Lưu chiểu và hoạt động thư viện

Lưu chiểu xuất bản phẩm là một hiện

tượng không mới trên thế giới và ở nước ta

nhưng chưa được thông dụng trong xã hội.

Nhiều người đã chưa hiểu cặn kẽ về khái

niệm này và ý nghĩa xã hội của nó, trong

đó có không ít những người làm công tác

thư viện, xuất bản ở nước ta. Bài viết này

có mục đích làm sáng rõ hơn về khái niệm

lưu chiểu xuất bản phẩm và vai trò của nó

trong hoạt động thư viện nói riêng và trong

xã hội nói chung.

pdf 5 trang yennguyen 3700
Bạn đang xem tài liệu "Lưu chiểu và hoạt động thư viện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lưu chiểu và hoạt động thư viện

Lưu chiểu và hoạt động thư viện
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
18 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
TS Lê Văn Viết
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Tóm tắt: Làm rõ khái niệm về lưu chiểu xuất bản phẩm. Khái quát quá trình phát triển của 
công tác lưu chiểu ở Việt Nam. Phân tích vai trò của lưu chiểu trong hoạt động thư viện nói riêng và 
trong xã hội nói chung.
Từ khóa: Hoạt động thư viện; lưu chiểu; lưu chiểu xuất bản phẩm.
Archiving and library activities 
Abstract: The article introduces the definitions of archive of publications. It then provides 
overview of archiving activities in Vietnam, analyzes its role in library activities as well as in society.
Keywords: Library activities; archiving; archive of publications
LƯU CHIỂU VÀ HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN 
Lưu chiểu xuất bản phẩm là một hiện 
tượng không mới trên thế giới và ở nước ta 
nhưng chưa được thông dụng trong xã hội. 
Nhiều người đã chưa hiểu cặn kẽ về khái 
niệm này và ý nghĩa xã hội của nó, trong 
đó có không ít những người làm công tác 
thư viện, xuất bản ở nước ta. Bài viết này 
có mục đích làm sáng rõ hơn về khái niệm 
lưu chiểu xuất bản phẩm và vai trò của nó 
trong hoạt động thư viện nói riêng và trong 
xã hội nói chung. 
1. Khái niệm về lưu chiểu
Trên thế giới, Pháp là nước đầu tiên 
áp dụng quy định về lưu chiểu xuất bản 
phẩm. Về mặt ngữ nghĩa tiếng Việt, 
GS. Nguyễn Lân trong tác phẩm “Từ và 
Ngữ Việt Nam” giải thích rằng: lưu chiểu 
(lưu-để lại; chiểu-văn bản) là việc tác phẩm 
văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà 
nước để làm tài sản chung [10, tr. 1114]. 
Tra tìm trên Wikipedia ta có giải thích: “Lưu 
chiểu là một yêu cầu mang tính pháp lý mà 
một người hoặc một nhóm người nộp một 
số bản ấn phẩm của họ tới một nơi lưu trữ, 
thường là một thư viện. Yêu cầu này chủ 
yếu giới hạn cho sách và ấn phẩm định kỳ. 
Số lượng bản nộp khác nhau và có thể từ 1 
đến 19 bản (ở Ba Lan). Đặc biệt, Thư viện 
Quốc gia là một trong những cơ quan lưu 
trữ những ấn bản này. Ở một số nước cũng 
đặt ra yêu cầu lưu chiểu đối với chính phủ 
và chính phủ được yêu cầu gửi các bản lưu 
tài liệu đến các thư viện, nơi công chúng có 
thể tới sử dụng” [3]. 
Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, 
tập 2, xuất bản năm 2002, thì Lưu chiểu là 
chế độ nộp bắt buộc cho cơ quan nhà nước 
các bản in, ghi hình, ghi âm...; nhằm mục 
đích tàng trữ đầy đủ và lâu dài các xuất 
bản phẩm phát hành trên lãnh thổ quốc 
gia. Kho Lưu Chiểu phần nhiều đặt ở thư 
viện quốc gia và là nguồn bổ sung quan 
trọng cho thư viện [1, tr.796].
Như vậy, nói một cách đầy đủ hơn, lưu 
chiểu là việc nhà xuất bản, nhà in phải nộp 
theo chế độ bắt buộc một số lượng bản 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
19THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
nhất định cho cơ quan lưu chiểu của quốc 
gia (thường là thư viện quốc gia) theo quy 
định của một văn bản quy phạm pháp luật 
riêng để bảo quản lâu dài. 
Ở nước ta, Luật Xuất bản có quan niệm 
về lưu chiểu hơi khác so với cách hiểu như 
trên. Với định nghĩa: “Lưu chiểu là việc nộp 
xuất bản phẩm để lưu giữ, đối chiếu, kiểm 
tra, thẩm định” [8, tr. 2] và quy định chỉ nộp 
lưu chiểu cho cơ quan quản lý nhà nước 
về hoạt động xuất bản ở trung ương và địa 
phương (cấp tỉnh), còn nộp lưu chiểu cho 
Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQGVN) 
thì được gọi là “Nộp xuất bản phẩm” cho 
TVQGVN [8, tr. 13-14]. So với truyền thống 
hàng trăm năm lưu chiểu trên thế giới, quan 
niệm về lưu chiểu trong Luật Xuất bản của 
Việt Nam có một số khác biệt:
- Mục đích của lưu chiểu trên thế giới 
là thu nhận xuất bản phẩm để tạo ra một 
kho xuất bản phẩm của dân tộc đó nhằm 
truyền lại cho các thế hệ mai sau. Đây là 
giá trị to lớn nhất và cũng là đóng góp to 
lớn nhất của hoạt động lưu chiểu đối với 
nền văn hóa của một dân tộc, trong khi 
trong Luật Xuất bản năm 2012 của nước 
ta, lưu chiểu chỉ là để “để lưu giữ, đối chiếu, 
kiểm tra, thẩm định”. 
- Sự khác nhau trong quy định về cơ 
quan thu nhận lưu chiểu. Ở hầu hết các 
nước trên thế giới và cả ở nước ta đến 
trước khi Luật Xuất bản mới ra đời vào năm 
2012, vai trò thu nhận xuất bản phẩm đều 
giao cho thư viện quốc gia của nước đó 
đảm nhiệm. Với Luật Xuất bản 2012, cơ 
quan nhận lưu chiểu là cơ quan quản lý 
nhà nước về xuất bản.
- Vai trò, tầm quan trọng của lưu chiểu 
tại TVQGVN bị hạ thấp. Theo Luật Xuất 
bản 2012, đây chỉ là nộp xuất bản phẩm 
cho TVQGVN. Điều này, trái ngược hẳn với 
tinh thần của Sắc lệnh 18 ngày 31/1/1946 
“Đặt thế lệ lưu chiểu văn hóa phẩm” ở Việt 
Nam do Hồ Chủ tịch ký, theo đó, ngoài 
những bản nộp ở sở lưu chiểu văn hóa 
phẩm (nằm trong Quốc gia Thư viện- nay là 
TVQGVN), sách và báo chí vẫn phải theo 
luật lệ nộp Tòa án, sở Kiểm duyệt, Tuyên 
truyền, ty liêm phóng (Điều 18) [11, tr. 22]. 
Như vậy, Sắc lệnh 18 mới coi việc nộp văn 
hóa phẩm cho TVQGVN là nộp lưu chiểu, 
còn nộp cho các cơ quan khác chỉ là “nộp” 
thông thường.
Trong thực tiễn lưu chiểu của thế giới 
tồn tại 2 loại bản lưu chiểu: bản lưu chiểu 
không mất tiền và mất tiền.
- Bản lưu chiểu không mất tiền: là bản 
của mỗi xuất bản phẩm được xuất bản trên 
lãnh thổ một quốc gia được nhà xuất bản 
và/hoặc nhà in gửi tới các cơ quan lưu chiểu 
theo một văn bản pháp luật của chính phủ 
mà cơ quan này không phải trả tiền. Hầu 
như ở tất cả các nước đều có loại lưu chiểu 
này. Thí dụ, ở Nga, theo Luật lưu chiểu liên 
bang, có 3 loại bản lưu chiểu không mất 
tiền: Cấp Liên bang; Cấp nước cộng hoà; 
Cấp địa phương [4, tr. 50]. Nghĩa là một 
nhà xuất bản khi cho ra đời một xuất bản 
phẩm nào đó phải đồng thời nộp lưu chiểu 
cho cơ quan lưu chiểu cấp liên bang, cấp 
nước cộng hòa và cấp tỉnh.
- Bản lưu chiểu mất tiền: là bản của 
các xuất bản phẩm bắt buộc gửi tới các 
thư viện lớn của đất nước theo hình thức 
trả tiền (chuyển khoản). Có 2 loại bản lưu 
chiểu mất tiền: bản lưu chiểu mất tiền đầy 
đủ (các ấn phẩm về tất cả các môn loại tri 
thức) và bản lưu chiểu mất tiền không đầy 
đủ (các ấn phẩm về từng môn loại tri thức 
riêng biệt). Hình thức này chủ yếu áp dụng 
cho các thư viện khoa học lớn.
2. Sự phát triển công tác lưu chiểu ở 
Việt Nam
Trên thế giới, công tác lưu chiểu đã 
được tiến hành từ lâu. Năm 1537, Pháp đã 
ra sắc lệnh ấn định chế độ nộp lưu chiểu 
ở nước này, cứ mỗi văn hóa phẩm ra đời 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
20 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
phải nộp cho Thư viện Hoàng gia 1 bản. 
Sau này nước Pháp còn ban hành nhiều 
văn bản quy phạm pháp luật nữa về lưu 
chiểu cho phù hợp với tình hình từng thời 
kỳ, trong đó số lượng bản phải nộp cũng có 
nhiều thay đổi. Do tính ưu việt của nó, hầu 
hết các nước trên thế giới đều có những 
quy định pháp luật về lưu chiểu xuất bản 
phẩm.
Ở Việt Nam, trước năm 1922, không có 
cơ quan nào được giao đảm nhận công tác 
lưu chiểu. Ngày 31 tháng 1 năm 1922, Toàn 
quyền Pháp ở Đông Dương ban hành Nghị 
định giao cho Thư viện Trung ương Đông 
Dương (nay là TVQGVN) nhiệm vụ nhận 
lưu chiểu các ấn phẩm xuất bản ở toàn 
Đông Dương (Việt Nam, Lào, Cămpuchia). 
Theo Nghị định này, tất cả các ấn phẩm 
xuất bản ở Đông Dương đều phải nộp cho 
chính quyền địa phương và chính quyền 
sẽ nộp một bản cho Thư viện Trung ương 
Đông Dương ở Hà Nội và một bản cho Thư 
viện Quốc gia Pháp ở Pari. Sau này, chính 
quyền Thực dân Pháp còn ban hành một 
số văn bản khác về lưu chiểu như Sắc 
lệnh quy định lại chế độ nộp lưu chiểu do 
Toàn quyền Pháp ở Đông Dương ký ngày 
29/01/1945 và Nghị định thiết lập Sở lưu 
chiểu tại Nha lưu trữ và thư viện Đông 
Dương tại Sài Gòn ký ngày 12/10/1946. 
Ngay sau khi giành được độc lập, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hòa đã ban hành sắc lệnh số 
18/SL ngày 31/01/1946 quy định thể lệ Lưu 
chiểu văn hoá phẩm. Theo Sắc lệnh này, 
tất cả văn hóa phẩm (nay gọi là xuất bản 
phẩm) xuất bản ở Việt Nam kể cả phim (trừ 
giấy viết thư có tiêu đề, đơn hàng, biên lai, 
mẫu sổ sách, giấy quảng cáo) phải nộp 
cho Sở Lưu chiểu (thuộc TVQGVN) 10 bản 
(trong đó NXB- nộp 8 bản, nhà in nộp 2 
bản). Văn bản này quy định việc gửi nộp 
lưu chiểu không phải trả kinh phí. Sắc lệnh 
cũng quy định hình thức xử phạt. Tại điều 
14 của Sắc lệnh quy định: người nào cố ý 
không nộp những văn hóa phẩm do mình 
in, sản xuất hay xuất bản thì phải (bị) phạt 
từ 100-500 đồng; Nếu tái phạm thì bị phạt 
từ 500-2.000 đồng. Ngoài số tiền phạt còn 
phải trả số tiền mua những bản không nộp 
hoặc nộp thiếu [11, tr. 22].
Từ năm 1993, quy định lưu chiểu đã được 
đưa vào Luật Xuất bản và các văn bản tiếp 
theo hướng dẫn thi hành luật này, đặc biệt 
Nghị định 79/CP ngày 6/11/1993 của Thủ 
tướng Chính phủ) cho phép TVQGVN được 
nhận 4 bản cho một xuất bản phẩm. Luật 
Xuất bản năm 2008 đã quy định nộp cho 
TVQGVN 5 bản. Tại Điều 28 Luật Xuất bản 
năm 2012 (Luật số: 19/2012/QH13) được 
Quốc hội ban hành ngày 20 tháng 11 năm 
2012 quy định nộp xuất bản phẩm cho 
TVQGVN như sau: Trong thời hạn 45 ngày, 
kể từ ngày xuất bản phẩm được phát hành, 
nhà xuất bản, cơ quan, tổ chức được phép 
xuất bản phải nộp ba bản cho TVQGVN; 
trường hợp số lượng in dưới ba trăm bản thì 
nộp hai bản [8, tr. 13-14]. Theo Luật Xuất 
bản 2012, xuất bản phẩm phải nộp là các 
tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn 
hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, 
công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất 
bản thông qua nhà xuất bản hoặc cơ quan, 
tổ chức được cấp giấy phép xuất bản bằng 
các ngôn ngữ khác nhau, bằng hình ảnh, 
âm thanh và được thể hiện dưới các hình 
thức sau đây: a) Sách in; b) Sách chữ nổi; 
c) Tranh, ảnh, bản đồ, áp-phích, tờ rời, tờ 
gấp; d) Các loại lịch; đ) Bản ghi âm, ghi 
hình có nội dung thay sách hoặc minh họa 
cho sách [8 , tr.2].
Như vậy, trong những quy định này chưa 
đề cập lưu chiểu xuất bản phẩm là tài liệu 
điện tử/số. 
3. Lợi ích của lưu chiểu đối với hoạt 
động thư viện
1. Lưu chiểu có vai trò và ý nghĩa quan 
trọng đối với bảo tồn di sản tư liệu của quốc 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
21THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
gia, dân tộc. Như đã ghi trong sắc lệnh 18-
SL ngày 31/1/1946 do Hồ Chủ tịch ký “tàng 
trữ văn hoá phẩm là một việc làm cần thiết 
cho quốc gia về phương diện văn hoá”. Vì 
vậy, lưu chiểu văn hoá phẩm đóng vai trò 
rất quan trọng trong việc bảo tồn phần di 
sản tư liệu của dân tộc vì trong các xuất bản 
phẩm kết tinh những tinh hoa về trí tuệ của 
đất nước và của nhân loại. Nó là phương 
tiện trung thành nhất truyền lại cho hậu thế 
những tri thức được loài người tích luỹ từ 
các thế hệ trước để các tri thức đó được 
phát huy, được kế thừa, phát triển trong 
những thế hệ sau. Ở hầu hết các nước trên 
thế giới, thư viện quốc gia được giao nhiệm 
vụ thu nhận các bản lưu chiểu xuất bản 
phẩm, bảo quản lâu dài các xuất bản phẩm 
đã thu nhận được và phải tổ chức cho mọi 
công dân của cả nước sử dụng. Ngoài việc 
tạo ra kho quốc gia xuất bản phẩm dân tộc, 
bản lưu chiểu còn giúp tạo lập kho tài liệu 
địa chí ở mỗi địa phương. Kho này là bộ 
phận của kho quốc gia tài liệu dân tộc. Đây 
là giá trị lớn nhất, cao cả nhất của thư viện. 
Chính nhờ chức năng này mà các thư viện 
vẫn sẽ còn tồn tại dài lâu mặc cho công 
nghệ thông tin phát triển nhanh, mạnh đến 
mức nào.
2. Trên cơ sở bản lưu chiểu, TVQGVN 
có thể tiến hành thống kê các tài liệu dân 
tộc, biên soạn các loại thư mục quốc gia 
(tháng, quý, năm), các cơ sở dữ liệu thư 
mục và các loại bảng tra khác để thông 
báo cho bạn đọc và người dân trong nước 
biết về những tài liệu đã được xuất bản 
trong nước trong một thời đoạn nào đó và 
tạo nên mong muốn được sử dụng chúng. 
3. Trên cơ sở bản lưu chiểu, TVQG tiến 
hành biên mục tập trung, nghĩa là cung 
cấp những biểu ghi thư mục chuẩn để các 
thư viện khác có thể sử dụng trực tiếp hoặc 
có thể chỉnh sửa một số chi tiết cần thiết 
để đưa vào bộ máy tra cứu của mình. Việc 
làm này giúp thống nhất nghiệp vụ xử lý 
của các thư viện, đồng thời giúp các thư 
viện sao chép biểu ghi, tiết kiệm nhân lực, 
tiền của.
4. Là cơ sở để TVQG tiến hành việc mượn 
giữa các thư viện trong và ngoài nước. Thư 
viện quốc gia, nhờ bản lưu chiểu, trở thành 
thư viện có kho xuất bản phẩm đầy đủ nhất 
nước. Vì thế, các thư viện khác, khi nhận 
được yêu cầu của bạn đọc về tài liệu nào 
đó mà mình không bổ sung được có thể 
nhờ TVQG đáp ứng các yêu cầu đó thông 
qua mượn liên thư viện.
5. Tài liệu nộp lưu chiểu là một chứng cứ 
để phân giải trong các vụ kiện về quyền tác 
giả. Ở nước ta, nhiều vụ kiện về bản quyền 
đã được giải quyết có tính thuyết phục cao 
nhờ những bằng chứng về các tác phẩm 
đang lưu giữ tại TVQGVN. 
6. Tài liệu nộp lưu chiểu đã giúp nhiều 
gia đình, dòng tộc tìm thấy những tác phẩm 
mà tiền nhân mình đã sáng tạo và công bố 
trước kia. Nhiều nhân vật nhờ có tài liệu 
trong TVQGVN đã có những thông tin đầy 
đủ, chính xác hơn về thân thế, sự nghiệp. 
Lưu chiểu quan trọng không chỉ trên bình 
điện quốc gia mà còn quan trọng trên bình 
diện địa phương. Hiểu được điều đó nên 
ngoài nộp lưu chiểu cho Thư viện Quốc gia 
Việt Nam, việc thu nhận lưu chiểu các xuất 
bản phẩm địa phương cũng đã được nhà 
nước giao cho thư viện tỉnh, thành. Ngay 
từ năm 1957, Bộ Văn hóa ra quy định, các 
xuất bản phẩm của địa phương (trừ Hà Nội) 
vẫn nộp 10 bản lưu chiểu theo Sắc lệnh 18 
nhưng 7 bản trong số đó nộp thẳng cho 
Phòng Lưu chiểu Thư viện Quốc gia Việt 
Nam, 3 bản còn lại nộp cho Sở (Ty) Văn 
hóa để cơ quan này chuyển cho thư viện 
tỉnh thành nhằm làm giầu thêm kho sách 
của thư viện đó và phục vụ bạn đọc [2]. 
Tuy nhiên, Luật Xuất bản năm 1993 và các 
năm tiếp theo đã bãi bỏ quy định này (có 
quy định nộp 2 bản cho sở VHTTDL (sau 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
22 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 6/2017
này là Sở Thông tin - Truyền thông) nhưng 
không quy định chuyển cho thư viện tỉnh, 
thành). Điều đó gây nên rất nhiều khó khăn 
cho bảo tồn xuất bản phẩm ở địa phương. 
Nhiều tài liệu sau khi nộp cho các cơ quan 
quản lý nhà nước về xuất bản, kể cả ở Cục 
Xuất bản, khi có nhu cầu giải phóng kho 
chỉ được chuyển cho thư viện. Điều đó đã 
ảnh hưởng đáng kể tới mục đích lưu giữ 
lâu dài các xuất bản phẩm lưu chiểu. Để 
khắc phục tình trạng này, tại Khoản a Điều 
6 Nghị định 72/2002 của Chính phủ quy 
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện 
năm 2000 đã quy định Sở Văn hoá - Thông 
tin sau khi thu nhận lưu chiểu các xuất bản 
phẩm địa phương theo quy định của Luật 
Xuất bản, có trách nhiệm chuyển giao cho 
thư viện cấp tỉnh mỗi tên tài liệu ít nhất 01 
bản [9, tr.420]. Tiếc rằng có rất ít Sở Văn 
hóa, Thể thao và Du lịch (nay là Sở Thông 
tin và Truyền thông) làm được điều này.
Nhận thấy tính ưu việt của chế độ lưu 
chiểu, những năm gần đây lãnh đạo nhiều 
trường đại học, nhiều cơ sở nghiên cứu lớn 
đã ra quyết định thu nhận và bảo quản lâu 
dài ở dạng giấy và điện tử/số các sản phẩm 
khoa học nội sinh của mình. Với những 
cách làm hợp lý, sáng tạo như vậy, các thư 
viện nước ta sẽ thu thập và bảo quản ngày 
càng đầy đủ hơn di sản thư tịch của dân tộc 
Việt Nam.
Như vậy, công tác lưu chiểu đã có lịch 
sử lâu đời trên thế giới và ở Việt Nam, hoạt 
động mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia 
cũng như cho các thư viện. Tuy nhiên, vẫn 
còn nhiều vấn đề cần giải quyết công tác 
này trong kỷ nguyên số.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 2. - H.: 
NXB từ điển bách khoa, 2002. - Tr. 796.
2. Chỉ thị của Bộ Văn hóa số 599V H/CT ngày 
11/6/1957 về việc nộp lưu chiểu văn hóa 
phẩm//Về công tác thư viện: các văn bản 
pháp quy trong hệ thống thư viện công 
cộng.- H.: Vụ Thư viện, 1997. -tr. 65 - 68..
3. Legal deposit - Wikipedia, the free 
encyclopedia//en.wikipedia.org/wiki/Legal_
deposi. Truy cập ngày 10/5/2016.
4. Luật Liên bang về lưu chiểu tài liệu: được 
Duma quốc gia Nga thông qua ngày 
23/11/1994 (tiếng Nga).
5. Luật Xuất bản số 22-L/CTN ngày 07 tháng 
7 năm 1993
ban/Quyen-dan-su/Luat-Xuat-ban-1993-
22-L-CTN-38479.aspx
6. Luật Xuất bản Số: 30/2004/QH11 ngày 03 
tháng 12 năm 2004//www.moj.gov.vn/vbpq/
lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.
aspx?itemid=18583.
7. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 
xuất bản số 12/2008/QH12 ngày ngày 03 
tháng 6 năm 2008
vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Luat-xuat-ban-
2008-sua-doi-12-2008-QH12-66866.aspx.
8. Luật Xuất bản số 19/2012/QH13 của Quốc 
hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua 
ngày 20 tháng 11 năm 2012 // 
luatxuatban.net/2014/03/luat-xuat-ban-so-
19-2012-QH13.html.
9. Nghị định 72/2002/NĐ-CP ngày 6/8/2002 
của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành 
Pháp lệnh Thư viện//Về công tác thư viện: 
các văn bản pháp quy hiện hành về thư 
viện. - H.: Vụ Thư viện, 2008...
10. Nguyễn Lân. Từ điển từ và ngữ Việt Nam. - 
H.:NXB thành phố Hồ Chí Minh, 2000. - Tr. 
1114. 
11. Sắc lệnh ngày 31/1/1946 “Đặt thể lệ lưu 
chiểu văn hóa phẩm” của Chủ tịch Chính 
phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hòa//
Về công tác thư viện: các văn bản pháp 
quy trong hệ thống thư viện công cộng. - 
H.: Vụ Thư viện, 1997.
12. Talalakina O.I. Lịch sử thư viện nước ngoài: 
giáo trình. - M.: Kniga, 1982.
13. Thực trạng lưu chiểu điện tử ở Pháp, một 
phương thức bổ sung và bảo quản nguồn 
tài liệu này/Trần Mỹ Dung dịch//Tạp chí 
Thư viện Việt Nam, 2013, số 1.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 12-6-2017; 
Ngày phản biện đánh giá: 15-10-2017; Ngày 
chấp nhận đăng: 20-10-2017).

File đính kèm:

  • pdfluu_chieu_va_hoat_dong_thu_vien.pdf