Mô hình tính giá đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm
Tại các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm là một trong những công cụ hữu hiệu nằm trong hệ thống quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin hữu ích về tình hình tài sản cố định của doanh nghiệp trên nhiều góc độ khác nhau. Dựa trên những thông tin ấy, các nhà quản lý sẽ có được những phân tích chuẩn xác để ra quyết định kinh doanh phù hợp. Chính vì vậy, hiểu rõ về đặc điểm kế toán tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong hoạt động sản xuất nông nghiệp để tiến hành ghi nhận và đo lường nhằm đáp ứng nhu cầu người sử dụng thông tin là công việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay
Bạn đang xem tài liệu "Mô hình tính giá đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình tính giá đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 144 - tháng 10/2019 moâ HìnH tÍnH giaù ñoái vôùi taøi saûn coá ñònH laø caây laâu naÊm, suùc vaät laøm vieäc vaø cHo saûn pHaåm ThS. NGUYỄN HồNG NGA* *Khoa Kế toán Kiểm toán - Trường Đại học Thương mại Tại các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm là một trong những công cụ hữu hiệu nằm trong hệ thống quản lý tài sản cố định của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin hữu ích về tình hình tài sản cố định của doanh nghiệp trên nhiều góc độ khác nhau. Dựa trên những thông tin ấy, các nhà quản lý sẽ có được những phân tích chuẩn xác để ra quyết định kinh doanh phù hợp. Chính vì vậy, hiểu rõ về đặc điểm kế toán tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong hoạt động sản xuất nông nghiệp để tiến hành ghi nhận và đo lường nhằm đáp ứng nhu cầu người sử dụng thông tin là công việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Cây lâu năm; giá gốc; giá trị hợp lý; tài sản cố định; sản xuất nông nghiệp; súc vật làm việc và cho sản phẩm. The pricing model for fixed assets which are long-lived working animals and long-lived farm plant In agricultural production enterprises, fixed assets which are long-lived working animals and long-lived farm plant are one of the effective tools in the enterprise’s fixed asset management system which provides useful information about the situation of fixed assets of businesses on many different angles. Based on this information, managers would have accurate analysis to make appropriate business decisions. Therefore, understanding the characteristics of accounting for fixed assets that are long-lived working animals and long-lived farm plant in agricultural production activities for recording and measuring to meet users’ needs ofusing this information is an urgent task at the present period. Key words: Long-lived working animals and long-lived farm plant; historical cost; fair value; fixed assets; agricultural production. 1. Đặt vấn đề Ở Việt Nam, hiện nay chuẩn mực kế toán về nông nghiệp chưa có, nên việc hạch toán trong các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp về cơ bản được quy định trong chế độ kế toán theo TT200/2014/ TT-BTC hay trong Thông tư 24/2010/TT-BTC áp dụng cho các hợp tác xã. Tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm chịu sự chi phối của chuẩn mực tài sản cố định hữu hình (VAS 03) và Thông tư 45/2013/TT-BTC. Nhìn chung trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam đều quy định giá trị ban đầu của tài sản ghi nhận theo giá gốc và chỉ được đánh giá lại khi có quy định của Nhà nước. Mặt khác, hiện nay ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam cũng không đánh giá lại giá trị tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm tại thời điểm lập báo cáo tài chính của những kỳ kế toán sau khi tài sản được ghi nhận. Tuy nhiên, không giống như những loại tài sản khác, các loại vật nuôi, cây trồng chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên và giá trị có thể tăng lên hay giảm xuống NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 144 - tháng 10/2019 theo thời gian, do vậy nếu không đánh giá lại giá trị thì không phản ánh đúng thực tế. Tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong hoạt động sản xuất nông nghiệp có những tính chất và đặc điểm hoàn toàn khác so với tài sản trong các hoạt động sản xuất khác nên việc sử dụng giá gốc là không phù hợp. Trong xu thế hội nhập và tiếp cận với chuẩn mực kế toán quốc tế, kế toán theo nguyên tắc giá gốc sẽ dần bị thay thế bởi kế toán theo giá trị hợp lý. Do vậy, việc xác định tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm theo giá trị hợp lý sẽ phản ánh đầy đủ và trung thực hơn khi các tài sản này thường xuyên có sự biến động. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Đối với tài sản cố định trong lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể là cây trồng sống (bearer plant), động vật sống (bearer animal) là các tài sản dài hạn. Về bản chất chúng là một nội dung trong tài sản sinh học (biological asset), việc đo lường các tài sản này tương tự như việc đo lường đối với tài sản sinh học. Việc đo lường tài sản nông nghiệp theo mô hình giá trị hợp lý đã được quy định trong chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS 41 - Nông nghiệp) và được áp dụng chính thức vào tháng 1/2003. Đó là sự thay đổi đáng kể đối với phương pháp đo lường trước dựa trên cơ sở giá gốc. Theo Elad, Herbohn (2011) có một số mô hình tính giá để xác định giá trị cho các tài sản sinh học. Việc sử dụng các mô hình giá khác nhau có thể dẫn đến sự khác biệt về thu nhập trong ngành nông nghiệp trên toàn thế giới, và theo các chuyên gia kế toán, IAS 41 yêu cầu cần phải xác định được giá trị hợp lý (Burnside, Schiller, 2005, Elad, Herbohn, 2011). Argilés & cộng sự (2011) đã phát triển một nghiên cứu thực nghiệm so sánh các trang trại của Tây Ban Nha sử dụng giá gốc và giá trị hợp lý trong việc đo lường tài sản sinh học, kết quả cho thấy không có sự khác biệt về đánh giá các dòng tiền trong tương lai. Việc đo lường giá trị hợp lý cho tất cả các loại tài sản sinh học ở tất cả các giai đoạn phát triển đã bị chỉ trích vì E65 - Nông nghiệp được ban hành. Damian (2014) cho rằng biện pháp kế toán duy nhất cho cả tài sản sinh học là không phù hợp, đặc biệt là đo lường giá trị hợp lý đối với tài sản TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 144 - tháng 10/2019 sinh học trưởng thành không còn phải trải qua quá trình chuyển đổi sinh học. Điều này đã kích hoạt quan điểm cho rằng hoạt động này tương tự như hoạt động sản xuất và do đó phải được hạch toán như bất động sản, nhà xưởng và thiết bị, theo IAS 16, do đó cho phép sử dụng mô hình chi phí. Theo Amen (2000), không có sự khác biệt giữa tài sản sinh học và các tài sản khác như máy móc theo quan điểm lý thuyết. Do đó, các tài sản sinh học phải được đo bằng cùng một cách như tài sản, nhà máy và thiết bị. Amen (2000) cho rằng tài sản sinh học và nông sản có thể được đo bằng giá trị hợp lý nếu một thị trường đang hoạt động tồn tại. CIMA (2000) đã không xem xét các tài sản sinh học đủ khác với các loại tài sản khác để biện minh cho cách tiếp cận duy nhất này, đặc biệt khi có rất nhiều khó khăn thực tế trong các giá trị thị trường liên quan đến các cây trồng hoặc vật nuôi chưa trưởng thành. Tài sản sinh học như bất kỳ tài sản khác sẽ được đo lường và định giá theo nguyên tắc đã được xác lập, giá trị thấp hơn hoặc có thể thực hiện được. Hoffman, Schneider, Dangerfield (2000) bình luận với E65 việc xác định giá trị hợp lý cho tài sản sinh học thường không đáng tin cậy. Theo Elad (2004), đây là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, không chỉ vì nó quy định mô hình kế toán hợp lý đầy đủ cho các thực thể nông nghiệp, nhưng sự thay thế cho mô hình giá gốc đang gây ra một loạt các vấn đề lý thuyết và thực tiễn ảnh hưởng việc áp dụng nó trên toàn thế giới. 3. Cơ sở lý thuyết * Phân loại tài sản cố định trong lĩnh vực nông nghiệp Để có thể phân loại tài sản cố định trong hoạt động nông nghiệp cần nghiên cứu đặc điểm hoạt động nông nghiệp theo quy định của Chuẩn mực Kế toán quốc tế về nông nghiệp (IAS 41) Tài sản sinh học (biological asset): Là cây trồng và vật nuôi. Cây trồng có thể bao gồm các loại cây ngắn ngày (còn gọi là cây hằng năm) và cây dài ngày (còn gọi là cây lâu năm). Cụ thể cây ngắn ngày như cây lương thực (lúa, ngô, khoai, sắn); cây thực phẩm (rau, đậu); cây công nghiệp ngắn ngày (lạc, bông, đay, cói, sả, dâu tằm...); cây phân xanh, cây làm thức ăn gia súc và các loại cây hằng năm khác. Các loại cây dài ngày như chè, cà phê, cao su, hồ tiêu, cam, bưởi, chanh, quýt... Vật nuôi bao gồm gia súc (trâu, bò, lợn, dê, cừu...); gia cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng, chim cút...) và thủy hải sản (tôm, cua, cá...). Tài sản sinh học bao gồm tài sản tiêu dùng và tài sản sản xuất. Tài sản tiêu dùng là tài sản sinh học được thu hoạch dưới hình thức sản phẩm nông nghiệp hoặc để bán dưới dạng tài sản sinh học. Tài sản tiêu dùng tạo ra doanh thu chỉ khi tài sản này được thu hoạch hoặc giết mổ đồng thời nó cần thỏa mãn các tiêu chuẩn của hàng tồn khi như vườn trái cây ăn quả, trại heo nuôi lớn để giết mổ bán thịt... Biến đổi sinh học (biological transformation): Là quá trình tăng trưởng, suy thoái, sản xuất và sinh sản mà tạo ra các thay đổi về chất lượng hoặc số lượng trong tài sản sinh học. Biến đổi sinh học là một sự thay đổi tự nhiên của tài sản sinh học. Nó bao gồm sự phát triển của động vật, thực vật, giảm sản lượng do tuổi tác, bệnh tật hoặc tạo ra thêm các tài sản sinh học khác. Tài sản thay đổi thông qua tăng trưởng (gia tăng về số lượng hoặc nâng cao chất lượng của vật nuôi và cây trồng), suy thoái (giảm sút về số lượng hoặc suy giảm chất lượng của vật nuôi và cây trồng), hoặc sinh sản (tạo ra thêm cây trồng và vật nuôi). Như vậy, tài sản cố định trong lĩnh vực nông nghiệp về bản chất là các cây trồng sống (bearer plant), động vật sống (bearer animal), chúng đều thuộc phạm vi của tài sản sinh học (biological asset) nên tất cả những đặc điểm liên quan đến khả năng thay đổi, biến đổi sinh học đều ảnh hưởng đến việc ghi nhận và đo lường đối với các tài sản này. Do đó, những thay đổi về mặt lượng, mặt chất và về giá trị của các tài sản này đều cần được phản ánh đầy đủ. * Ghi nhận và đo lường đối với tài sản sinh học Một tài sản sinh học sẽ được đo lường tại lúc ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý. Sau ghi nhận ban đầu hoặc thời điểm lập báo cáo tài chính thì tài sản sinh học được đánh giá lại theo giá trị hợp lý trừ chi NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 144 - tháng 10/2019 phí bán. Các khoản tăng lên hoặc giảm xuống giữa thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ của tài sản sinh học sẽ được ghi nhận là lãi/lỗ trong kỳ phát sinh. Sản phẩm nông nghiệp được thu hoạch từ tài sản sinh học của doanh nghiệp nên được đo lường theo giá trị hợp lý trừ chi phí bán tại thời điểm thu hoạch. Các sản phẩm nông nghiệp sau khi thu hoạch sẽ được theo dõi như hàng tồn kho, tiếp tục chuyển sang giai đoạn chế biến hoặc tiêu thụ. Ngoại trừ trường hợp sản phẩm này vẫn đang phát triển hay vẫn còn gắn liền với tài sản sinh học thì giá trị của nó là một phần giá trị của tài sản sinh học. Sau ghi nhận ban đầu: Các tài sản sinh học sau ghi nhận ban đầu hoặc đánh giá lại ở mỗi kỳ được đo lường theo giá trị hợp lý trừ chi phí bán. Các khoản tăng lên hoặc giảm xuống giữa thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ của tài sản sinh học sẽ được ghi nhận là lãi/lỗ trong kỳ phát sinh. Nguyên nhân của việc tăng lên hay giảm xuống của tài sản sinh học có thể là do biến đổi sinh học dẫn đến sự thay đổi về chất, về lượng và quan hệ cung cầu trên thị trường ảnh hưởng đến giá cả của tài sản sinh học. Ngoài ra yếu tố về môi trường trong hoạt động nông nghiệp như thời tiết, dịch bệnh cũng ảnh hưởng đến việc xác định giá trị hợp lý của tài sản sinh học. 4. Thực trạng ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm * Về thực trạng nhận diện và phân loại đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm Dựa theo tiêu chuẩn ghi nhận của tài sản cố định hữu hình, đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây, hoặc cây thỏa mãn đồng thời các tiêu chuẩn của tài sản cố định (thu được lợi ích kinh tế từ việc sử dụng tài sản, nguyên giá được xác định đáng tin cậy, thời gian sử dụng lâu dài, có giá trị cụ thể) được coi là tài sản cố định hữu hình như vườn cây cao su, vườn cây cà phê, cây gỗ sưa... Đối với súc vật làm việc và cho sản phẩm thì từng con vật thỏa mãn đồng thời ba tiêu chuẩn của tài sản cố định được coi là một tài sản cố định hữu hình như đàn voi, ngựa, trâu, bò... Đó là những tài sản cố định do doanh nghiệp quản lý, sử dụng cho các mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, tùy theo quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm là trại bò, trại trâu... cho ra sản phẩm bê con, nghé con; là những đồi chè, vườn chè... cho ra sản phẩm để khai thác là búp chè, lá chè... để chế biến ra các loại chè phục vụ tiêu dùng... * Về thực trạng ghi nhận ban đầu và sau ban đầu đối với tài sản cố định là vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm Hiện nay, các doanh nghiệp đều tiến hành ghi nhận ban đầu và sau ban đầu đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm theo mô hình giá gốc. Định kỳ trích khấu hao vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ, tài sản cố định được theo dõi trên ba chỉ tiêu: Nguyên giá, khấu hao lũy kế và giá trị còn lại. Khi áp dụng mô hình giá gốc, vườn cây được đầu tư, theo dõi và đánh giá như tài sản cố định thông thường của doanh nghiệp. Ở giai đoạn đầu tư xây dựng cơ bản, không tiến hành đánh giá lại giá trị vườn cây. Thông tin về giá trị của tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm và các khoản lãi lỗ phát sinh trong kỳ chưa được trình bày rõ ràng, đầy đủ, có cơ sở trên hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Khi kết thúc kỳ kế toán, giá trị của các tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm của doanh nghiệp được trình bày trên báo cáo tài chính mà cụ thể là Bảng cân đối kế toán theo giá gốc - giá trị ban đầu. Nếu các tài sản này bị giảm giá hoặc bị tổn thất do mất mùa, dịch bệnh... thì doanh nghiệp sẽ phải trích lập dự phòng theo quy định. Còn ngược lại, nếu giá trị các tài sản của doanh nghiệp tăng lên do quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi thì khoản chênh lệch này lại không được phản ánh và ghi nhận. 5. Đánh giá thực trạng ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp Dựa trên tình hình thực tế kế toán tài sản cố TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN40 Số 144 - tháng 10/2019 định trong lĩnh vực nông nghiệp, tác giả rút ra một vài ý kiến trao đổi như sau: Thứ nhất, về cách phân loại đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm Tùy theo mục đích của hoạt động sản xuất mà các đối tượng sản xuất trong nông nghiệp có thể được phân thành tài sản cố định hay chi phí sản xuất dở dang. Chẳng hạn như ghi nhận là tài sản cố định nếu đàn bò đó được nuôi để lấy sữa hoặc sinh sản nhưng nếu nuôi để lấy thịt thì sẽ ghi nhận các chi phí chăm sóc, chăn nuôi như là chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ. Tài sản cố định trong nông nghiệp thường được phân loại theo nhóm hoặc theo đàn như bò nuôi để lấy sữa hoặc sinh sản, vườn cây lâu năm... mỗi nhóm có những đặc điểm riêng khác nhau. Tài sản cố định là cơ thể sống có thể có những biến đổi về thể chất từ lúc đưa vào sử dụng đến khi thải loại như trọng lượng tăng thêm của đàn gia súc sinh sản, cây lâu năm bị bệnh chết. Tuy nhiên, thực tế các doanh nghiệp hiện nay chưa có những cách thức nhận diện và phân loại rõ ràng đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm nên sẽ thiếu tính chính xác trong việc ghi nhận và phản ánh giá trị tài sản trên báo cáo tài chính. Thứ hai, về cách ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn đang lúng túng trong việc ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm. Do Việt Nam vẫn chưa ban hành chuẩn mực kế toán về nông nghiệp nên việc ghi nhận đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm đều được áp dụng theo chuẩn mực kế toán tài sản cố định hữu hình (tức tài sản ghi nhận theo giá gốc và chỉ được đánh giá lại khi có quy định của Nhà nước). Mặt khác, hiện nay ở các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam cũng không đánh giá lại giá trị tài sản tại thời điểm lập báo cáo tài chính của những kỳ kế toán sau khi tài sản được ghi nhận. Trong các loại tài sản cố định hữu hình có bao gồm cả vườn cây lâu năm và đàn súc vật làm việc, mà giá trị của các tài sản này ở mỗi thời điểm thì khác nhau. Trong quá trình sản xuất, chi phí phát sinh liên quan đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm đã được các doanh nghiệp ghi nhận ngay vào chi phí sản xuất để tính giá thành sản phẩm. Điều này là không hợp lý bởi quá trình trồng cây lâu năm hay nuôi dưỡng súc vật là quá trình lâu dài, cần có sự chăm sóc để hình thành cây công nghiệp hay súc vật trưởng thành cho ra sản phẩm. 6. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện về ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp Tác giả thấy rằng cần thiết vận dụng kế toán giá trị hợp lý trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là vận dụng giá trị hợp lý để ghi nhận và đo lường đối với tài sản cố định trong lĩnh vực nông nghiệp. Cụ thể như sau: Một là, giải pháp về nhận diện, phân loại đối với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp. Tại thời điểm thu hoạch, tài sản sinh học sẽ được ghi nhận tách biệt với sản phẩm nông nghiệp. Ví dụ: cây cao su và mủ cao su, bò sữa và sữa... sẽ được ghi nhận là cây trồng sống, động vật sống (tài sản sinh học) khi chưa thu hoạch; nhưng tại thời điểm thu hoạch thì cây cao su, bò sữa được ghi nhận là tài sản cố định và mủ cao su, sữa được ghi nhận là sản phẩm nông nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải ghi nhận và xác định đối với cây lâu năm và súc vật làm việc cho sản phẩm thì được ghi nhận là tài sản cố định hữu hình. Còn đối với cây lâu năm, súc vật làm việc khi chưa cho sản phẩm và mục đích đầu tư ban đầu để thu hoạch sản phẩm từ chính cây trồng đó, hoặc sản phẩm từ chăn nuôi thì được ghi nhận vào khoản mục đầu tư xây dựng cơ bản. Đối với các sản phẩm chưa thu hoạch thì được ghi nhận là sản phẩm dở dang, sản phẩm đã thu hoạch được ghi nhận là thành phẩm. Đồng thời, doanh nghiệp có thể nhóm tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm theo từng nhóm để việc NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 41Số 144 - tháng 10/2019 xác định giá trị hợp lý có thể được thực hiện dễ dàng hơn. Ví dụ, cây cao su già cho nhiều nhựa mủ hơn nên doanh nghiệp có thể phân loại vườn cây cao su theo từng năm tuổi để dễ dàng xác định giá trị vườn cây, bò sữa có thể phân loại theo độ tuổi hoặc theo lượng sữa thu được trong một ngày để dễ dàng xác định giá trị của vật nuôi. Hai là, giải pháp về kế toán chi phí chăm sóc đối với cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm. Để hình thành nên vườn cây công nghiệp cho năng suất lâu dài trong nhiều năm, đòi hỏi phải tiến hành đầu tư xây dựng cơ bản. Quá trình đầu tư xây dựng cơ bản thường diễn ra trong thời gian dài, chẳng hạn cây cao su trải qua 7 năm (trong đó 3 năm trồng mới và 4 năm chăm sóc), cây cà phê trải qua 3 năm (trong đó 1 năm trồng mới và 2 năm chăm sóc). Vườn cây có thể được trồng mới bằng những giống thực sinh trên cơ sở lựa chọn những sản phẩm có chất lượng tốt ở những mùa vụ trước, mùa vụ này ươm lên và giâm bầu, khi đủ thời gian thì đưa vào trồng mới. Hoặc doanh nghiệp có thể trồng mới bằng các cây được chọn lọc chiết ghép, đã đủ thời gian đưa vào để xây dựng cơ bản. Cây công nghiệp là các loại cây cho sản phẩm trong thời gian dài. Đặc điểm của loại cây này là sau quá trình xây dựng cơ bản, bàn giao đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ cho thu hoạch sản phẩm trong nhiều năm, tùy thuộc vào tuổi thọ của cây. Sau quá trình xây dựng cơ bản, vườn cây là tài sản cố định của doanh nghiệp. Do đó, quá trình từ khi gieo trồng đến khi vườn cây bắt đầu có sản phẩm được xem như quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành nên tài sản cố định. Cây công nghiệp là các loại cây cho sản phẩm trong thời gian dài. Đặc điểm của loại cây này là sau quá trình xây dựng cơ bản, bàn giao đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ cho thu hoạch sản phẩm trong nhiều năm, tùy thuộc vào tuổi thọ của cây. Sau quá trình xây dựng cơ bản, vườn cây là tài sản cố định của doanh nghiệp. Do đó, quá trình từ khi gieo trồng đến khi vườn cây bắt đầu có sản phẩm được xem như quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành nên tài sản cố định, kế toán thực hiện bút toán bàn giao ghi nhận giá trị tài sản cố định là giá trị của vườn cây: Nợ tài khoản Vườn cây lâu năm/ Có tài khoản Xây dựng cơ bản dở dang, sau này tính khấu hao thì chuyển vào chi phí sản xuất để tính vào giá thành sản phẩm. Sau ghi nhận ban đầu, vườn cây lại được tiếp tục chăm bón, tưới tiêu để cho ra sản phẩm, những chi phí chăm sóc sau giai đoạn cây công nghiệp đã cho sản phẩm (chi phí chăm sóc nhằm duy trì hoạt động của cây để cho ra sản phẩm ở những chu kỳ tiếp theo) thì nên tính vào chi phí sản xuất nhằm cấu thành giá thành sản phẩm thu hoạch. Đối với súc vật làm việc và cho sản phẩm, cần trải qua nhiều giai đoạn như xây dựng chuồng, trại, cho ăn, tiêm phòng, sưởi ấm... Trải qua các quá trình đó, cần các chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc để đáp ứng đủ điều kiện cho vật nuôi được tăng trưởng về chiều cao, cân nặng, dinh dưỡng Do đó, quá trình từ khi chăm sóc đến khi vật nuôi cho ra sản phẩm được xem như quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành nên tài sản cố định. Sau giai đoạn sinh sản, vật nuôi cần được tiếp tục chăm sóc, các chi phí phát sinh của giai đoạn này được xác định là những chi phí phát sinh trong kỳ nhằm tiếp tục nâng cao năng suất sinh sản của vật nuôi. Ba là, giải pháp về ghi nhận ban đầu và sau ban đầu với với tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm. Các giai đoạn của tài sản cố định nói chung có thể được chia thành giai đoạn mua sắm, giai đoạn sử dụng và giai đoạn ngừng hoạt động. Theo đó, vòng đời của tài sản cố định là cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm cũng có thể được chia thành các giai đoạn tương tự (giai đoạn tăng trưởng, thời kỳ sinh sản và giảm dần khả năng sản xuất và tử vong). Nếu doanh nghiệp vận dụng theo mô hình giá gốc thì thực hiện ghi nhận và đo lường tương tự như đối với kế toán tài sản cố định thông thường (theo mô hình giá gốc). Tức là tài sản cố định là súc vật làm việc và cho sản phẩm được nuôi dưỡng, chăm sóc và đến giai đoạn cho sản phẩm thì được ghi nhận là tài sản cố định. Theo đó, giai đoạn tăng trưởng tương tự như giai đoạn hình thành để có được tài sản, nên cần được ghi nhận theo giá gốc TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN42 Số 144 - tháng 10/2019 (ghi nhận các chi phí chăm sóc, tưới tiêu, phân bón... vào chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ). Trong giai đoạn tăng trưởng, tài sản được khấu hao, do đó việc sử dụng giá gốc là phù hợp. Giai đoạn kết thúc chu kỳ sống (tử vong), tài sản cố định là cây lâu năm được ghi giảm trừ khỏi Bảng cân đối kế toán. Nếu doanh nghiệp vận dụng theo mô hình giá, đánh giá lại (dựa trên giá trị hợp lý) cũng thực hiện ghi nhận và đo lường tương tự như đối với kế toán tài sản cố định thông thường (theo mô hình giá đánh giá lại). Tuy nhiên, chỉ có điểm khác biệt là tại thời điểm đánh giá lại nếu đánh giá tăng giá trị tài sản cố định thông thường sẽ được ghi nhận trên báo cáo thu nhập toàn diện khác (ghi tăng vốn chủ sở hữu), còn đánh giá tăng tài sản cố định là súc vật làm việc và cho sản phẩm, ghi nhận sự lớn lên trưởng thành thông qua chiều cao, chu vi, kích thước lại được ghi nhận trên báo cáo lãi lỗ (coi như lãi được thực hiện). Cụ thể như sau: Các chi phí phát sinh liên quan đến chăm sóc, nuôi dưỡng ghi nhận vào chi phí kinh doanh phát sinh trong kỳ trên báo cáo lãi/lỗ. Vào từng kỳ (cuối mỗi năm), tài sản cố định là súc vật làm việc và cho sản phẩm được xác định theo giá trị hợp lý trừ các chi phí bán, khoản tăng/giảm giá trị của tài sản cố định tại thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ được ghi nhận vào lãi/lỗ trên báo cáo kết quả kinh doanh. Sau quá trình sinh sản và cho sản phẩm, đến giai đoạn suy thoái, tài sản bị giảm khả năng sản xuất (thay đổi về vật lý), suy giảm về giá trị (thay đổi về giá trị) thì cần nghiên cứu áp dụng mô hình giá đánh giá lại. Bởi việc xác định giá trị tài sản cố định theo mô hình đánh giá lại (dựa trên giá trị hợp lý) sẽ phản ánh đầy đủ và trung thực hơn. Giai đoạn kết thúc chu kỳ sống (tử vong), tài sản cố định là súc vật làm việc và cho sản phẩm được ghi giảm trừ khỏi bảng cân đối kế toán, đồng thời ghi nhận khoản lỗ trên báo cáo kết quả kinh doanh (vì lãi chưa được thực hiện đã bị ghi giảm trừ). Tại thời điểm lập báo cáo tài chính, nếu có sự chênh lệch giữa giá gốc và giá trị hợp lý, các doanh nghiệp nên thực hiện ghi nhận như một khoản thu nhập, chi phí kinh doanh trong kỳ. Kết luận Trên đây là những ý kiến trao đổi của tác giả khi nghiên cứu áp dụng mô hình tính giá trong kế toán tài sản cố định đối với cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phảm. Dựa trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu tiền nhiệm, nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, bài viết hy vọng sẽ giải quyết được những vướng mắc trong quá trình nhận thức và xác định giá trị tài sản thực tiễn hiện nay nhằm phục vụ cho quá trình cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng trong từng giai đoạn cụ thể. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Amen, M. (2000). Comment Letter on Exposure Draft E65 – Agriculture No. 13. [online] Available on CommentsE65.zip. cit. 20110512; 2. Argilés, J., Slof, E. (2001), New opportunities for farm accounting. The European Accounting Review. Vol. 10. No. 2, p. 361–383; 3. Burnside, A., Schiller, S., “IAS 41 and the forest industry – A study of the forest products companies’ perception of the IAS 41 today” Canadian Institute of Chartered Accountants (1986) Comptabilité et Information. Financière des Producteurs Agricoles; 4. Charles Elad & Kathleen Herbohn (2011), Implement fair value accounting in the agricultural sector Scotland. The Institute of Chartered Accountants of Scotland; 5. CIMA (2000) Comment Letter on Exposure Draft E65 – Agriculture No. 39 [online] Available on CommentsE65.zip. cit.20110512; 6. Damian, M.I., Manoiu, S.M., Bonaci, C.G., Strouhal, J. (2014) Bearer plants: Stakeholders’ view on the appropriate measurement model, Accounting and Management Information Systems Vol. 13, No. 4, pp. 719–738, 2014; 7. Hoffman, F., Schneider, E.,Dangerfield, A.(2000) Comment Letter on Exposure Draft E65 – Agriculture No. 5 [online] Available on
File đính kèm:
- mo_hinh_tinh_gia_doi_voi_tai_san_co_dinh_la_cay_lau_nam_suc.pdf