Lý thuyết đại diện vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị

Mục tiêu chính của bài viết nhằm giới thiệu tóm tắt quá trình phát triển của kế toán quản trị

(KTQT), sự phát triển của lý thuyết đại diện, nội dung chính của lý thuyết đại diện, các loại

chi phí phát sinh do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quản lý doanh nghiệp (DN) cùng với

hiện tượng thông tin bất đối xứng và ứng dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu KTQT

pdf 8 trang yennguyen 5380
Bạn đang xem tài liệu "Lý thuyết đại diện vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết đại diện vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị

Lý thuyết đại diện vận dụng trong nghiên cứu kế toán quản trị
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 167
LÝ THUYẾT ĐẠI DIỆN VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU KẾ TOÁN QUẢN TRỊ 
AGENCY THEORY AND USE OF AGENCY THEORY 
IN RESEARCH MANAGEMENT ACCOUNTING 
#NCS. Trần Thị Phương Mai 
Trường Cao đẳng Công nghiệp quốc phòng 
Mục tiêu chính của bài viết nhằm giới thiệu tóm tắt quá trình phát triển của kế toán quản trị 
(KTQT), sự phát triển của lý thuyết đại diện, nội dung chính của lý thuyết đại diện, các loại 
chi phí phát sinh do sự tách rời giữa quyền sở hữu và quản lý doanh nghiệp (DN) cùng với 
hiện tượng thông tin bất đối xứng và ứng dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu KTQT. 
Từ khóa: KTQT, lý thuyết đại diện, thông tin bất đối xứng. 
The main objective of the article is to briefly introduce the development process of 
management accounting, the development of agency theory, the main content of agency 
theory, the types of costs arising from the separation between Ownership and management of 
enterprises along with asymmetric information phenomena and the application of agency 
theory in management accounting research. 
Key words: Management accounting, agency theory, asymmetric information. 
Giới thiệu 
KTQT không còn là một vấn đề mới trong khoa học kế toán ở nước ta. Đã có nhiều 
bài viết, nhiều công trình nghiên cứu đề cập các ứng dụng của KTQT về lập dự toán, tính giá 
sản phẩm - dịch vụ, kiểm soát, đo lường và đánh giá trách nhiệm bộ phận, phân tích thông tin 
để ra quyết định của các loại hình DN khác nhau trong môi trường toàn cầu hóa và hội nhập. 
Song đến nay không có nhiều bài viết nào giải thích cách thức phát triển của KTQT và 
tiếp tục mở rộng nghiên cứu KTQT bằng cách sử dụng lý thuyết đại diện. Mặt khác cho 
chúng ta thấy, sự phát triển của KTQT không phải là ngẫu nhiên mà nó dựa trên yêu cầu của 
thực tiễn. Bên cạnh đó, bài viết cũng tóm tắt quá trình phát triển và nội dung chính của lý 
thuyết đại diện, các loại chi phí phát sinh và việc vận dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu 
KTQT. Thông qua phương pháp tổng hợp một số lý thuyết kinh tế, bài viết này liên hệ ứng 
dụng các lý thuyết đại diện trong lĩnh vực KTQT để có cái nhìn tổng quát về ứng dụng KTQT 
trong thực tiễn. 
1. Phát triển KTQT 
Dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa và xu hướng hội nhâp ngày càng sâu rộng 
lý thuyết KTQT theo cách tiếp cận trước đây đã không còn phù hợp nữa, cách tiếp cận phổ 
biến hiện nay với sự phát triển của KTQT cách tiếp cận phổ biến hiện nay theo quan điểm của 
tác giả Kaplan (1998) và Drury (1996). Lý thuyết của KTQT là dựa trên thực tiễn kinh doanh 
và phục vụ quá trình ra quyết định của nhà quản lý để thực hiện hoạt động sản xuất kinh 
doanh và các hoạt động quản lý. Trong sự phát triển của KTQT, tìm thấy nhiều cột mốc dẫn 
đến sự hình thành của KTQT như ngày nay. Theo Kaplan (1998), KTQT gắn liền với sự ra 
đời của lớn các công ty từ năm 1850 đến năm 1925, dẫn đến nhu cầu thông tin cần thiết cho 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 168 
việc lập kế hoạch và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại thời điểm này, các công ty 
cần thiết để sắp xếp sản xuất, dẫn đến sự gia tăng vai trò của KTQT. Với sự phát triển của 
KTQT đã cung cấp thông tin đánh giá hiệu quả các nhà quản lý và nhân viên của công ty. Sản 
xuất và phân phối hàng loạt cũng ảnh hưởng đáng kể đến khái niệm KTQT, không chỉ cần 
thông tin về quản lý phục vụ lập kế hoạch và kiểm soát ngân sách, để đảm bảo rằng các hoạt 
động khác nhau của các bộ phận khác nhau phù hợp với mục tiêu kinh doanh mà còn cung 
cấp các thông tin phi tài chính. 
Những thay đổi được mô tả đã làm tăng đáng kể sự phát triển của KTQT, vốn đã trở 
thành một phần thiết yếu của công ty. Johnson và Kaplan (1987) kết luận rằng KTQT và kế 
toán tài chính nên được tách ra, vì định hướng khác nhau của thông tin được cung cấp bởi vì 
việc KTQT cung cấp thông tin để sử dụng nội bộ. Ngược lại, kế toán tài chính cung cấp thông 
tin cho người dùng bên ngoài. Kế toán tài chính nên cung cấp thông tin để ghi lại các giao 
dịch và cung cấp dữ liệu cần thiết cho việc lập báo cáo tài chính (BCTC) dành cho chủ sở hữu 
và nhà đầu tư. KTQT nên được sử dụng để đánh giá và thúc đẩy các quy trình nội bộ của công 
ty hơn là chỉ đo lường lợi nhuận. 
Trong những năm gần đây, môi trường kinh doanh đã trải qua những thay đổi đáng 
kể. KTQT phải đáp ứng với sự phát triển này. Những thay đổi trong môi trường kinh doanh 
như suy thoái của các rào cản đối với sự chuyển động của lao động và vốn, phát triển công 
nghệ, phát triển công nghệ thông tin góp phần cạnh tranh càng mạnh. Câu hỏi cơ bản mới 
không phải là sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất để làm gì? Mà kết quả là cần phải 
thay đổi KTQT, để nó có thể đáp ứng những mới yêu cầu đáp ứng nhu cầu của khách hàng và 
sự phát triển lâu dài của DN. 
KTQT truyền thống tập trung vào các kết quả tài chính và vẫn còn quên lãng các chỉ 
số phi tài chính khác, chẳng hạn như: Mối quan hệ khách hàng, lòng trung thành của khách 
hàng, động lực của nhân viên và lòng trung thành của nhân viên. Nó là phát triển các chỉ số 
phi tài chính và cho môi trường kinh doanh bên ngoài (nhà cung cấp, khách hàng, đối thủ 
cạnh tranh), áp đặt các yêu cầu mới về hệ thống quản lý và KTQT hỗ trợ thông tin trong bối 
cảnh mới. 
Nhìn chung, KTQT có thể chia thành 4 giai đoạn: Ở giai đoạn 1, KTQT được xem là 
một hoạt động đơn thuần mang tính chất kỹ thuật, nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. 
Sang giai đoạn 2, KTQT được xem như một hoạt động quản lý nhưng ở vai trò nhân viên 
thừa hành, hỗ trợ cho các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị thông qua việc cung cấp thông tin 
cho mục đích hoạch định và kiểm soát. Ở giai đoạn 3 và 4, KTQT đã trở thành một bộ phận 
gắn liền với hoạt động quản lý, các thông tin được cung cấp tức thời cho người quản lý. Mục 
tiêu của KTQT ngày nay là tạo thêm giá trị cho đơn vị thông qua việc sử dụng nguồn lực tốt 
nhất. Các giá trị bao gồm: Giá trị cho sản phẩm, dịch vụ của đơn vị phục vụ khách hàng; Giá 
trị cho cổ phiếu của đơn vị trên thị trường chứng khoán. 
Tóm lại: Để phục vụ cho các mục tiêu của nhà quản lý, KTQT hiện đại đã phát triển 
các công cụ và kỹ thuật phù hợp. Theo đó, các công cụ này bao gồm: Công cụ hỗ trợ cho việc 
hiểu biết thị trường; Công cụ cho kế hoạch chiến lược; Công cụ đánh giá kết quả; Công cụ 
quản lý và phát triển tri thức. Như vậy, có thể thấy hiện nay KTQT ở các nước tiên tiến đã 
phát triển vượt xa khỏi hình thái ban đầu của nó là hệ thống dự toán ngân sách, nhằm phục vụ 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 169
cho việc kiểm soát chi phí. KTQT ngày nay đã có những bước tiến rất xa trong những năm 
cuối thế kỷ 20 để trở thành một bộ phận không thể tách rời của quản trị DN. KTQT hiện đại 
đã chuyển sang một hình thái mới, hình thái phát triển tầm nhìn chiến lược đi kèm với sự hỗ 
trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin. 
Theo xu thế phát triển chung, KTQT vào Việt Nam ban đầu với hình thái hệ thống lập 
kế hoạch (dự toán ngân sách) và quản trị chi phí. Phương pháp lập kế hoạch đã bắt đầu sơ 
khai từ sau những năm 1985, tuy nhiên bước đầu còn đơn giản và thiếu chính xác. Sau khi 
kinh tế tư nhân phát triển thì việc lập kế hoạch phục vụ cho nhu cầu hoạch định của DN mới 
được phát triển rầm rộ. Phương pháp lập kế hoạch ở nhiều DN cũng khác nhau. Qua quá trình 
phát triển từ đó đến nay, KTQT tại Việt Nam hiện vẫn chỉ dừng lại ở khâu lập kế hoạch và 
quản trị chi phí, chưa tạo ra giá trị tăng thêm cho DN. 
2. Sự phát triển của lý thuyết đại diện 
Nguồn gốc hình thành của lý thuyết đại diện đến nay chưa có sự thống nhất từ các nhà 
nghiên cứu, theo dòng thời gian và từ các tài liệu tổng hợp tác giả tóm tắt quá trình phát triển 
của lý thuyết đại diện. 
Adam Smith trong tác phẩm The Wealth of Nations đã dự đoán rằng nếu một tổ chức 
được quản lý bởi một người hoặc một nhóm người không phải là chủ sở hữu thực, thì có khả 
năng họ không thể làm việc vì lợi ích của chủ sở hữu. Ông có lẽ là tác giả đầu tiên nghi ngờ 
sự hiện diện của vấn đề đại diện và kể từ đó nó đã là một yếu tố thúc đẩy cho các nhà kinh tế 
học canh tác các khía cạnh của lý thuyết đại diện. Tiếp theo, Berle and Means 1932, trong 
nghiên cứu luận án của mình đã sau đó đã lập luận rằng, các đại lý có thể sử dụng tài sản của 
công ty cho mục đích riêng của họ, điều này sẽ tạo ra xung đột giữa các chủ sở hữu và người 
được ủy quyền. 
Nghiên cứu Arrow 1971, Wilson 1968 về vấn đề chia sẻ rủi ro giữa các bên và các tổ 
chức họ thấy rằng, có những cá nhân và nhóm trong công ty có khả năng chịu rủi ro khác 
nhau và hành động của họ khác nhau. Chủ sở hữu, những người đầu tư vốn có được những lợi 
ích kinh tế trong công ty có thể chịu rủi ro bởi vì các đại diện hay người quản lý công ty cũng 
luôn mong muốn tối đa hóa lợi ích cá nhân. Cả ủy quyền và người được ủy quyền đều có 
những ưu tiên rủi ro đối lập và vấn đề của họ, trong việc chia sẻ rủi ro tạo ra xung đột về lý 
thuyết đại diện. 
Trong nghiên cứu của Ross và Mitnick về lý thuyết diện, tác giả đã đưa ra hai phương 
pháp tiếp cận khác nhau trong các nghiên cứu của họ. Ross coi vấn đề của người đại diện là 
vấn đề ưu đãi, trong khi Mitnick coi vấn đề xảy ra do cấu trúc thể chế, nhưng ý tưởng trung 
tâm đằng sau lý thuyết của họ là tương tự. Ross đã xác định vấn đề tác nhân chính là kết quả 
của quyết định bồi thường và cho rằng vấn đề không chỉ giới hạn trong công ty, mà nó còn 
chiếm ưu thế trong xã hội nữa. Cách tiếp cận thể chế của Mitnick đã giúp phát triển các logic 
của lý thuyết đại diện và nó có thể được thiết kế để hiểu hành vi của các bên. Lý thuyết của 
ông tuyên truyền rằng các tổ chức được xây dựng xung quanh mối quan hệ giữa người đại 
diện và người ủy quyền đại diện. 
Trong nghiên cứu Alchian and Demsetz (1972); Jensen and Meckling (1976) đã định 
nghĩa một công ty như là một tập hợp các hợp đồng giữa các yếu tố sản xuất. Họ mô tả rằng 
các công ty là những tổ chức pháp lý, nơi một số mối quan hệ hợp đồng tồn tại giữa những 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 170 
người tham gia vào công ty. Quan hệ đại diện cũng là một loại hợp đồng giữa người sở hữu 
và người đại diện, nơi cả hai bên làm việc vì lợi ích của họ dẫn đến xung đột lợi ích. Trong 
bối cảnh này, những người sở hữu thực hiện các hoạt động giám sát khác nhau để hạn chế các 
hành động của các đại diện để kiểm soát chi phí đại diện. Trong hợp đồng đại diện chính, cơ 
cấu khuyến khích, thị trường lao động và bất đối xứng thông tin đóng một vai trò quan trọng 
và những yếu tố này đã giúp xây dựng lý thuyết về cơ cấu sở hữu. 
Tiếp theo đó là nghiên cứu của Jensen và Meckling (1976) miêu tả công ty là một hộp 
đen, hoạt động để tối đa hóa giá trị và lợi nhuận của nó. Tối đa hóa sự giàu có có thể đạt được 
thông qua một sự phối hợp và làm việc theo nhóm phù hợp giữa các bên liên quan trong công 
ty. Tuy nhiên, sự quan tâm của các bên khác nhau, xung đột lợi ích phát sinh, và nó chỉ có thể 
bị hạn chế thông qua quyền sở hữu và kiểm soát quản lý. Các bên cũng hiểu rằng lợi ích của 
họ chỉ có thể được thỏa mãn nếu công ty tồn tại. 
Fama and Jensen (1983) đã thực hiện một nghiên cứu về quá trình ra quyết định và 
những người yêu cầu bồi thường. Họ tách riêng quy trình ra quyết định của công ty thành hai 
loại như quyết định quản lý và quyết định kiểm soát, nơi các đại diện là những người chơi chủ 
chốt trong quá trình này. Trong các DN không phức tạp, việc quyết định quản lý và quyết 
định kiểm soát đều giống nhau nhưng ở các công ty phức tạp, cả hai đều tồn tại. Trong những 
công ty phức tạp đó, vấn đề của đại diện phát sinh trong quá trình ra quyết định quản lý bởi vì 
những người ra quyết định khởi xướng và thực thi quyết định của công ty không phải là vì lợi 
ích thực sự mang của người ủy quyền, do đó cần thiết kiểm soát đối với người đại diện. 
Trong năm 1983 Grossman và Hart đã đưa ra một câu chuyện thú vị, về sự khác biệt 
về sở thích rủi ro giữa bên ủy nhiệm và các đại diện. Họ giải thích rằng, việc tiêu thụ của bên 
ủy nhiệm bị ảnh hưởng bởi các hành động của đại diện. Mức độ nỗ lực của đại diệ ảnh hưởng 
đến đầu ra của các công ty, nơi các bên ủy nhiệm mong muốn mức độ nỗ lực cao hơn từ các 
đại diện. Do đó, bên ủy nhiêm nên thương mại hóa hành vi của đại diện với một cơ cấu thanh 
toán thích hợp, mà họ đã sử dụng một mô hình thuật toán để tìm ra một cơ cấu khuyến khích 
tối ưu. Cơ cấu khuyến khích bị ảnh hưởng bởi thái độ của các đại diện đối với rủi ro và chất 
lượng thông tin do các chủ sở hữu không có cơ chế khuyến khích phù hợp. Bên cạnh đó có rất 
nhiều công trình về sau ứng dụng nghiên cứu lý thuyết đại diện trong các lĩnh vực khác nhau, 
chính trị, kinh tế, tài chính. 
Mặc dù lý thuyết cơ quan là rất phổ biến, nó vẫn bị hạn chế khác nhau và điều này đã 
được ghi nhận bởi nhiều tác giả như Eisenhardt (1989), Daily et al (2003). Lý thuyết giả định 
một thỏa thuận hợp đồng giữa chủ sở hữu và người đại diện. Lý thuyết đại diện phải đối mặt 
với nhiều trở ngại như thông tin bất đối xứng, tính hợp lý, gian lận và chi phí giao dịch. Lợi 
ích của cổ đông trong công ty chỉ là để tối đa hóa lợi nhuận của họ, nhưng vai trò của họ bị 
hạn chế trong công ty. 
3. Nội dung của lý thuyết đại diện 
Theo lý thuyết này, quan hệ giữa các cổ đông, chủ sở hữu (bên ủy nhiệm) và người 
quản lý (bên được ủy nhiệm) thực hiện một số công việc đại diện cho bên được nhiệm thông 
qua hợp đồng, cả hai bên đều tối đa hóa lợi ích của mình. Các hợp đồng được cho là được 
đảm bảo thực thi bởi các quy định của pháp luật, các hợp đồng được cho là toàn diện và chỉ rõ 
ác hành động cần phải thực hiện cụ thể hóa bởi các bên tham gia hợp đồng. Nhưng thực tế 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 171
luôn có sự xung đột về lợi ích giữa hai bên, đó là bên ủy nhiệm hay chủ sở hữu vốn với bên 
được ủy nhiệm là các nhà quản lý. Người chủ sở hữu quan tâm đến giá trị công ty, giá cổ 
phiếu còn các nhà quản trị quan tâm đến lợi ích của họ (lương, thưởng, phụ cấp và các nguồn 
thu khác). Điều quan trọng là, làm sao cho bên ủy nhiệm hành xử theo hướng tối đa hóa lợi 
ích của bên ủy nhiệm và điều đó làm phát sinh chi phí ủy nhiệm (agency costs). Chi phí này 
chính là số tiền mà bên ủy nhiệm mất đi do sự tách rời lợi ích của họ với lợi ích của bên được 
ủy nhiệm. Các chi phí đại diện bao gồm bao gồm ba loại đó là: Chi phí giám sát (monitoring 
costs); Chi phí liên kết (bonding costs); Các chi phí khác (residual costs). 
Chi phí giám sát là chi phí mà bên ủy nhiệm bỏ ra để giám sát hành vi của bên được 
ủy nhiệm, nhằm để họ phục vụ lợi ích cho bên ủy nhiệm. Trong DN, chi phí này chính là chi 
phí kiểm toán theo luật định, chi phí duy trì các hoạt động kiểm soát và báo cáo..., chi phí này 
được tính vào chi phí hoạt động của công ty làm lợi nhuận DN giảm sẽ dẫn đến lợi ích của 
các cổ đông và bên ủy nhiệm giảm. Nhưng cuối cùng, bên được ủy nhiệm phải chịu chi phí 
giám sát thông qua sự bảo vệ bằng giá của bên ủy nhiệm được ràng buộc trong hợp đồng, tức 
là bên ủy nhiệm sẽ tự điều chỉnh số tiền họ trả cho bên được ủy nhiệm, đối với nhà quản lý có 
ít kinh nghiệm hoặc chưa có uy tín các cổ đông sẽ trả lương và thưởng ít hơn để bù lại chi phí 
giám sát mà họ phải bỏ ra tăng lên. 
Chi phí liên kết là chi phí để thiết lập và duy trì một cơ chế, nhằm bảo đảm người 
được ủy nhiệm đại diện cho quyền lợi của người ủy nhiệm. Để hạn chế chi phí giám sát mà 
bên được ủy nhiệm phải chịu thông qua sự bảo vệ bằng giá, các nhà quản lý có thể thiết lập 
một cơ chế đảm bảo rằng họ sẽ hành xử vì lợi ích của bên ủy nhiệm. Người được ủy nhiệm 
hay nhà quản lý có thể tự nguyện cung cấp báo cáo tài chính cho bên ủy nhiệm (các cổ đông) 
hoặc cam kết không tiết lộ thông tin cho bên ngoài,... những chi phí phát sinh do hành động 
này được gọi là chi phí liên kết. Chi phí này do bên được ủy nhiệm phải chịu đó là các chi 
phí: Thời gian và công sức bỏ ra cho các báo cáo quý, những giới hạn trong hoạt động quản lý 
vì phải báo cáo thông tin minh bạch, các khoản thu nhập mất đi do không được tiến hành các 
hoạt động hợp tác với bên ngoài.... Nhưng các nhà quản lý chỉ chấp nhận chi phí liên kết này 
trong phạm vi chi phí này giảm được chi phí giám sát mà họ đang gánh chịu. Khi chi phí liên 
kết tăng lên bằng hoặc lớn hơn mức giảm xuống của chi phí giám sát, các nhà quản lý có thể 
chấm dứt không chấp nhận chi phí liên kết. 
Chi phí khác là việc giảm lợi ích của bên ủy nhiệm ngay cả khi có cả chi phí giám sát 
và chi phí liên kết, hành vi của người được ủy nhiệm cũng không hoàn toàn vì lợi ích của 
người ủy nhiệm. 
Theo Stanley Baiman (1990) Lý thuyết địa diện bao gồm 3 nhánh nghiên cứu chính: 
Nhánh nghiên cứu thứ nhất: Lý thuyết về Người ủy quyền – Người đại diện: Đây là 
hướng nghiên cứu được xem là nền tảng cho các nghiên cứu về kế toán. Mô hình dựa trên 
hành vi hợp lý của các cá nhân và giả định rằng chúng có thể dự đoán và đánh giá xác suất 
của các tình huống trong tương lai. Các hành động của các cá nhân trong mô hình được sinh 
ra từ nội sinh dựa trên các sở thích và niềm tin được chỉ định. Từ các cá nhân, chúng tôi hy 
vọng rằng họ sẽ hành động chính xác theo cách riêng của họ sở thích. Hợp đồng được hoàn 
thành theo nghĩa là đối với mỗi sự kiện, họ cho biết các hành động sẽ được xác định bởi hợp 
đồng các bên. Mô hình này hy vọng tính hợp lý hoàn hảo của các quyền hợp đồng. 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 172 
Nhánh nghiên cứu thứ 2: Lý thuyết về chi phí giao dịch kinh tế: Mô hình giả định rằng 
các cá nhân đang hành động vì lợi ích riêng của họ. Điều này có thể được mô tả là cơ hội 
hành vi cá nhân không phải lúc nào cũng hành xử theo các quy tắc, nhưng họ thích lợi ích 
riêng của họ. Mô hình cung cấp giải thích về mối quan hệ bất thường giữa các công ty đang 
cố gắng xây dựng hoặc sử dụng quyền lực độc quyền. Phân tích dựa trên mô hình cho thấy 
một số mối quan hệ này có thể là do mong muốn giảm thiểu chi phí giao dịch. 
Nhánh nghiên cứu thứ 3: Lý thuyết Rochester: Dựa trên nghiên cứu của Jensen & 
Meckling năm 1976: Mô hình này rất giống với mô hình kinh tế chi phí giao dịch cũng đề cập 
đến hành vi cơ hội và chi phí giao dịch. Tuy nhiên, dựa trên lý thuyết kế toán tích cực (Watts 
và Zimmerman, 1986). Một lợi ích của mô hình Rochester là một khuôn mẫu được áp dụng 
cho vấn đề của người đại diện và mục đích của nó là để hiểu cách vấn đề của người đại diện 
xảy ra và làm thế nào nó có thể được giảm thiểu bởi cơ cấu tổ chức. Nghiên cứu dựa trên mô 
hình tích cực của Rochester, có khuynh hướng xác định các tình huống trong đó có sự khác 
biệt về quyền lợi giữa chủ sở hữu và người đại diện qua đó đánh giá tính hiệu quả về chi phí 
trong việc thiết lập cơ chế kiểm soát. 
Cả ba mô hình đều cung cấp một khung nghiên cứu tương tự để phân tích hành vi của 
các cá nhân trong bối cảnh kinh tế. Để hiểu được những tổn thất do lợi ích khác nhau của bên 
và phân tích hậu quả của các quá trình kiểm soát khác nhau, để giảm thiểu sự các hậu quả do 
vấn đề của nhà quản lý gây ra. 
4. Vận dụng lý thuyết đại diện trong nghiên cứu KTQT 
Roirdan (1987) lưu ý rằng, vai trò và giá trị của KTQT sẽ khác nhau tùy thuộc vào 
việc vận dụng lý thuyết đại diện. Cần tiếp tục được đánh giá cao rằng bên cạnh những người 
đại diện ngay cả chủ sở hữu cũng có thể cư xử một cách cơ hội nếu họ có cơ hội. Tuy nhiên, 
hầu hết các nghiên cứu về lý thuyết đại diện giả định rằng các quyết định của chủ sở hữu 
(người ủy quyền) là có thể kiểm chứng và có thể được ký hợp đồng, do đó không phải chịu rủi 
ro đạo đức. 
Nghiên cứu về KTQT tập trung đáng kể vào đánh giá hiệu suất và các vấn đề liên 
quan sự kiểm soát của công ty. Điều này bao gồm các ưu đãi quản lý và hành vi của bên ủy 
nhiệm và người đại diện, chủ sở hữu cũng thiết kế hệ thống giám sát hành vi của nhà quản 
lý. Chủ sở hữu phải quyết định số tiền đầu tư vào quy trình sản xuất và bao nhiêu cho hệ 
thống giám sát. Kumar (1989) thấy rằng, nếu chủ sở hữu đầu tư rất nhiều trong quá trình sản 
xuất, sau đó công ty sẽ đầu tư vào một hệ thống giám sát để giảm bớt vấn đề của người đại 
diện. 
Lý thuyết đại diện cũng áp dụng cho các mối quan hệ giữa các tổ chức và cố gắng giải 
thích mối quan hệ giữa chúng (Hopper, 2007). Một điều kiện tiên quyết quan trọng là sự 
không hoàn hảo của các hợp đồng, không thể kết hợp tất cả các dự phòng tương lai trong hợp 
đồng. Lý thuyết đại diện giải thích sự thiếu hiệu quả trong quan hệ giữa các công ty, đó là kết 
quả của thông tin bất đối xứng và cơ hội. Thông tin bất đối xứng trong trường hợp này có 
nghĩa là, một công ty có thông tin có thể được sử dụng đối với một công ty khác mà anh ta có 
mối quan hệ hợp đồng. Để loại bỏ thông tin bất đối xứng giữa các DN, sẽ tốt hơn để thúc đẩy 
trao đổi thông tin. Để quản lý mối quan hệ giữa các tổ chức cũng cần thiết để cung cấp các 
khuyến khích các công ty hành xử một cách hợp lý. Cải thiện trao đổi thông tin dẫn đến hiệu 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 173
quả cao hơn trong chuỗi cung ứng. Các nhà cung cấp và khách hàng có thể dễ dàng xác định 
mức giảm chi phí. Thông tin có thể được trao đổi ví dụ bằng cách sử dụng chi phí mục tiêu, 
các biện pháp thực hiện hoặc phỏng vấn. 
Bằng cách kết hợp lý thuyết đại diện và KTQT, rõ ràng nhu cầu ngày càng tăng đối 
với các công cụ giám sát hành vi của người quản lý. Ngoài ra, đó cũng là một yêu cầu để kiểm 
soát và giám sát chi phí quản lý. Đối với DN, cần cân bằng chi phí giám sát và lợi ích. Lý 
thuyết đại lý cung cấp mô tả về hành vi của người quản lý, tác động trực tiếp đến giá trị của 
thông tin trong quản lý kế toán. Thu thập thông tin trong KTQT không phải là không có chi 
phí của việc mua lại này, từ quan điểm này, chúng ta phải xem xét nơi thông tin này được sử 
dụng và giá trị của chúng cho công ty là gì. Các thông tin thu được sẽ tiết lộ trình quản lý 
hành vi của đại diện (agent) trong một DN. Nếu thông tin của KTQT không thể tiết lộ hành vi 
cơ hội này dựa trên lý thuyết đại diện, nhà quản lý đã chi tiêu chi phí không hiệu quả và là 
một sự lãng phí của các công ty tài nguyên. Lợi ích của lý thuyết đại diện là nó giúp DN sử 
dụng các kỹ thuật trong KTQT. 
Lý thuyết đại diện giải thích vì sao phải áp dụng hệ thống kế toán trách nhiệm trong 
DN và đối với các công ty cổ phần, công ty niêm yết hệ thống KTQT cần cung cấp những 
thông tin gì để đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư và các cổ đông. Đặc biệt là, trong điều kiện 
Việt Nam khi mà chưa có một thị trường chứng khoán phát triển hoàn chỉnh thì các thông tin 
KTQT DN cung cấp chính xác và đầy đủ thực sự có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. 
Lý thuyết đại diện cũng là cơ sở để xây dựng các báo cáo nội bộ trong DN, các báo 
cáo đánh giá trách nhiệm phù hợp với hệ thống phân quyền trong các DN Việt Nam. 
5. Kết luận 
Bài viết này tóm tắt sự phát triển của KTQT với sự nhấn mạnh vào những thay đổi 
đáng kể mà đã định hình khái niệm này cho sự xuất hiện hiện tại. Toàn cầu hóa và tự do hóa 
dẫn đến tăng cạnh tranh và các công ty yêu cầu thông tin quản lý đảm bảo chất lượng và kịp 
thời. Tổ chức mới được tạo cấu trúc đòi hỏi những thay đổi trong thực tiễn quản lý và một hệ 
thống KTQT linh hoạt. Đưa ra những thay đổi trong môi trường kinh doanh, KTQT phải có 
khả năng cung cấp thông tin phản hồi chính xác và đáng tin cậy về sự thành công hoặc thất 
bại tương đối trong chiến lược DN. 
Lý thuyết đại diện được dựa trên giả định rằng các cá nhân được hợp lý hóa, trong khi 
ưu tiên lợi nhuận của chính họ trước công ty. Lý thuyết đại diện mô tả một vấn đề mà các nhà 
quản lý đã quan sát thấy trong các công ty cổ phần khi mà quyền sở hữu và quyền quản lý 
tách rời nhau dẫn đến bất cân xứng về thông tin giữa các bên. Lợi ích quan trọng của lý thuyết 
đại diện trong khái niệm KTQT cũng là ứng dụng trong lĩnh vực đo lường hiệu suất, hệ thống 
thưởng, kiểm soát và quản lý trong phân tích chi phí liên quan.‡ 
------------------------------ 
Tài liệu tham khảo 
1. Adams, J. (1996). Principals and agents, colonialists and company men: The decay of colonial control in the 
Dutch East Indies. American Sociological Review, 61(1), 12–28. Google Scholar, Crossref, ISI 
2. Agrawal, A., Knoeber, C. R. (1996). Firm performance and mechanisms to control agency problems between 
managers and shareholders. Journal of Financial and Quantitative Analysis, 31(3), 377–397. Google 
Scholar, Crossref, ISI 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 174 
3.Ahmed, A. (2009). Managerial ownership concentration and agency conflict using logistic regression 
approach: Evidence from Bursa Malaysia. Journal of Management Research, 1(1), 1–10. Google Scholar 
4.Arrow, K. (1971). Essays in the theory of risk bearing. Chicago, IL: Markham. Google Scholar 
5.Barnea, A., Haugen, R. A., Senbet, L. W. (1985). Agency problems and financial contracting. New 
Jersey: Prentice Hall Inc. Google Scholar 
6. Christopher S. Chapman, Anthony G. Hopwood and Michael D. Shields (2007), "Psychology Theory in 
Management Accounting Research". Handbook of Management Accounting Research Elsevier Ltd. All rights 
reserved. 
7.Fama, E. (1980). Agency problems and the theory of the firm. Journal of Political Economy, 88(2), 288–
307. Google Scholar, Crossref, ISI 
8. Maleen Z.Gong, Michael S.C.Tse (2009), “Pick, Mix or Match? A Discussion of theories for Management 
Acounting reseach”, Journal of Accounting – Business and Management Vol.16 No.2 (2009) P54-66. 
9. Jacob G. Birnberg, Joan Luft and Michael D. Shields (2007), "Agency Theory and Management Accounting", 
Handbook of Management Accounting Research Elsevier Ltd. All rights reserved. 
10. Jesmin Islam1 and Hui Hu (2012), "A review of literature on contingency theory in managerial accounting", 
Journal of Accounting. Business & Management vol.19 no. 2, P. 44-58 
---------------------------- 

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_dai_dien_van_dung_trong_nghien_cuu_ke_toan_quan_tr.pdf