Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh

TÓM TẮT

Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và một

số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phụ nữ

nông thôn đã mãn kinh tự nhiên ít nhất 5 năm, tuổi từ 50 - 70, đo mật độ xương (MĐX) bằng

phương pháp siêu âm định lượng vị trí gót chân, định lượng osteocalcin và CTX huyết thanh bằng

phương pháp điện hoá phát quang miễn dịch. Kết quả: osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ±

5,32 ng/ml, tăng 17,2% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; giảm dần theo

nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. CTX huyết thanh trung

bình 0,65 ± 0,19 ng/ml, tăng 57,7% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; tương

quan nghịch với MĐX, thời gian mãn kinh và tương quan thuận với tuổi, p < 0,05.="" kết="" luận:="" nồng="">

osteocalcin và CTX tăng lên ở BN loãng xương. Nồng độ CTX huyết thanh tương quan thuận với

tuổi, thời gian mãn kinh, tương quan nghịch với T-score, p <>

pdf 7 trang yennguyen 2900
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh

Mối liên quan giữa Osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
120 
MỐI LIÊN QUAN GIỮA OSTEOCALCIN, CTX HUYẾT THANH VỚI 
 T-SCORE VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ LOÃNG XƢƠNG 
Ở PHỤ NỮ SAU MÃN KINH 
Hoàng Văn Dũng*; Lê Bạch Mai**; Nguyễn Thị Ngọc Lan***; Vũ Xuân Nghĩa**** 
TÓM TẮT 
 Mục tiêu: tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score và một 
số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ mãn kinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phụ nữ 
nông thôn đã mãn kinh tự nhiên ít nhất 5 năm, tuổi từ 50 - 70, đo mật độ xương (MĐX) bằng 
phương pháp siêu âm định lượng vị trí gót chân, định lượng osteocalcin và CTX huyết thanh bằng 
phương pháp điện hoá phát quang miễn dịch. Kết quả: osteocalcin huyết thanh trung bình 19,92 ± 
5,32 ng/ml, tăng 17,2% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; giảm dần theo 
nhóm tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. CTX huyết thanh trung 
bình 0,65 ± 0,19 ng/ml, tăng 57,7% ở nhóm loãng xương so với nhóm có MĐX bình thường; tương 
quan nghịch với MĐX, thời gian mãn kinh và tương quan thuận với tuổi, p < 0,05. Kết luận: nồng độ 
osteocalcin và CTX tăng lên ở BN loãng xương. Nồng độ CTX huyết thanh tương quan thuận với 
tuổi, thời gian mãn kinh, tương quan nghịch với T-score, p < 0,05. 
* Từ khóa: Loãng xương; Phụ nữ sau mãn kinh; Osteocalcin; CTX huyết thanh. 
Investigation of Correlations between Serum Osteocalcin, CTX Serum 
with Mineral Bone Density and Risk Factors in Postmenopausal Women 
Summary 
Objective: To investigate the correlations between serum osteocalcin, CTX and T-score and risk 
factors of osteoporosis in postmenopausal women. Subjects and methods: Rural women have at 
least 5 years lnatural postmenopausal, aged 50 - 70. T-score was measured by quantitative 
ultrasounds in the heel bone, osteocalcin and CTX were measured by electrochemical luminescent 
immune Results: Mean serum osteocalcin was 19.92 ± 5.32 ng/ml; increased 17.2% in the 
osteoporosis group compared with normal bone density group; decreased with age, but the 
difference was not statistically significant with p > 0.05. Mean serum CTX was 0.65 ± 0.19 ng/ml; 
increased 57.7% in the osteoporosis group; inversely correlated with bone mineral density, 
menopausal duration correlated with age with p < 0.05. Conclusion: Osteocalcin and CTX levels 
increased significantly in patients with osteoporosis. CTX serum concentrations correlated with age, 
menopausal duration, inversely correlated with T-score, p < 0.05. 
Key words: Osteoporosis; Postmenopausal women; Osteocalcin; CTX. 
* Bệnh viện Bạch Mai 
** Viện Dinh dưỡng Quốc Gia 
*** Đại học Y Hà Nội 
**** Học viện Quân y 
Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Văn Dũng (dungnoitru26@yahoo.com) 
Ngày nhận bài: 20/10/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 26/11/2014 
 Ngày bài báo được đăng: 03/12/2014 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
121 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Đo MĐX bằng phương pháp hấp thụ tia 
X năng lượng kép (DEXA) cho biết mật độ 
khoáng của xương (g/cm2), không cho biết 
tổn thương vi cấu trúc cũng như chất 
lượng của xương. Tốc độ chu chuyển 
xương phản ánh chất lượng của xương, 
tốc độ chu chuyển xương tăng làm tăng 
phá hủy vi cấu trúc phần bè xương, làm 
giảm chất lượng xương, tăng nguy cơ 
loãng xương và tăng khả năng gãy xương. 
Mỗi một đơn vị chu chuyển xương diễn ra 
trong 3 - 6 tháng. Tốc độ chu chuyển 
xương phản ánh tốc độ của quá trình tạo 
xương và hủy xương. Xét nghiệm nồng độ 
dấu ấn chu chuyển xương cho phép đánh 
giá tốc độ chuyển xương, khi nồng độ các 
dấu ấn chu chuyển xương tăng lên phản 
ánh tốc độ chu chuyển xương và nguy cơ 
loãng xương tăng cũng như gãy xương 
[5]. Hiện nay, một số xét nghiệm dấu ấn 
chu chuyển xương được ứng dụng phổ 
biến trong nghiên cứu và thực hành lâm 
sàng với độ nhạy và độ đặc hiệu cao. 
Thường phối hợp hai dấu ấn của hai quá 
trình hủy xương và tạo xương để đánh 
giá chu chuyển xương [4]. 
+ Đánh giá quá trình hủy xương: CTX 
(Carboxy-terminal collagen crosslinks - 
Beta CrossLab) trong máu hoặc nước 
tiểu, NTX (N-telopeptid của collagen), DPD 
(deoxypyridinoline) trong nước tiểu. 
+ Đánh giá quá trình tạo xương: 
osteocalcin, phosphatase kiềm đặc hiệu 
xương (BSAP - Bone Specific Alkalin 
Phosphatase) và procollagen týp 1 (P1NP- 
Procollagen type 1 N-terminal propeptide). 
Việc sử dụng các dấu ấn chu chuyển 
xương để đánh giá nguy cơ gãy xương 
và theo dõi điều trị loãng xương được 
đưa vào hướng dẫn quốc gia về quản lý 
BN loãng xương ở các nước phát triển và 
một số nước trong khu vực Đông Nam Á. 
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu 
ứng dụng vai trò dấu ấn chu chuyển 
xương, tuy nhiên chưa phổ biến. Chúng 
tôi tiến hành đề tài này nhằm: 
- Khảo sát giá trị nồng độ osteocalcin 
và CTX huyết thanh ở phụ nữ sau mãn kinh. 
- Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ 
osteocalcin, CTX huyết thanh với T-score 
và một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở 
phụ nữ mãn kinh. 
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
1. Đối tƣợng nghiên cứu. 
- Nghiên cứu được tiến hành tại xã 
Tam Hưng, huyện Thanh Oai, TP. Hà Nội. 
- Thời gian: tháng 01 đến tháng 06 
năm 2013. 
- Đối tượng nghiên cứu: phụ nữ nông 
thôn đã mãn kinh tự nhiên ≥ 5 năm, tuổi 
≥ 50 và ≤ 70 tuổi (sinh năm từ 1942 đến 
1962). Loại trừ những phụ nữ mãn kinh 
do phẫu thuật buồng trứng, tử cung, phụ 
nữ mắc các bệnh liên quan đến chuyển 
hóa (đái tháo đường, Basedow), người có 
dị tật xương - khớp bẩm sinh, mắc các bệnh 
(ung thư, suy thận), gãy xương, phẫu 
thuật xương khớp trong vòng 5 năm, 
đang dùng các thuốc điều trị loãng xương: 
calcitonin, estrogen, corticoid trong vòng 
6 tháng gần đây. 
2. Phƣơng pháp nghiên cứu. 
Nghiên cứu điều tra cắt ngang trên 
141 phụ nữ đã mãn kinh tự nhiên thoả 
mãn đủ tiêu chuẩn nghiên cứu. 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
122 
* Nội dung nghiên cứu: 
- Tuổi đối tượng nghiên cứu. 
- Chỉ số khối cơ thể. 
- Thời gian mãn kinh, mãn kinh tự 
nhiên hay sau phẫu thuật tử cung, buồng 
trứng, số lần sinh đẻ. 
- Khám lâm sàng và khai thác tiền sử: 
phát hiện các bệnh tật liên quan. 
- Đo MĐX: bằng phương pháp siêu âm 
định lượng vị trí gót chân, sử dụng máy 
đo Sonost-3000 (Hãng Osteosys, Hàn 
Quốc). Nguyên lý, máy đo sử dụng hai 
đầu dò, một đầu dò truyền xung siêu âm 
và một đầu dò nhận xung siêu âm ở bên 
đối diện của xương gót chân. Trong quá 
trình truyền xung siêu âm, đầu dò sẽ di 
chuyển dọc theo xương gót của BN. Tốc 
độ truyền xung tính theo m/s (SOS - 
Speed of Sound). Ở mô xương bình 
thường, xung siêu âm truyền qua mô 
xương có thời gian ngắn, tốc độ truyền 
xung nhanh, ở BN loãng xương, thời gian 
truyền xung siêu âm dài hơn, tốc độ 
truyền xung chậm hơn và biên độ nhận 
xung bên đối diện sẽ ít hơn. So sánh tốc 
độ truyền âm qua vị trí xương gót chân 
người trẻ tuổi, khoẻ mạnh từ cơ sở dữ 
liệu trong máy đo (quần thể tham chiếu 
của người châu Á), tính ra được chỉ số T 
(T-score). MĐX bình thường T-score 
≥ -1,0; giảm MĐX: -2,5 < T-score < -1,0; 
loãng xương: T-score ≤ -2,5 [2]. 
- Định lượng nồng độ dấu ấn sinh học 
chu chuyển xương: bằng phương pháp 
điện hóa phát quang miễn dịch trên máy 
Elecsys - 2010 - Roche tại Trung tâm 
Nghiên cứu Y - Dược học quân sự, Học 
viện Quân y. Gồm có 2 chỉ tiêu: 
+ Osteocalcin huyết thanh: đánh giá 
quá trình tạo xương. 
+ C-telopeptide crosslink (CTX) huyết 
thanh: đánh giá quá trình hủy xương. 
* Phân tích và xử lý số liệu: 
- Các số liệu được xử lý trên máy vi 
tính bằng phương pháp thống kê y học 
theo chương trình SPSS 16.0. 
- Trung bình, độ lệch chuẩn và tỷ lệ 
được dùng để mô tả đặc điểm của đối 
tượng nghiên cứu. 
- Test "χ2 " dùng kiểm định sự khác biệt 
giữa 2 tỷ lệ. 
- Test “t” dùng kiểm định sự khác biệt 
giữa 2 trị số trung bình. 
- Hệ số tương quan “r”: đánh giá hệ số 
tương quan với biến liên tục. Phân loại 
mức độ: r < ± 0,3 có mối tương quan yếu; 
r = ± 0,3 đến ± 0,6 có mối tương quan trung 
bình, r ≥ ± 0,7 có mối tương quan chặt chẽ. 
- Khoảng tin cậy 95% được áp dụng cho 
toàn bộ các test, khác biệt khi giá trị p < 0,05. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ 
BÀN LUẬN 
Một chu kỳ chu chuyển xương gồm 3 
giai đoạn: giai đoạn hủy xương, giai đoạn 
chuyển đổi và giai đoạn tạo xương mới. 
Thời gian cho một chu kỳ chu chuyển 
diễn ra khoảng 3 - 6 tháng. Định lượng 
dấu ấn sinh học chu chuyển xương cho 
phép đánh giá được tốc độ chu chuyển 
xương, từ đó đánh đánh giá được tốc độ 
mất xương. Đây là kỹ thuật mới, hiện đại 
để nghiên cứu và ứng dụng trong thực 
hành lâm sàng chẩn đoán, theo dõi điều 
trị loãng xương hiện nay. 
1. Đặc điểm chung nhóm nghiên cứu. 
- Tuổi trung bình 58,78 ± 4,9 (50 - 70 tuổi). 
- Thời gian mãn kinh trung bình 10,5 ± 
5,7 năm (5 - 33 năm). 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
123 
2. Nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh. 
 Bảng 1: Đặc điểm nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh. 
 (ng/ml) 
(n = 141) 
CTX (ng/ml) 
(n = 141) 
Giá trị trung bình (ng/ml) 19,92 ± 5,32 0,65 ± 0,19 
Điểm cắt giá trị xét nghiệm theo đường cong ROC 
18,65 0,615 
< 18,65 (46,8%) < 0,615 (45,4%) 
≥ 18,65 (53,2%) ≥ 0,615 (54,6%) 
- Nồng độ osteocalcin huyết thanh 
trung bình 19,92 ± 5,32 ng/ml, 53,2% BN 
có nồng độ osteocalcin huyết thanh cao 
> 18,65 ng/ml. 
- Nồng độ CTX huyết thanh trung bình 
0,65 ± 0,19 ng/ml, 54,6% BN có nồng độ 
CTX huyết thanh cao > 0,615 ng/ml. 
Kết quả này cao hơn nghiên cứu của 
Lê Thu Hà: nồng độ osteocalcin trung 
bình ở phụ nữ mãn kinh là 16,9 ± 9,2 
ng/ml, nhóm trẻ tuổi chưa mãn kinh là 
13,8 ± 5,9 ng/ml [1], nhưng thấp hơn so 
với nghiên cứu của Marlena C và CS ở 
phụ nữ mãn kinh người Indonesia và 
Philippines có nồng độ osteocalcin trung 
bình 31,85 ± 2,62 ng/ml và 32,33 ± 2,24 
ng/ml [3]. Nồng độ các dấu ấn chu 
chuyển xương nói chung đều tăng và 
dao động lớn, phụ thuộc vào tình trạng 
loãng xương, mãn kinh và tuổi cao. Do 
đó, ở đối tượng nghiên cứu khác nhau 
sẽ có kết quả dao động khác nhau. 
3. Mối liên quan giữa nồng độ osteocalcin và CTX huyết thanh trung bình với 
tuổi và loãng xƣơng. 
Bảng 2: So sánh giữa nồng độ dấu ấn chu chuyển xương giữa các nhóm tuổi. 
(n) (ng/ml) CTX (ng/ml) 
50 - 54 35 20,88 ± 4,59 0,65 ± 0.18 
55 - 59 51 20,11 ± 6,54 0,59 ± 0,16 
60 - 64 35 19,69 ± 4,81 0,68 ± 0,17 
65 - 70 20 18,19 ± 3,36 0,75 ± 0,19 
Tổng 141 p > 0,05 p < 0,01 
Nồng độ osteocalcin huyết thanh giảm dần theo tuổi, tuy nhiên sự khác biệt không 
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Ngược lại, nồng độ CTX có xu hướng tăng lên theo 
tuổi, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Osteocalcin là một dấu ấn sinh học 
của quá trình tạo xương, ở người trẻ cân bằng tạo xương cao hơn huỷ xương, do đó 
nồng độ dấu ấn tạo xương tăng cao hơn nồng độ dấu ấn hủy xương. 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
124 
Bảng 3: So sánh nồng độ dấu ấn chu chuyển xương với mức độ loãng xương. 
 (ng/ml) 
(n = 141) 
CTX (ng/ml) 
(n = 141) 
A. Bình thường (≥ -1)
4 16,46 ± 4,64 0,457 ± 0,115 
B. Giảm (-2,5 đến -1)
68 20,78 ± 4,10 0,588 ± 0,134 
C. Loãng xương (≤ -2,5)
69 19,29 ± 6,23 0,721 ± 0,197 
Mức độ tăng nồng độ dấu ấn chu chuyển 
xương ở nhóm loãng xương so với nhóm 
bình thường (%) = (C-A ) x 100/A 
 17,2 57,7 
p p > 0,05 p < 0,001 
- Ở nhóm loãng xương, nồng độ 
osteocalcin huyết thanh tăng so với nhóm 
có MĐX bình thường (17,2%), tuy nhiên 
sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
(p > 0,05). 
- Ở nhóm loãng xương, nồng độ CTX 
huyết thanh tăng so với nhóm có MĐX 
bình thường là 57,7%, sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,001). 
Ở người già, cân bằng bị đảo lộn, hủy 
xương cao hơn tạo xương. Ở phụ nữ 
mãn kinh đang có loãng xương, tốc độ 
chu chuyển xương tăng lên, mà tốc độ 
chu chuyển xương là vòng quay của cả 
tạo xương và hủy xương. Tuy nhiên, 
hủy xương mạnh hơn tạo xương. Do đó, 
cả hai dấu ấn sinh học chu chuyển xương 
(ostocalcin và CTX) đều tăng lên ở giai 
đoạn loãng xương, nhưng dấu ấn hủy 
xương tăng mạnh hơn dấu ấn tạo xương 
[5]. Điều này lý giải tại sao nồng độ 
osteocalcin của đối tượng nghiên cứu cao 
hơn so với người trẻ tuổi và tăng lên ở 
nhóm có loãng xương và mức độ tăng 
không nhiều bằng dấu ấn hủy xương CTX.
4. Mối tƣơng quan giữa osteocalcin và CTX huyết thanh với T-score và thời 
gian mãn kinh. 
Bảng 4: Mối tương quan giữa T-score, tuổi, thời gian mãn kinh với dấu ấn chu 
chuyển xương. 
Nồng độ osteocalcin r = 0,1, p > 0,05 
y = -0,175 x tuổi + 0,185 
r = - 0,17, p < 0,05 
r = -0,14, p > 0,05 
Nồng độ CTX 
y = -0,109 x 
T-score + 0,381 
r = -0,43, p < 0,01 
y = 0,008 x tuổi + 0,194 
r = 0,21, p < 0,05 
y = 0,009 x thời gian mãn 
kinh + 0,56 
r = 0,27, p < 0,01 
- Nồng độ osteocalcin huyết thanh 
không có mối tương quan với T-score (r 
= 0,1; p > 0,05), tương quan 
nghịch mức độ yếu với tuổi (r = -0,17; p 
< 0,05) và không thấy mối tương quan 
với thời gian mãn kinh (r = -0,14; p 
> 0,05). 
- Nồng độ CTX huyết thanh có mối 
tương quan nghịch mức độ trung bình 
với T-score (r = -0,43, p < 0,01), tương 
quan thuận mức độ yếu với tuổi (r = 0,21, p 
< 0,01) và tương quan thuận mức độ 
yếu với thời gian mãn kinh (r = 0,27; p 
< 0,01). 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
125 
Kết quả của chúng tôi tương tự 
nghiên cứu của Marlena và CS ở phụ nữ 
mãn kinh người Indonesia và Philippines 
có nồng độ CTX trung bình 0,57 ng/ml và 
0,62 ng/ml [3], nhưng cao hơn kết quả 
của Lê Thu Hà với nồng độ CTX trung 
bình ở phụ nữ mãn kinh là 0,56 ± 0,30 
ng/ml, nhóm trẻ tuổi chưa mãn kinh là 
0,28 ± 0,20 ng/ml và nồng độ CTX huyết 
thanh ở phụ nữ mãn kinh có tương quan 
thuận với tuổi, thời gian mãn kinh [1]. 
Như vậy, nồng độ các dấu ấn chu 
chuyển xương tăng lên ở BN loãng 
xương (osteocaclcin 17,2%, CTX 
57,7%). Điều này phản ánh tốc độ chu 
chuyển xương tăng lên ở nhóm có 
loãng xương. Tuy nhiên, quá trình hủy 
xương mạnh hơn quá trình tạo xương, 
do đó cân bằng của chu chuyển 
xương thiên về hủy xương. Việc xác 
định và theo dõi nồng độ các dấu ấn 
chu chuyển xương có ý nghĩa đánh giá 
tốc độ chu chuyển xương và chiều 
hướng thay đổi cân bằng chu chuyển 
xương, từ đó cho phép theo dõi đánh 
giá hiệu quả thuốc điều trị loãng xương 
trong thời gian 3 - 6 tháng theo chu kỳ 
của chu chuyển xương. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu phụ nữ nông thôn đã 
mãn kinh ≥ 5 năm, tuổi ≥ 50 và ≤ 70 
tuổi, kết quả cho thấy: 
- Nồng độ osteocalcin huyết thanh 
trung bình 19,92 ± 5,32 ng/ml; tăng 
17,2% ở nhóm loãng xương so với 
nhóm có MĐX bình thường; giảm dần 
theo nhóm tuổi (r = -0,17, p < 0,05). 
- Nồng độ CTX huyết thanh trung 
bình 0,65 ± 0,19 ng/ml; tăng 57,7% ở 
nhóm loãng xương so với nhóm có 
MĐX bình thường; tương quan nghịch 
mức độ trung bình với T-score, thời 
gian mãn kinh và tương quan thuận 
mức độ yếu với tuổi, p < 0,05. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Lê Thu Hà, Vũ Thị Thanh Hoa, 
Nguyễn Thị Hương. Liên quan giữa nồng 
độ osteocalcin, beta - crosslab huyết thanh 
và một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở 
phụ nữ mãn kinh. Tạp chí Nội khoa Việt 
Nam, số đặc biệt tháng 10/2013 (chuyên đề 
Cơ xương khớp, chào mừng Hội nghị khoa 
học Toàn quốc lần thứ XI Hội Thấp khớp học 
Việt Nam). 2013, tr.235-243. 
2. Langton C. M, Langton D. K. 
Comparison of bone mineral density and 
quantitative ultrasound of the calcaneus: 
site-matched correlation and discrimination 
of axial BMD status. Br J Radiol. 2000, 73 
(865), pp.31-35. 
3. Marlena C, Kruger L.M, Barbara 
Kuhn-Sherlock, Andon Hestiantoro, Paulus 
Wijanto, and I.A. Julie Li-Yu , Joanne M. 
Todd, Richard Eastell. The effect of a 
fortified milk drink on vitamin D status and 
bone turnover in post-menopausal women 
from South East Asia. Bone. 2010, 46, 
pp.759-767. 
4. Sonia A Talwar MD, George T Griffing 
MD. Bone markers in osteoporosis. 
Medscape. (Updated: Jan 3, 2012). 
5. Vasikaran S, Eastell R, Bruyère AJ, 
Foldes P, Garnero A, Griesmacher, 
McClung M, MorrisH. A. Markers of bone 
turnover for the prediction of fracture risk 
and monitoring of osteoporosis treatment: 
a need for international reference 
standards. Osteoporos Int. 2011, 22, 
pp.391-420. 
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014 
126 

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_quan_giua_osteocalcin_ctx_huyet_thanh_voi_t_score_v.pdf