Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
TÓM TẮT
Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và một
số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phụ nữ
nông thôn đã mãn kinh tự nhiên ít nhất 5 năm, tuổi từ 50 - 70, đo mật độ xương (MĐX) bằng
phương pháp siêu âm định lượng vị trí gót chân, định lượng osteocalcin và CTX huyết thanh bằng
phương pháp điện hoá phát quang miễn dịch. Kết quả: osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ±
5,32 ng/ml, tăng 17,2% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; giảm dần theo
nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. CTX huyết thanh trung
bình 0,65 ± 0,19 ng/ml, tăng 57,7% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; tương
quan nghịch với MĐX, thời gian mãn kinh và tương quan thuận với tuổi, p < 0,05.="" kết="" luận:="" nồng="">
osteocalcin và CTX tăng lên ở BN loãng xương. Nồng độ CTX huyết thanh tương quan thuận với
tuổi, thời gian mãn kinh, tương quan nghịch với T-score, p <>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 120 MỐI LIÊN QUAN GIỮA OSTEOCALCIN, CTX HUYẾT THANH VỚI T-SCORE VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ LOÃNG XƢƠNG Ở PHỤ NỮ SAU MÃN KINH Hoàng Văn Dũng*; Lê Bạch Mai**; Nguyễn Thị Ngọc Lan***; Vũ Xuân Nghĩa**** TÓM TẮT Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phụ nữ nông thôn đã mãn kinh tự nhiên ít nhất 5 năm, tuổi từ 50 - 70, đo mật độ xương (MĐX) bằng phương pháp siêu âm định lượng vị trí gót chân, định lượng osteocalcin và CTX huyết thanh bằng phương pháp điện hoá phát quang miễn dịch. Kết quả: osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ± 5,32 ng/ml, tăng 17,2% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; giảm dần theo nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. CTX huyết thanh trung bình 0,65 ± 0,19 ng/ml, tăng 57,7% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; tương quan nghịch với MĐX, thời gian mãn kinh và tương quan thuận với tuổi, p < 0,05. Kết luận: nồng độ osteocalcin và CTX tăng lên ở BN loãng xương. Nồng độ CTX huyết thanh tương quan thuận với tuổi, thời gian mãn kinh, tương quan nghịch với T-score, p < 0,05. * Từ khóa: Loãng xương; Phụ nữ sau mãn kinh; Osteocalcin; CTX huyết thanh. Investigation of Correlations between Serum Osteocalcin, CTX Serum with Mineral Bone Density and Risk Factors in Postmenopausal Women Summary Objective: To investigate the correlations between serum osteocalcin, CTX and T-score and risk factors of osteoporosis in postmenopausal women. Subjects and methods: Rural women have at least 5 years lnatural postmenopausal, aged 50 - 70. T-score was measured by quantitative ultrasounds in the heel bone, osteocalcin and CTX were measured by electrochemical luminescent immune Results: Mean serum osteocalcin was 19.92 ± 5.32 ng/ml; increased 17.2% in the osteoporosis group compared with normal bone density group; decreased with age, but the difference was not statistically significant with p > 0.05. Mean serum CTX was 0.65 ± 0.19 ng/ml; increased 57.7% in the osteoporosis group; inversely correlated with bone mineral density, menopausal duration correlated with age with p < 0.05. Conclusion: Osteocalcin and CTX levels increased significantly in patients with osteoporosis. CTX serum concentrations correlated with age, menopausal duration, inversely correlated with T-score, p < 0.05. Key words: Osteoporosis; Postmenopausal women; Osteocalcin; CTX. * Bệnh viện Bạch Mai ** Viện Dinh dưỡng Quốc Gia *** Đại học Y Hà Nội **** Học viện Quân y Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Văn Dũng (dungnoitru26@yahoo.com) Ngày nhận bài: 20/10/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/11/2014 Ngày bài báo được đăng: 03/12/2014 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 121 ĐẶT VẤN ĐỀ Đo MĐX bằng phương pháp hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) cho biết mật độ khoáng của xương (g/cm2), không cho biết tổn thương vi cấu trúc cũng như chất lượng của xương. Tốc độ chu chuyển xương phản ánh chất lượng của xương, tốc độ chu chuyển xương tăng làm tăng phá hủy vi cấu trúc phần bè xương, làm giảm chất lượng xương, tăng nguy cơ loãng xương và tăng khả năng gãy xương. Mỗi một đơn vị chu chuyển xương diễn ra trong 3 - 6 tháng. Tốc độ chu chuyển xương phản ánh tốc độ của quá trình tạo xương và hủy xương. Xét nghiệm nồng độ dấu ấn chu chuyển xương cho phép đánh giá tốc độ chuyển xương, khi nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương tăng lên phản ánh tốc độ chu chuyển xương và nguy cơ loãng xương tăng cũng như gãy xương [5]. Hiện nay, một số xét nghiệm dấu ấn chu chuyển xương được ứng dụng phổ biến trong nghiên cứu và thực hành lâm sàng với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Thường phối hợp hai dấu ấn của hai quá trình hủy xương và tạo xương để đánh giá chu chuyển xương [4]. + Đánh giá quá trình hủy xương: CTX (Carboxy-terminal collagen crosslinks - Beta CrossLab) trong máu hoặc nước tiểu, NTX (N-telopeptid của collagen), DPD (deoxypyridinoline) trong nước tiểu. + Đánh giá quá trình tạo xương: osteocalcin, phosphatase kiềm đặc hiệu xương (BSAP - Bone Specific Alkalin Phosphatase) và procollagen týp 1 (P1NP- Procollagen type 1 N-terminal propeptide). Việc sử dụng các dấu ấn chu chuyển xương để đánh giá nguy cơ gãy xương và theo dõi điều trị loãng xương được đưa vào hướng dẫn quốc gia về quản lý BN loãng xương ở các nước phát triển và một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu ứng dụng vai trò dấu ấn chu chuyển xương, tuy nhiên chưa phổ biến. Chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm: - Khảo sát giá trị nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh ở phụ nữ sau mãn kinh. - Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng nghiên cứu. - Nghiên cứu được tiến hành tại xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. - Thời gian: tháng 01 đến tháng 06 năm 2013. - Đối tượng nghiên cứu: phụ nữ nông thôn đã mãn kinh tự nhiên ≥ 5 năm, tuổi ≥ 50 và ≤ 70 tuổi (sinh năm từ 1942 đến 1962). Loại trừ những phụ nữ mãn kinh do phẫu thuật buồng trứng, tử cung, phụ nữ mắc các bệnh liên quan đến chuyển hóa (đái tháo đường, Basedow), người có dị tật xương - khớp bẩm sinh, mắc các bệnh (ung thư, suy thận), gãy xương, phẫu thuật xương khớp trong vòng 5 năm, đang dùng các thuốc điều trị loãng xương: calcitonin, estrogen, corticoid trong vòng 6 tháng gần đây. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu. Nghiên cứu điều tra cắt ngang trên 141 phụ nữ đã mãn kinh tự nhiên thoả mãn đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 122 * Nội dung nghiên cứu: - Tuổi đối tượng nghiên cứu. - Chỉ số khối cơ thể. - Thời gian mãn kinh, mãn kinh tự nhiên hay sau phẫu thuật tử cung, buồng trứng, số lần sinh đẻ. - Khám lâm sàng và khai thác tiền sử: phát hiện các bệnh tật liên quan. - Đo MĐX: bằng phương pháp siêu âm định lượng vị trí gót chân, sử dụng máy đo Sonost-3000 (Hãng Osteosys, Hàn Quốc). Nguyên lý, máy đo sử dụng hai đầu dò, một đầu dò truyền xung siêu âm và một đầu dò nhận xung siêu âm ở bên đối diện của xương gót chân. Trong quá trình truyền xung siêu âm, đầu dò sẽ di chuyển dọc theo xương gót của BN. Tốc độ truyền xung tính theo m/s (SOS - Speed of Sound). Ở mô xương bình thường, xung siêu âm truyền qua mô xương có thời gian ngắn, tốc độ truyền xung nhanh, ở BN loãng xương, thời gian truyền xung siêu âm dài hơn, tốc độ truyền xung chậm hơn và biên độ nhận xung bên đối diện sẽ ít hơn. So sánh tốc độ truyền âm qua vị trí xương gót chân người trẻ tuổi, khoẻ mạnh từ cơ sở dữ liệu trong máy đo (quần thể tham chiếu của người châu Á), tính ra được chỉ số T (T-score). MĐX bình thường T-score ≥ -1,0; giảm MĐX: -2,5 < T-score < -1,0; loãng xương: T-score ≤ -2,5 [2]. - Định lượng nồng độ dấu ấn sinh học chu chuyển xương: bằng phương pháp điện hóa phát quang miễn dịch trên máy Elecsys - 2010 - Roche tại Trung tâm Nghiên cứu Y - Dược học quân sự, Học viện Quân y. Gồm có 2 chỉ tiêu: + Osteocalcin huyết thanh: đánh giá quá trình tạo xương. + C-telopeptide crosslink (CTX) huyết thanh: đánh giá quá trình hủy xương. * Phân tích và xử lý số liệu: - Các số liệu được xử lý trên máy vi tính bằng phương pháp thống kê y học theo chương trình SPSS 16.0. - Trung bình, độ lệch chuẩn và tỷ lệ được dùng để mô tả đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. - Test "χ2 " dùng kiểm định sự khác biệt giữa 2 tỷ lệ. - Test “t” dùng kiểm định sự khác biệt giữa 2 trị số trung bình. - Hệ số tương quan “r”: đánh giá hệ số tương quan với biến liên tục. Phân loại mức độ: r < ± 0,3 có mối tương quan yếu; r = ± 0,3 đến ± 0,6 có mối tương quan trung bình, r ≥ ± 0,7 có mối tương quan chặt chẽ. - Khoảng tin cậy 95% được áp dụng cho toàn bộ các test, khác biệt khi giá trị p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN Một chu kỳ chu chuyển xương gồm 3 giai đoạn: giai đoạn hủy xương, giai đoạn chuyển đổi và giai đoạn tạo xương mới. Thời gian cho một chu kỳ chu chuyển diễn ra khoảng 3 - 6 tháng. Định lượng dấu ấn sinh học chu chuyển xương cho phép đánh giá được tốc độ chu chuyển xương, từ đó đánh đánh giá được tốc độ mất xương. Đây là kỹ thuật mới, hiện đại để nghiên cứu và ứng dụng trong thực hành lâm sàng chẩn đoán, theo dõi điều trị loãng xương hiện nay. 1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu. - Tuổi trung bình 58,78 ± 4,9 (50 - 70 tuổi). - Thời gian mãn kinh trung bình 10,5 ± 5,7 năm (5 - 33 năm). TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 123 2. Nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh. Bảng 1: Đặc điểm nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh. (ng/ml) (n = 141) CTX (ng/ml) (n = 141) Giá trị trung bình (ng/ml) 19,92 ± 5,32 0,65 ± 0,19 Điểm cắt giá trị xét nghiệm theo đường cong ROC 18,65 0,615 < 18,65 (46,8%) < 0,615 (45,4%) ≥ 18,65 (53,2%) ≥ 0,615 (54,6%) - Nồng độ osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ± 5,32 ng/ml, 53,2% BN có nồng độ osteocalcin huyết thanh cao > 18,65 ng/ml. - Nồng độ CTX huyết thanh trung bình 0,65 ± 0,19 ng/ml, 54,6% BN có nồng độ CTX huyết thanh cao > 0,615 ng/ml. Kết quả này cao hơn nghiên cứu của Lê Thu Hà: nồng độ osteocalcin trung bình ở phụ nữ mãn kinh là 16,9 ± 9,2 ng/ml, nhóm trẻ tuổi chưa mãn kinh là 13,8 ± 5,9 ng/ml [1], nhưng thấp hơn so với nghiên cứu của Marlena C và CS ở phụ nữ mãn kinh người Indonesia và Philippines có nồng độ osteocalcin trung bình 31,85 ± 2,62 ng/ml và 32,33 ± 2,24 ng/ml [3]. Nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương nói chung đều tăng và dao động lớn, phụ thuộc vào tình trạng loãng xương, mãn kinh và tuổi cao. Do đó, ở đối tượng nghiên cứu khác nhau sẽ có kết quả dao động khác nhau. 3. Mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh trung bình với tuổi và loãng xƣơng. Bảng 2: So sánh giữa nồng độ dấu ấn chu chuyển xương giữa các nhóm tuổi. (n) (ng/ml) CTX (ng/ml) 50 - 54 35 20,88 ± 4,59 0,65 ± 0.18 55 - 59 51 20,11 ± 6,54 0,59 ± 0,16 60 - 64 35 19,69 ± 4,81 0,68 ± 0,17 65 - 70 20 18,19 ± 3,36 0,75 ± 0,19 Tổng 141 p > 0,05 p < 0,01 Nồng độ osteocalcin huyết thanh giảm dần theo tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ngược lại, nồng độ CTX có xu hướng tăng lên theo tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Osteocalcin là một dấu ấn sinh học của quá trình tạo xương, ở người trẻ cân bằng tạo xương cao hơn huỷ xương, do đó nồng độ dấu ấn tạo xương tăng cao hơn nồng độ dấu ấn hủy xương. TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 124 Bảng 3: So sánh nồng độ dấu ấn chu chuyển xương với mức độ loãng xương. (ng/ml) (n = 141) CTX (ng/ml) (n = 141) A. Bình thường (≥ -1) 4 16,46 ± 4,64 0,457 ± 0,115 B. Giảm (-2,5 đến -1) 68 20,78 ± 4,10 0,588 ± 0,134 C. Loãng xương (≤ -2,5) 69 19,29 ± 6,23 0,721 ± 0,197 Mức độ tăng nồng độ dấu ấn chu chuyển xương ở nhóm loãng xương so với nhóm bình thường (%) = (C-A ) x 100/A 17,2 57,7 p p > 0,05 p < 0,001 - Ở nhóm loãng xương, nồng độ osteocalcin huyết thanh tăng so với nhóm có MĐX bình thường (17,2%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). - Ở nhóm loãng xương, nồng độ CTX huyết thanh tăng so với nhóm có MĐX bình thường là 57,7%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Ở người già, cân bằng bị đảo lộn, hủy xương cao hơn tạo xương. Ở phụ nữ mãn kinh đang có loãng xương, tốc độ chu chuyển xương tăng lên, mà tốc độ chu chuyển xương là vòng quay của cả tạo xương và hủy xương. Tuy nhiên, hủy xương mạnh hơn tạo xương. Do đó, cả hai dấu ấn sinh học chu chuyển xương (ostocalcin và CTX) đều tăng lên ở giai đoạn loãng xương, nhưng dấu ấn hủy xương tăng mạnh hơn dấu ấn tạo xương [5]. Điều này lý giải tại sao nồng độ osteocalcin của đối tượng nghiên cứu cao hơn so với người trẻ tuổi và tăng lên ở nhóm có loãng xương và mức độ tăng không nhiều bằng dấu ấn hủy xương CTX. 4. Mối tƣơng quan giữa osteocalcin và CTX huyết thanh với T-score và thời gian mãn kinh. Bảng 4: Mối tương quan giữa T-score, tuổi, thời gian mãn kinh với dấu ấn chu chuyển xương. Nồng độ osteocalcin r = 0,1, p > 0,05 y = -0,175 x tuổi + 0,185 r = - 0,17, p < 0,05 r = -0,14, p > 0,05 Nồng độ CTX y = -0,109 x T-score + 0,381 r = -0,43, p < 0,01 y = 0,008 x tuổi + 0,194 r = 0,21, p < 0,05 y = 0,009 x thời gian mãn kinh + 0,56 r = 0,27, p < 0,01 - Nồng độ osteocalcin huyết thanh không có mối tương quan với T-score (r = 0,1; p > 0,05), tương quan nghịch mức độ yếu với tuổi (r = -0,17; p < 0,05) và không thấy mối tương quan với thời gian mãn kinh (r = -0,14; p > 0,05). - Nồng độ CTX huyết thanh có mối tương quan nghịch mức độ trung bình với T-score (r = -0,43, p < 0,01), tương quan thuận mức độ yếu với tuổi (r = 0,21, p < 0,01) và tương quan thuận mức độ yếu với thời gian mãn kinh (r = 0,27; p < 0,01). TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 125 Kết quả của chúng tôi tương tự nghiên cứu của Marlena và CS ở phụ nữ mãn kinh người Indonesia và Philippines có nồng độ CTX trung bình 0,57 ng/ml và 0,62 ng/ml [3], nhưng cao hơn kết quả của Lê Thu Hà với nồng độ CTX trung bình ở phụ nữ mãn kinh là 0,56 ± 0,30 ng/ml, nhóm trẻ tuổi chưa mãn kinh là 0,28 ± 0,20 ng/ml và nồng độ CTX huyết thanh ở phụ nữ mãn kinh có tương quan thuận với tuổi, thời gian mãn kinh [1]. Như vậy, nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương tăng lên ở BN loãng xương (osteocaclcin 17,2%, CTX 57,7%). Điều này phản ánh tốc độ chu chuyển xương tăng lên ở nhóm có loãng xương. Tuy nhiên, quá trình hủy xương mạnh hơn quá trình tạo xương, do đó cân bằng của chu chuyển xương thiên về hủy xương. Việc xác định và theo dõi nồng độ các dấu ấn chu chuyển xương có ý nghĩa đánh giá tốc độ chu chuyển xương và chiều hướng thay đổi cân bằng chu chuyển xương, từ đó cho phép theo dõi đánh giá hiệu quả thuốc điều trị loãng xương trong thời gian 3 - 6 tháng theo chu kỳ của chu chuyển xương. KẾT LUẬN Nghiên cứu phụ nữ nông thôn đã mãn kinh ≥ 5 năm, tuổi ≥ 50 và ≤ 70 tuổi, kết quả cho thấy: - Nồng độ osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ± 5,32 ng/ml; tăng 17,2% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; giảm dần theo nhóm tuổi (r = -0,17, p < 0,05). - Nồng độ CTX huyết thanh trung bình 0,65 ± 0,19 ng/ml; tăng 57,7% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; tương quan nghịch mức độ trung bình với T-score, thời gian mãn kinh và tương quan thuận mức độ yếu với tuổi, p < 0,05. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thu Hà, Vũ Thị Thanh Hoa, Nguyễn Thị Hương. Liên quan giữa nồng độ osteocalcin, beta - crosslab huyết thanh và một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. Tạp chí Nội khoa Việt Nam, số đặc biệt tháng 10/2013 (chuyên đề Cơ xương khớp, chào mừng Hội nghị khoa học Toàn quốc lần thứ XI Hội Thấp khớp học Việt Nam). 2013, tr.235-243. 2. Langton C. M, Langton D. K. Comparison of bone mineral density and quantitative ultrasound of the calcaneus: site-matched correlation and discrimination of axial BMD status. Br J Radiol. 2000, 73 (865), pp.31-35. 3. Marlena C, Kruger L.M, Barbara Kuhn-Sherlock, Andon Hestiantoro, Paulus Wijanto, and I.A. Julie Li-Yu , Joanne M. Todd, Richard Eastell. The effect of a fortified milk drink on vitamin D status and bone turnover in post-menopausal women from South East Asia. Bone. 2010, 46, pp.759-767. 4. Sonia A Talwar MD, George T Griffing MD. Bone markers in osteoporosis. Medscape. (Updated: Jan 3, 2012). 5. Vasikaran S, Eastell R, Bruyère AJ, Foldes P, Garnero A, Griesmacher, McClung M, MorrisH. A. Markers of bone turnover for the prediction of fracture risk and monitoring of osteoporosis treatment: a need for international reference standards. Osteoporos Int. 2011, 22, pp.391-420. TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 126
File đính kèm:
- moi_lien_quan_giua_osteocalcin_ctx_huyet_thanh_voi_t_score_v.pdf