được xây dựng đều khắp các 
xã ấp trong tỉnh, 43 ty, ngành tỉnh có hệ thống đến huyện, 
xã; 125 ủy ban nhân dân xã, 644/738 ban nhân dân ấp. Đối 
với các ấp chưa có chi bộ, chưa có ban chấp hành đoàn thể, 
các xã phân công cán bộ hoạt động và xây dựng, phát triển 
lực lượng mới.
Song song với việc xây dựng chính quyền cách mạng, các 
đoàn thể quần chúng được xây dựng, củng cố và phát triển. 
Trong các vùng mới giải phóng, các đoàn thể quần chúng, các 
ban cán sự được tổ chức. Nhân dân phấn khởi gia nhập các 
đoàn thể, tham gia các hoạt động xã hội. Trong 8 tháng (từ 
tháng 5-1975 đến tháng 12-1975), toàn tỉnh đã phát triển 
được 1.100 đoàn viên Thanh niên Lao động, 5.257 hội viên 
Nông hội, 4.900 Thanh niên Giải phóng, 2.513 học sinh giải 
phóng, 238 đoàn viên Công đoàn Giải phóng. Các vạn vần đổi 
công, nghiệp đoàn được tổ chức, tập hợp 7.781 quần chúng 
các giới.
Chính quyền cách mạng đã tiến hành nhiều biện pháp để 
ổn định sản xuất và đời sống nhân dân, tổ chức đưa 20.000 
đồng bào hồi hương. Các hoạt động công cộng như: điện, nước, 
vệ sinh công cộng, giao thông vận tải đều trở lại hoạt động 
bình thường để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Chính 
quyền đã tổ chức cứu đói, giúp đỡ, tạo điều kiện cho đồng bào 
ở thị xã, thị trấn, các khu gom dân, ấp chiến lược trở về quê 
cũ, phân phối gần 80.000 bao phân bón, trợ cấp 455.000 đồng 
cho đồng bào nghèo. Ngày 6-6-1975, Ủy ban quân quản tỉnh cử 
đoàn cứu trợ cho đồng bào 9 khu nội ô và 11 ấp ngoại ô thị xã. 
Chương IV: ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN HAI NHIỆM VỤ: ... 369
Đoàn đã cứu trợ cho 757 gia đình với 3.727 nhân khẩu, tổng số 
tiền là 3.574.950 đồng. Hoạt động cứu trợ đã tạo tâm lý phấn 
khởi và củng cố mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng với 
nhân dân. Bộ đội, du kích giúp dân tháo gỡ bom mìn, san bằng 
đồn bốt, mở rộng diện tích đất canh tác. Năm 1975, nhân dân 
đã sản xuất thêm 25.000ha đất ruộng, 80 đến 90% diện tích 
đất vườn được khai hoang phục hóa trồng các loại chuối, dừa, 
mía, rau, đậu Phong trào thâm canh tăng vụ bước đầu được 
thực hiện, vụ đông xuân năm 1976, nông dân đã cấy sạ trên 
12.000ha. Nhân dân Bến Tre đã giải quyết được nạn thiếu 
lương thực và làm nghĩa vụ với Trung ương 5.000 tấn thóc. 
Đi đôi với sản xuất lương thực, nghề vườn có bước phục hồi 
khá. Nghề cá tiếp tục duy trì, bảo đảm đánh bắt liên tục, năng 
suất đánh bắt và sản lượng khai thác đạt khá, đã giải quyết 
được một phần thực phẩm hằng ngày cho nhân dân trong tỉnh 
và các nơi khác, cung ứng một khối lượng lớn cho Trung ương 
xuất khẩu, được công nhận là tỉnh có khả năng khai thác hải 
sản khá, dẫn đầu các tỉnh miền Nam về quản lý thu mua hải 
sản và cung ứng tôm đông lạnh xuất khẩu trong năm 1976. 
Chính quyền cách mạng đã tiến hành cải tạo công thương 
nghiệp tư bản tư doanh, quốc hữu hóa tài sản của tư sản mại 
bản (chiến dịch X2 tháng 7-1975) và thực hiện chủ trương thu 
đổi tiền của chính quyền Sài Gòn cũ và phát hành tiền của 
Ngân hàng Việt Nam (chiến dịch X3 tháng 9-1975), ngăn chặn 
tình trạng tư thương dùng tiền mua hàng hóa đầu cơ tích trữ, 
lũng đoạn thị trường. 
Đồng thời với cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, 
Đảng bộ và chính quyền quan tâm khôi phục sản xuất công 
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giải quyết những khó khăn về 
nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng, đưa các nhà máy, xí nghiệp 
vào sản xuất. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa được thành lập 
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)370
với các cửa hàng phân phối các mặt hàng thiết yếu phục vụ 
cho đời sống nhân dân. 
Ngày 2-9-1975, tại sân vận  ... 
34 Đoàn Hoàng Minh
b trưởng, Thông tin f9 
Quân đoàn 4 
1938 Đã mất 17-9-1967
35 Võ Văn Mẫn
Thượng úy, phi công c1, 
e923, f371
1939 Đã mất 28-4-2000
36
Lê Anh Xuân 
(Ca Lê Hiến)
Tân Thành Bình, Mỏ 
Cày Bắc
1940
Mất 
năm 1968
2011
37 Nguyễn Văn Lý
c66 - Đoàn 81 - Cục 
Hậu cần Miền
1941 Đã mất 23-2-2010
38
Nguyễn Văn Trinh
(Ba Chí Thành)
Trưởng ban An ninh xã 
Phú An Hòa, 
Châu Thành
1942 Đã mất 6-6-1976
39 Nguyễn Văn Chồn
Chuẩn úy, Huyện đội 
Giồng Trôm
1943 Còn sống 15-1-1976
40 Võ Viết Thanh
C phó Quản đốc quân 
giới Bến Tre
1943 Còn sống 5-9-1970
41 Mai Văn Ánh
Đại đội trưởng Đại đội 
Đặc công, bộ đội địa 
phương tỉnh
1944 Còn sống 6-11-1978
42
 Phan Bình Trung 
(Hoàng Lam) 
Đại đội phó Đại đội Đặc 
công thủy Bến Tre
1944 Đã mất 20-12-1994
43 Đỗ Văn Trạch
Nguyên chiến sĩ Tiểu 
đoàn 261, tỉnh Bến Tre
1944
Mất năm 
1963
25-4-2013
44 Võ Thị Tâm
Giao liên 
tỉnh đội Bến Tre
1944 Còn sống 30-01-2011
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)618
STT Họ và tên
Cấp bậc, chức vụ, 
đơn vị khi được 
tuyên dương
Năm 
sinh
Còn sống, 
đã mất
Năm 
tuyên 
dương
45 Trà Thị Cụt
Tiểu đội trưởng 
Phân đội du kích xã 
Thạnh Phước, Bình Đại
1945 Đã mất 23-2-2010
46 Văn Lộc Sanh
Chuẩn úy, Quân y tỉnh
Bến Tre
Y tá, đội phẫu thuật 1 
tỉnh Bến Tre
1947 Còn sống 6-11-1978
47 Nguyễn Thị Tốt
Dân quân du kích 
xã Phước Thạnh, 
Châu Thành
1947 Đã mất 6-11-1978
48
Nguyễn Thành Trung
(Đinh Khắc Trung)
Đại tá Không quân 1947 Còn sống 20-12-1994
49
Nguyễn Thị E 
(Đoàn)
Chuẩn úy, y tá
Quân y Giồng Trôm
1948 Đã mất 20-12-1973
50 Đinh Quyết Tâm
Chuẩn úy, C phó c2 
Thông tin Quân khu 7
1948 Còn sống 6-11-1978
51
Cao Văn Trung 
(Lê Hùng)
Trung đội phó Ban An 
ninh tỉnh Bến Tre
1948 Còn sống 6-6-1976
52 Nguyễn Thanh Trà
Phó Ty Công an tỉnh
Bến Tre
1948 Đã mất 3-8-1995
53 Huỳnh Văn Be
Nguyên Đại đội phó 
Đại đội bộ đội địa 
phương huyện Mỏ Cày, 
tỉnh Bến Tre
1949 Còn sống 30-1-2011
54 Khấu Trung Gương
Chuẩn úy, Đại đội 
trưởng, c3, d263, 
Bến Tre
1949 Còn sống 6-11-1978
55 Lê Hoàng Minh Xã đội phó, Minh Đức 1949 Còn sống 6-11-1978
56 Lê Văn Phích
B phó, Đại đội Đặc 
công tỉnh Bến Tre
1949 Đã mất 5-9-1970
57 Nguyễn Văn Cho
Tiểu đoàn trưởng d261
Đồng Tháp, e1,
Quân khu 9
1949 Đã mất 10-2-1970
58 Văn Lộc Trị
Đội trưởng Trinh sát 
vũ trang Giồng Trôm
1949 Đã mất 13-8-1980
59
Lê Văn Đực 
(Trung Kiên)
Tổng đội Thanh niên 
xung phong giải phóng 
miền Nam
1949 Đã mất 23-2-2010
60 Nguyễn Văn Hoạt
Trung đội trưởng đặc 
công, c1,d31, Bộ Tư 
lệnh Đặc công
1950 Đã mất 23-9-1973
PHỤ LỤC 619
STT Họ và tên
Cấp bậc, chức vụ, 
đơn vị khi được 
tuyên dương
Năm 
sinh
Còn sống, 
đã mất
Năm 
tuyên 
dương
61 Trần Văn Cắt
Chuẩn úy, Đặc công
Châu Thành
1950 Còn sống 6-11-1978
62 Phạm Văn Dũng
Xã đội phó, Đại Điền, 
Thạnh Phú
1950 Đã mất 6-11-1978
63 Võ Văn Lẹ
Trung đội phó Trinh 
sát vũ trang Ban An 
ninh huyện Châu 
Thành, Bến Tre
1950 Đã mất 29-1-1996
64 Trần Văn Tư
C phó Trinh sát vũ 
trang - Ban An ninh 
Thạnh Phú
1950 Đã mất 29-1-1996
65
Nguyễn Văn Tiền 
(Sáu Tiền)
Trung đội trưởng, c1, 
d207, bộ đội địa phương 
tỉnh Kiên Giang
1950 Đã mất 6-11-1978
66
Lê Thị Hồng 
(Sáu Thắng)
Chính trị viên 
Đội biệt động thị xã 
Bến Tre
1951 Còn sống 6-11-1978
67 Nguyễn Minh Tâm
Phân đội trưởng đặc 
công, bộ đội địa phương 
tỉnh Bến Tre
1951 Còn sống 20-10-1976
68 Trương Văn Rắt
Xã đội trưởng
Thạnh Phú Đông, 
Giồng Trôm
1952 Đã mất 6-11-1978
69 Hồ Văn Lỳ 
Đội trưởng Đội trinh sát 
Công an tỉnh Bến Tre
1952 Còn sống 6-6-1976
70
Phan Thị Hồng Châu
(Minh Hiền)
Trinh sát vũ trang 
Ban An ninh 
tỉnh Bến Tre
1952 Còn sống 6-11-1974
71 Nguyễn Văn Bánh
Trung tá, d phó d306, 
e3, Quân khu 9
1952 Đã mất 15-1-1976
72
Huỳnh Công Thức 
(Quyết Thắng)
Đại đội trưởng 
Đại đội trinh sát 
bộ đội địa phương 
huyện Chợ Lách
1953 Đã mất 23-2-2010
73 Dương Đức Thùng
Đại đội trưởng Đại đội 
phái viên, Tiểu đoàn 
425, Đoàn 9906
1954 Đã mất 25-1-1983
74 Nguyễn Văn Thuyền
Đại đội trưởng, c3, 
d179 Đoàn 9906, tỉnh 
Bến Tre
1956 Đã mất 25-1-1983
75 Nguyễn Văn Sứ
C phó, c1, d263 
Đoàn 9906 Bến Tre
1956 Đã mất 25-1-1983
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)620
STT Họ và tên
Cấp bậc, chức vụ, 
đơn vị khi được 
tuyên dương
Năm 
sinh
Còn sống, 
đã mất
Năm 
tuyên 
dương
76 Nguyễn Hữu Xương
Cán bộ binh vận 
huyện, Ba Tri 
1931
Mất 
năm 1965
9-10-2014
77 Đoàn Văn Tranh
Thường vụ Huyện ủy 
huyện Mỏ Cày, tỉnh 
Bến Tre
1922
Mất 
năm 1960
9-10-2014
78
Võ Văn Sáu
(Sáu Chiến, Sáu Mèo)
Nguyên cán bộ công tác 
huấn luyện, Đội biệt 
động thị xã Bến Tre
1936 Đã mất 23-2-2010
79 Phan Thị Ngọc Tươi Công an 1956 23-2-2010
80 Bùi Văn Rây
Nguyên Ấp đội trưởng 
phụ trách vùng B, 
Hưng Phong, 
Giồng Trôm
1936 Đã mất 30-1-2011
81 Nguyễn Hữu Vị
Nguyên Tiểu đoàn 
trưởng Tiểu đoàn 516, 
Bộ Chỉ huy Quân sự 
tỉnh Bến Tre
1929 Còn sống 30-1-2011
82 Trần Minh Tích
Nguyên Đại đội trưởng 
Đại đội 2, Tiểu đoàn 
516, Bộ Chỉ huy Quân 
sự tỉnh Bến Tre
1935 Đã mất 30-1-2011
83 Nguyễn Thị Bé
D phó d306, e1, Quân 
khu 9
1952
DANH SÁCH ANH HÙNG LAO ĐỘNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
STT Họ và tên Chức vụ
Năm 
sinh
Còn sống, 
đã mất
Năm 
tuyên 
dương
1
Đoàn Thúy Ba
(Đoàn Hồng Hoa)
Nguyên Thứ trưởng 
Bộ Y tế
1930 Còn sống 2000
2 Tạ Thị Chung
Nguyên Giám đốc Bệnh 
viện Từ Dũ
1931 Còn sống 2013
3 Phạm Khắc
Nguyên Giám đốc Đài 
Truyền hình TP.HCM
1939 Đã mất 2000
4
Huỳnh Văn Cam 
(Lê Huỳnh)
Chủ tịch Hội Bảo trợ 
bệnh nhân nghèo và 
trẻ em cơ nhỡ tỉnh 
1940 Còn sống 2013
5
Trịnh Văn Y 
(Mai Sơn)
Chủ tịch Hội Khoa học 
kỹ thuật cầu đường tỉnh, 
nguyên Ủy viên Ban 
Thường vụ Tỉnh ủy, 
Phó Chủ tịch Ủy ban 
nhân dân tỉnh
1942 Còn sống 2009
PHỤ LỤC 621
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I (nhiệm kỳ 1977-1979)
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II (nhiệm kỳ 1980-1981)
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)622
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III (nhiệm kỳ 1983-1985)
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (nhiệm kỳ 1987-1990)
PHỤ LỤC 623
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (nhiệm kỳ 1991-1995)
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (nhiệm kỳ 1996-2000)
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)624
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (nhiệm kỳ 2000-2005)
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2005-2010)
PHỤ LỤC 625
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (nhiệm kỳ 2010-2015)
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X (nhiệm kỳ 2015-2020)
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)626
BÍ THƯ TỈNH ỦY BẾN TRE 
QUA CÁC THỜI KỲ THỜI KỲ* 
Đồng chí
Nguyễn Văn Nguyễn
5-1931 – 7-1931
Đồng chí
Nguyễn Văn Phượp
7-1931 – cuối 1931
Đồng chí
Nguyễn Văn Trước
Đầu 1932 – 5-1932**
Đồng chí
Nguyễn Văn Triệu
4-1936 – cuối 1938
* Do chiến tranh ác liệt nên một số đồng chí không còn ảnh.
** Từ năm 1933 đến năm 1935 không có Tỉnh ủy.
PHỤ LỤC 627
Đồng chí
Bùi Lương
Đầu 1939 – cuối 1939
Đồng chí
Đỗ Nghĩa Trọng
Đầu 1940 – 10-1940;
12-1945 – 3-1947
Đồng chí
Phạm Thái Bường
11-1940 – 12-1940*
Đồng chí
Nguyễn Tẩu
4-1945 – 7-1945
* Từ đầu năm 1941 đến năm 1944 không có Tỉnh ủy.
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)628
Đồng chí
Đỗ Văn Khuyến
8-1945 – 9-1945
Đồng chí
Phan Triêm
9-1945 – 11-1945
Đồng chí
Võ Văn Khánh
4-1947 – 5-1949*
Đồng chí
Trần Xuân Lê
Cuối 1949 – cuối 1952
* Tỉnh ủy kháng chiến
PHỤ LỤC 629
Đồng chí
Đỗ Phát Quang
1-1953 – 7-1954
Đồng chí
Nguyễn Văn Khước
9-1954 – cuối 1958
Đồng chí
Võ Văn Phẩm
Đầu 1959 – 4-1960;
5-1961 – đầu 1964
Đồng chí
Nguyễn Thị Định
5-1960 – 4-1961
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)630
Đồng chí
Nguyễn Văn Cánh
Đầu 1964 – đầu 1973
Đồng chí
Lê Văn Quang
Cuối 1968*
Đồng chí
Nguyễn Văn Phiên
Quyền Bí thư 3-1973 
đến 4-1974;
22-4-1974 – cuối 1976
Đồng chí
Nguyễn Văn Trung
Cuối 1976 – 3-1987
* Thời gian này, Khu ủy Khu 8 quyết định rút đồng chí Nguyễn Văn Cánh 
(Bảy Đấu) - Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, về Khu phụ trách Nông hội, quyết định đồng 
chí Lê Văn Quang (Hai Thành) làm Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre thay đồng chí Nguyễn 
Văn Cánh. Đồng chí Lê Văn Quang trên đường về đến kinh An Long, Đồng Tháp 
Mười hy sinh trong trận càn của địch và tháng 11-1968, đồng chí Nguyễn Văn 
Cánh tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre.
PHỤ LỤC 631
Đồng chí
Nguyễn Xuân Kỷ
3-1987 – 5-1996
Đồng chí
Nguyễn Văn Thới
5-1996 – 2000
Đồng chí
Trần Văn Truyền
1-2001 – 4-2003
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)632
Đồng chí
Huỳnh Văn Be
5-2003 – 2010
Đồng chí
Nguyễn Thành Phong
12-2010 – 1-2015
Đồng chí
Võ Thành Hạo
3-2015 đến nay
PHỤ LỤC 633
Biểu diễn văn nghệ tại tượng đài Đồng khởi
Khu di tích cấp quốc gia đặc biệt Đồng khởi (xã Định Thủy)
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)634
Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu
Đài tưởng niệm đường Hồ Chí Minh trên biển
PHỤ LỤC 635
Công an tỉnh Bến Tre luyện tập sẵn sàng chiến đấu
Lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre tuần tra trên biên giới biển
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)636
Cắt băng khánh thành cầu Rạch Miễu, ngày 19-1-2009
Cầu Rạch Miễu
PHỤ LỤC 637
Khánh thành và thông xe cầu Cổ Chiên
Du lịch sông nước Bến Tre
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)638
Đồng lúa Bến Tre
Khu công nghiệp Giao Long
PHỤ LỤC 639
Chế biến dừa
Chế biến cá da trơn
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)640
May công nghiệp
Cống đập Ba Lai
PHỤ LỤC 641
Lễ công bố xã đầu tiên đạt chuẩn nông thôn mới 
xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm 
Xã nông thôn mới Châu Bình, huyện Giồng Trôm
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)642
Thành phố Bến Tre trên đường phát triển
Hoa kiểng Cái Mơn, Chợ Lách
MỤC LỤC
Trang
Lời Nhà xuất bản 5
Lời giới thiệu 9
Mở đầu
BẾN TRE - VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI 
VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ 13
Chương I
ĐẢNG BỘ BẾN TRE RA ĐỜI, LÃNH ĐẠO PHONG TRÀO 
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945) 25
I- Đảng bộ Bến Tre ra đời, lãnh đạo phong trào 
1930-1931 25
1. Nhân dân Bến Tre dưới ách thống trị của thực dân Pháp 25
2. Đảng bộ Bến Tre ra đời 28
3. Đảng bộ lãnh đạo phong trào 1930-1931 36
II- Đấu tranh để khôi phục và phát triển lực lượng cách 
mạng (1932-1935) 41
III- Đảng bộ lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi các quyền 
dân sinh, dân chủ (1936-1939) 44
IV- Đảng bộ lãnh đạo nhân dân Bến Tre tham gia cuộc 
khởi nghĩa Nam Kỳ (tháng 11-1940) 53
V- Khôi phục tổ chức đảng, chuẩn bị mọi mặt, tiến tới 
chớp thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám 
năm 1945 (1941-1945) 59
1. Nhanh chóng khôi phục tổ chức đảng 59
2. Chuẩn bị lực lượng nắm thời cơ 64
Chương II
ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN 
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) 74
 I- Những năm đầu kháng chiến (từ tháng 9-1945 đến 
cuối năm 1950) 74
1. Xây dựng, củng cố thực lực mọi mặt, chuẩn bị kháng chiến 
(9-1945 – 1-1946) 74
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)644
2. Năm đầu kháng chiến (ngày 8-2-1946 đến tháng 12-1946) 82
3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện chống địch 
lấn chiếm (từ tháng 12-1946 đến cuối năm 1950) 89
II- Khôi phục phong trào kháng chiến từ một tỉnh hoàn 
toàn bị chiếm đóng, vùng lên mạnh mẽ phối hợp chiến 
cuộc Đông Xuân 1953-1954, giành thắng lợi quyết định 
(1951 – 7-1954) 104
1. Những năm tháng khó khăn, thử thách 104
2. Tích cực phối hợp với chiến trường toàn quốc trong chiến 
cuộc Đông Xuân 1953-1954, vùng lên mạnh mẽ, đập tan kế 
hoạch bình định chiếm đóng của thực dân Pháp 118
Chương III
 ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN 
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
 (THÁNG 7-1954 ĐẾN NGÀY 1-5-1975) 126
I- Đấu tranh chính trị, đòi địch thi hành Hiệp định 
Giơnevơ, chống “tố cộng, diệt cộng”, giữ gìn và phát 
triển lực lượng cách mạng (từ tháng 7-1954 đến cuối 
năm 1959) 126
1. Đấu tranh chính trị đòi địch thi hành Hiệp định Giơnevơ, 
đòi dân sinh dân chủ (tháng 7-1954 đến giữa năm 1956) 126
2. Đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng”, giữ gìn và phát triển 
lực lượng cách mạng 146
II- Cuộc Đồng khởi lịch sử, chuyển hướng phong trào, 
tạo ra bước ngoặt cách mạng năm 1960 167
1. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 và kế hoạch nổi 
dậy của Tỉnh ủy 167
2. Diễn biến phong trào Đồng khởi 176
III- Tiến hành chiến tranh cách mạng, kết hợp “hai 
chân, ba mũi”, đánh bại kế hoạch gom dân lập ấp chiến 
lược của địch (1961-1964) 211
1. Nhanh chóng xây dựng, phát triển lực lượng, đẩy mạnh tiến 
công, giữ và phát huy thành quả đồng khởi 211
2. Đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, chống phá kế hoạch 
gom dân lập ấp chiến lược của địch 223
3. Cao trào phá ấp chiến lược năm 1964 237
MỤC LỤC 645
IV- Đánh bại bình định của Mỹ - ngụy trên chiến trường 
Bến Tre - Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1968 
(1965-1968) 248
1. Đánh bại bình định của Mỹ - ngụy trên chiến trường Bến 
Tre (từ năm 1965 đến cuối năm 1967) 248
2. Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 265
V- Chống phá bình định, bước đầu đánh bại chiến lược 
Việt Nam hóa chiến tranh (1969-1972) 283
1. Thời kỳ khó khăn ác liệt 283
2. Bám đất, bám dân giành thế chủ động 301
3. Chiến dịch tổng hợp đánh phá bình định năm 1972 310
VI- Chống địch phá hoại Hiệp định Pari, tiến lên hưởng 
ứng cuộc Tổng tấn công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, 
giải phóng tỉnh Bến Tre (từ ngày 27-1-1973 đến ngày 
1-5-1975) 330
1. Chống địch phá hoại Hiệp định Pari, giữ và mở rộng vùng 
giải phóng 330
2. Hưởng ứng chiến dịch Hồ Chí Minh, quân và dân Bến Tre 
nổi dậy đồng loạt giải phóng tỉnh 353
Chương IV
ĐẢNG BỘ BẾN TRE LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN 
HAI NHIỆM VỤ: XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC 
(1975-1986) 362
I- Ổn định tình hình, khôi phục sản xuất, hàn gắn vết 
thương chiến tranh, góp phần cùng cả nước đánh thắng 
hai cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới phía Tây Nam 
và phía Bắc nước ta (1975-1979) 362
II- Tháo gỡ khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội (1980-1986) 390
Chương V
THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, 
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA (1986-2015) 414
I- Bước đầu thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng 
(1986-1990) 314
II- Giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đổi mới, phát 
triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa, củng cố, kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, 
mặt trận và các đoàn thể vững mạnh (1991-1995) 437
LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH BẾN TRE (1930-2015)646
III- Lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996-2000) 467
IV- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng 
hệ thống chính trị vững mạnh (2000-2015) 493
Kết luận 571
Phụ lục 597
Chịu trách nhiệm nội dung và xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Biên tập nội dung: TRẦN BÌNH 
ThS. PHẠM VŨ PHƯƠNG LINH
Trình bày bìa: ĐẶNG NGỌC ĐÀI
LÊ HÀ LAN
Chế bản vi tính: NGUYỄN THANH TẤN KIỆT
Sửa bản in: PHƯƠNG LINH
Đọc sách mẫu: PHƯƠNG LINH
In 3.000 cuốn, khổ 16x 24cm, tại Công ty Cổ phần In Bến Tre
Địa chỉ: 32 đường Thủ Khoa Huân, phường 3, thành phố Bến Tre
Số đăng ký xuất bản: 2972-2017/CXBIPH/7-122/CTQG.
Quyết định xuất bản số: 2047-QĐ/NXBCTQG, ngày 11-9-2017.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 9 năm 2017.
Mã ISBN: 978-604-57-3467-4

File đính kèm:

  • pdflich_su_bao_dang_bo_tinh_ben_tre_1930_2015_phan_2.pdf