Mối quan hệ giữa Phật giáo với nền kinh tế, chính trị Trung Quốc thời Tùy - Đường

TÓM TẮT: Phật giáo thời Tùy - Đường phát triển rực rỡ về mọi mặt, tạo ra trạng thái

tinh thần mới cho Phật giáo Trung Hoa và biến thành thứ tôn giáo theo kiểu Trung Quốc.

Sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn này tuy chịu ảnh hưởng bởi chính sách của

các đế vương đương thời nhưng đồng thời cũng tác động đáng kể đến nền kinh tế - xã hội

của Trung Hoa.

pdf 10 trang yennguyen 6200
Bạn đang xem tài liệu "Mối quan hệ giữa Phật giáo với nền kinh tế, chính trị Trung Quốc thời Tùy - Đường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa Phật giáo với nền kinh tế, chính trị Trung Quốc thời Tùy - Đường

Mối quan hệ giữa Phật giáo với nền kinh tế, chính trị Trung Quốc thời Tùy - Đường
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Quỳnh 
51 
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT GIÁO VỚI 
NỀN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ TRUNG QUỐC THỜI TÙY - ĐƯỜNG 
RELATIONSHIP BETWEEN BUDDHISM 
AND CHINA’S POLITICS IN SUI-TANG PERIOD 
NGUYỄN THỊ QUỲNH 
 ThS. Trường Đại học Văn Lang, nguyenthiquynh@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH11-14-2018 
TÓM TẮT: Phật giáo thời Tùy - Đường phát triển rực rỡ về mọi mặt, tạo ra trạng thái 
tinh thần mới cho Phật giáo Trung Hoa và biến thành thứ tôn giáo theo kiểu Trung Quốc. 
Sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn này tuy chịu ảnh hưởng bởi chính sách của 
các đế vương đương thời nhưng đồng thời cũng tác động đáng kể đến nền kinh tế - xã hội 
của Trung Hoa. 
Từ khóa: Phật giáo; Lịch sử Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường; kinh tế - chính trị. 
ABSTRACT: In Tang-Sui period, Buddhism flourished in all aspects, creating a new 
spiritual state for Chinese Buddhism and became a Chinese-style religion. The development 
of Buddhism in this period, though influenced by the policies of the contemporary emperors, 
also had a significant impact on China's socio-economy. 
Key words: Buddhism; history of Chinese Buddhism in Tang-Sui period; socio-economy. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bàn về lịch sử Trung Quốc, không thể bỏ 
qua ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống 
kinh tế, chính trị, xã hội. Khi nghiên cứu vấn 
đề này, chúng ta nhận thấy Phật giáo thời Tùy 
- Đường trở thành dòng chủ lưu trong các 
dòng tư tưởng của một thời kỳ lịch sử thịnh 
vượng về nhiều mặt của Trung Quốc. 
Để đạt được sự hưng thịnh, Phật giáo đã 
trải qua nhiều thăng trầm bởi những chính 
sách của các nhà cầm quyền. Đã có nhiều 
công trình bàn về vấn đề này, tuy nhiên để 
làm rõ hơn mối quan hệ giữa Phật giáo với 
kinh tế - chính trị Trung Quốc thời Tùy - 
Đường thường chưa được làm rõ. Thông 
qua bài viết này, chúng tôi cố gắng làm sáng 
rõ thêm một số điểm trong vấn đề trên. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Tổng quan về đề tài và phương pháp 
nghiên cứu 
Lịch sử Trung Hoa nói chung đã có 
nhiều công trình nghiên cứu như: Doãn 
Chính, Đại cương lịch sử triết học Trung 
Quốc, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Đại 
cương triết học Trung Quốc, Nguyễn Đăng 
Thục, Lịch sử triết học Phương Đông 
(2001), Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh, 
Triết giáo Đông phương,... Trong các công 
trình đó, có một phần đề cập đến giai đoạn 
lịch sử Trung Quốc thời Tùy - Đường. Vấn 
đề Phật giáo ở Trung Quốc có các tác phẩm 
như: Henri Maspero, Đạo giáo và các tôn 
giáo Trung Quốc, Vương Chí Bình, Các đế 
vương với Phật giáo, Thích Thanh Từ, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
52 
Thiền sư thần hội,... đề cập đến một số vấn 
đề và sự thăng trầm của Phật giáo Trung 
Hoa qua các thời kỳ. Ảnh hưởng của Phật 
giáo trong văn hóa, xã hội cũng được phản 
ánh trong thi ca, để lại cho hậu thế những 
vần thơ bất hủ (Lê Nguyễn Lưu, Đường thi 
tuyển dịch). Những công trình kể trên hầu 
như chưa bàn sâu về mối quan hệ giữa Phật 
giáo với nền kinh tế - chính trị Trung Quốc 
thời Tùy - Đường. 
Bài viết được thực hiện dựa trên cơ sở 
thế giới quan và phương pháp luận chủ 
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy 
vật lịch sử. Đồng thời, tác giả còn sử dụng 
hệ thống phương pháp phân tích - tổng hợp, 
quy nạp và diễn dịch, logic và lịch sử phối 
hợp với một số phương pháp khác. 
2.2. Khái quát đặc điểm lịch sử - tư 
tưởng thời Tùy - Đường 
Tùy Văn Đế đã thực hiện nhiều biện 
pháp nhằm xây dựng chế độ phong kiến 
nhà Tùy vững mạnh, tiếp tục thi hành chế 
độ quân điền, giảm nhẹ nghĩa vụ tô thuế và 
lao dịch cho nông dân, thống nhất tiền tệ, 
mở khoa thi để chọn nhân tài trong tầng lớp 
địa chủ bình dân,... Do vậy, xã hội lúc bấy 
giờ tương đối ổn định, kinh tế bước đầu 
phát triển. Tiếc rằng, sau khi lên ngôi, Tùy 
Dưỡng Đế đã thực hành một chính sách 
thống trị tàn bạo, ăn chơi xa hoa, và nhiều 
lần đưa quân gây chiến với các nước lân 
cận. Cuộc sống của nhân dân đã khổ cực 
nay càng thêm điêu đứng. Chính vì thế, các 
cuộc khởi nghĩa của nông dân chống nhà 
Tùy liên tiếp nổ ra ở Sơn Đông, Hà Bắc, 
lưu vực Trường Giang và Hoàng Hà. Đến 
năm 615, phong trào khởi nghĩa lan rộng ra 
khắp nước, với lực lượng hàng triệu người 
tham gia. Trong đó, quan trọng nhất là cuộc 
khởi nghĩa của Lý Mật ở Hà Nam, Đậu 
Kiến Đức ở Hà Nam, Đỗ Phục Huy ở nam 
sông Hoài. Năm 616, nhà Tùy diệt vong 
(nhà Tùy tồn tại trong ba mươi năm, trải 
qua ba đời vua). Thời gian trị vì của nhà 
Tùy tuy ngắn, nhưng đối với Phật giáo lại 
là một giai đoạn hết sức quan trọng cho sự 
hồi sinh để tạo thế đứng mới trong đời sống 
tinh thần xã hội. “Có thể nói Phật giáo 
Trung Quốc nếu không có thời gian ngắn 
ngủi quý báu đời Tùy để phục hưng thì 
không thể có thời kỳ thịnh vượng và rực rỡ 
ở đời Đường” [3, tr.499]. 
Lợi dụng những thành quả của cuộc 
khởi nghĩa nông dân, năm 618 lực lượng 
quý tộc địa phương đứng đầu là Lý Uyên 
(Đường Cao Tổ), sau đó là Lý Thế Dân 
(Đường Thái Tông) đã tiêu diệt các lực 
lượng cát cứ, lập nên đế quốc Đại Đường 
thống nhất. 
Để củng cố vững chắc nền thống trị, 
các vua triều đại nhà Đường luôn ra sức 
duy trì sự thống trị về chính trị, phát triển 
kinh tế - xã hội. Thời vua Đường Thái 
Tông, thi hành nhiều chính sách nhằm xoa 
dịu mâu thuẫn giai cấp và nhượng bộ đối 
với nhân dân. Có thể nói, thời Đường Thái 
Tông là thời kỳ phát triển của chế độ phong 
kiến Trung Quốc. 
Tiếp đến, Trung Quốc dưới sự cai trị 
của Võ Tắc Thiên, bà đã tập trung mọi cố 
gắng xây dựng nền độc tài cá nhân để giữ 
vững quyền lực cai trị của mình. Cuộc sống 
của nhân dân lao động Trung Quốc càng 
thống khổ hơn bởi lao dịch, binh dịch và 
thuế khóa ngày càng tăng. 
Sau đó, vua Đường Huyền Tông đã thi 
hành nhiều chính sách nhằm ổn định tình 
hình xã hội, chỉnh đốn lại bộ máy chính quyền 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Quỳnh 
53 
từ trung ương đến địa phương, chú trọng phát 
triển sản xuất và tiết kiệm. Những biện pháp 
trên đã làm cho thể chế xã hội trở nên trật 
tự hơn và vững vàng hơn; nền kinh tế trại ấp 
phong kiến và kinh tế nhà chùa phát triển. 
Trung Quốc bước vào thời kỳ phồn thịnh. 
Sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã 
hội dẫn đến khoa học và văn hóa thời nhà 
Đường cũng có bước phát triển vượt bậc. 
Tính chất đa dạng và sôi động của đời sống 
xã hội đã làm cho đời sống tinh thần trở 
nên phong phú và sống động hơn, biểu hiện 
trên tất cả các lĩnh vực như kỹ thuật, khoa 
học, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, triết 
học,... Những kết quả đạt được rõ nhất là 
trong các lĩnh vực luyện đúc gang thép; làm 
giấy bằng tre, bạch đàn, rơm rạ, đặc biệt là 
dùng trúc để chế tạo giấy “trúc chỉ”; kỹ 
thuật in ấn bằng bản khắc gỗ; chế tạo thuốc 
nổ bằng hỗn hợp lưu huỳnh, diêm sinh, 
than gọi là “hỏa dược” dùng để trị “ghẻ, lở, 
sát trùng, chống phong thấp, ôn dịch”,... 
Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật và thi 
ca, đến đời Đường, Trung Quốc đã có bước 
phát triển nhảy vọt và đạt đến đỉnh cao, tạo 
ra một phong cách nghệ thuật thi ca độc đáo, 
gọi là “Đường thi”. Trong 2000 nhà thơ còn 
lưu danh đến nay, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch 
Cư Dị là ba nhà thơ lớn nhất của nền thơ ca 
Đường. Trong đó, Lý Bạch được coi là nhà 
thơ lãng mạng vĩ đại. Sau Khuất Nguyên, 
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực lớn nhất trong 
lịch sử văn hóa Trung Quốc và Bạch Cư Dị 
nổi tiếng với chủ trương thơ ca phải phản 
ánh nỗi thống khổ của nhân dân [4, tr.431]. 
Tuy nhiên, dưới sự thống trị hà khắc 
của vua chúa nhà Đường cùng với sự bóc 
lột tàn bạo của bọn quý tộc địa chủ, đời 
sống của nhân dân lao động, đặc biệt là 
nông dân, hết sức cực khổ. Mâu thuẫn giai 
cấp trong xã hội, chủ yếu là mâu thuẫn giữa 
giai cấp địa chủ với quảng đại quần chúng 
lao động ngày càng gay gắt. Quá khổ cực 
và “không thể sống cuộc sống như trước 
nữa” [4, tr.431], sau vụ An Lộc Sơn và Sử 
Tư Minh chống nhà Đường năm 775, cuối 
thời Đường các cuộc khởi nghĩa nông dân 
tiếp tục bùng nổ ở nhiều nơi. Trong đó lớn 
mạnh và tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa 
nông dân do Vương Tiêu Chi và Hoàng 
Sào lãnh đạo ở Sơn Đông. Quân khởi nghĩa 
đã nêu ra khẩu hiệu “xung thiên”, tuyên 
chiến với “Thiên mệnh luận” của Khổng 
Tử, phê phán tư tưởng “thiên bất biến đạo 
diệt bất biến” của Đổng Trọng Thư. 
Trong lĩnh vực tư tưởng, từ Nam - Bắc 
triều đến Tùy - Đường, Huyền học suy 
thoái, không còn đóng vai trò là hệ tư 
tưởng thống trị xã hội, triết học của Nho 
giáo và Đạo gia cũng đình đốn. Triết học 
Phật giáo với ý nghĩa đạo đức nhân sinh và 
trí tuệ sâu sắc đã chứng tỏ có những phát 
kiến về các mặt phân tích khái niệm, suy lý 
logic cũng như chiêm nghiệm vũ trụ, nhân 
sinh, phản tính lý tính con người. Những 
thế lực thống trị phong kiến thời Nam - Bắc 
triều và Tùy - Đường đã nhìn thấy ở Phật 
giáo thứ công cụ tinh thần có khả năng làm 
tê liệt tư tưởng của nhân dân. Hơn nữa, ở 
vào thời buổi loạn lạc liên miên, những thế 
lực thống trị bị lung lay cũng cần đạo Phật 
an ủi về mặt tinh thần. Cơ sở của kinh tế 
trại ấp phong kiến, thế lực kinh tế của địa 
chủ cường hào, của đại địa chủ và nhà chùa 
càng mở rộng hơn. Nhà chùa không chỉ 
chiếm nhiều ruộng đất, mà còn cho vay 
nặng lãi, thậm chí có những tăng nhân trở 
thành “tỷ phú”. Vì thế, tư tưởng Phật giáo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
54 
và thần học dần dần chiếm địa vị chi phối 
giới có học thức thời bấy giờ và trở thành 
vũ khí tinh thần của giai cấp thống trị 
phong kiến thời Nam - Bắc triều và thời 
Tùy - Đường. 
 Thời Nam - Bắc triều, việc nghiên cứu 
các giáo lý Phật giáo, dẫn đến sự xuất hiện 
các môn phái Phật giáo khác nhau, đánh 
dấu sự “Trung Quốc hóa” Phật giáo. Phật 
giáo Trung Quốc thời Tùy - Đường là thời 
kỳ cực thịnh. Những nhà triết học có tư duy 
sắc sảo và tác phẩm triết học của họ phần 
lớn đều thuộc lĩnh vực Phật giáo. Sự hấp 
thu và dung hợp lẫn nhau giữa Nho, Đạo và 
Phật đã dẫn đến cuộc dung hợp lần thứ ba, 
lấy Phật giáo làm chủ đạo trong triết học 
Trung Quốc. Sự cực thịnh của Phật giáo 
không chỉ ở chỗ triết lý, tín ngưỡng của nó 
đóng vai trò thống trị trong đời sống xã hội, 
thu hút các cuộc tranh luận thời đó vào 
những vấn đề triết học, mà còn biểu hiện ở 
sự hình thành nhiều tông phái Phật giáo 
khác nhau cùng với các giới luật chặt chẽ 
và phức tạp như “ngũ giới”, “bát giới”, 
“thập giới”, “câu túc giới”, giới tiểu thừa và 
giới đại thừa. 
Từ thời Tùy - Đường đến thời Đường 
đã xuất hiện tám tông phái lớn: Tam Luận 
tông do Cát Tạng sang lập. Ông căn cứ vào 
các sách kinh điển của Phật giáo như Trung 
luận, Thập Nhị Môn luận, Bách luận. 
Thiên Đài tông do Dị Tri sáng lập, ông 
sống vào giữa thời Trần và thời Tùy. Vì 
ông ở Thiên Đài Sơn nên có tên là Thiên 
Đài Tông; kinh sách chủ yếu của phái này 
là Pháp hoa kinh. 
Pháp tướng tông do Huyền Trang và đệ 
tử Khuy Cơ sáng lập. Kinh điển chủ yếu 
của phái này là Giải thâm mật kinh, Du da 
sư địa luận, Thành duy thức luận, Thành 
luận thức luận thuật ký do Khuy Cơ viết. 
Hoa Nghiêm tông do Pháp Tạng tử 
Hiền Thủ thời sơ Đường sáng lập. Kinh 
điển chủ yếu của phái này là Hoa nghiêm 
kinh, đề xướng “pháp giới duyên khởi”. 
Tịnh độ tông do hoàng thượng Thiện 
Đạo thời sơ Đường sáng lập. Kinh điển chủ 
yếu gồm có Vô lượng thọ kinh, Quán vô 
lượng thọ kinh, A Di Đà kinh. 
Luật tông, còn có tên là Nam Sơn Luật 
tông, do Đường Độ Tuyên lập nên, lấy Tứ 
Phần Luật làm kinh điển chủ yếu, nên có 
tên là Luật tông. 
Mật tông, được Thiện Vô Úy, Kim 
Cương Trí, Bát Không truyền vào Trung 
Quốc đầu thời Khai Nguyên. Đời Đường 
lấy Kim Cương Đính Kinh, Đại Nhật Kinh 
làm kinh điển chủ yếu. 
Cuối cùng là Thiền tông do Huệ Năng 
sáng lập. Có thể nói, sự xuất hiện của Thiên 
Đài tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông đã 
đánh dấu tiến trình “Trung Quốc hóa” Phật 
giáo đã hoàn thành. 
Thông qua sự lưu hành rộng rãi các hình 
thức kinh kệ, thờ cúng và giới luật khắt khe, 
giai cấp quý tộc phong kiến thống trị và quý 
tộc tăng lữ ra sức tuyên truyền hệ thống triết 
lý duy tâm thần bí của họ. Đặc biệt, các môn 
phái Phật giáo nghiên cứu sâu về cái “tâm”, 
luận về mối quan hệ giữa “sắc” và “không”; 
“tâm” và “vật”; “chân như”, “tự tính” với 
‘giả tưởng”, “huyền ảo”; giữa “lý” và “sự”; 
“sở tri” (biết được) và “năng tri” (có thể biết 
được). Họ bịa ra căn cứ luận cho những tư 
tưởng hoang đường về cái gọi là “linh hồn 
bất tử” (thần bất diệt luận), “nhân quả ứng 
báo”, “luân hồi”, “siêu thoát”, để mê hoặc 
nhân dân lao động, đưa người ta đến chỗ trốn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Quỳnh 
55 
tránh hiện thực, cam chịu đau khổ, đem hy 
vọng gửi ở cõi thiên đường nào đó. 
Thời Nam - Bắc triều và Tùy - Đường, 
ngoài các cuộc khởi nghĩa nông dân, trên mặt 
trận tư tưởng cũng diễn ra các cuộc tranh 
luận, phê phán không kém phần quyết liệt 
giữa các nhà triết học duy vật vô thần như Hà 
Thứa Thiên, Phạm Chẩn với tư tưởng “thần 
diệt luận” chống lại quan điểm duy tâm, 
hoang đường “thần bất diệt luận” của triết lý, 
tín ngưỡng Phật giáo đương thời. 
Đặc biệt, để bảo vệ luân lý cương 
thường phong kiến, ủng hộ lợi ích của giai 
cấp địa chủ, trước sự hình thành của tư 
tưởng Phật, Lão và sự tràn lan của thần học 
uy hiếp nền thống trị phong kiến dựa trên 
luân lý đạo đức, chính trị của Nho gia 
truyền thống, Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, 
Lý Cao, Lưu Vũ Tích chủ trương phục 
hưng Nho học. Hàn Dũ là người bài xích 
Phật giáo mạnh nhất. Ông chủ trương áp 
chế Phật giáo bằng phương pháp bài xích 
thô bạo “cải tạo con người thành người 
thường, lấy chỗ ở, đốt sách” (nhân kỳ nhân, 
lỗ kỳ cư, hỏa kỳ thư). Lý luận của ông dựa 
vào sự kỳ thị “tranh luận giữa Hoa và Di” 
là không có sức thuyết phục. Vũ trụ quan 
và nhân tính luận của ông đều rập khuôn 
học thuyết “Thiên Nhân hợp nhất” và “tính 
tam phẩm” của Đổng Trọng Thư đời Hán, 
không có sáng tạo mới. Tuy nhiên, việc 
Hàn Dũ chống đối “pháp thống” của đạo 
Phật, rồi lại mô phỏng hệ thống truyền 
pháp từ đời này sang đời khác, giúp cho 
Nho gia tạo ra cái gọi là “Đạo Thống” tiếp 
nối từ Nghiêu, Thống, Văn, Vũ, Chu Công 
đến Khổng Mạnh, có ảnh hưởng to lớn 
đến hình thái ý thức ở các thời Tống, Minh 
trở về sau. 
Người kế tục Hàn Dũ là Lý Cao khi 
phát triển nhân tinh luận của Nho gia đã 
viện dẫn lý luận Phật tính của Thiền tông, 
đề xuất thuyết “ diệt tình phục tính” cũng 
như các nhà thiền học cho rằng ai ai cũng 
có Phật tính, chỉ cần diệt trừ suy nghĩ xấu 
xa, lệch lạc là có thể thành Phật. Liễu Tông 
Nguyên, chủ trương lấy Nho làm cốt lõi 
“thống hợp Nho, Thích” (Phục tính thư, 
thượng), thu nhận bách gia. Ông cho rằng, 
Nho và Phật có nhiều chỗ gặp nhau, cơ sở 
của sự thống hợp là “nhân tính” và “tính 
thiện”, cho nên nhập Phật học và tư tưởng 
Nho gia truyền thống để làm phong phú và 
trợ giúp đạo ta. Người đồng quan điểm với 
Liễu Tông Nguyên là Lưu Vũ Tích. Ông 
cho rằng, Phật học có thể “âm trợ giao 
hòa”, bổ sung cho Nho học. 
Rõ ràng, cuộc đấu tranh tư tưởng giữa 
các trường phái triết học Nho giáo, Đạo 
giáo ở thời Tùy - Đường là một cuộc đấu 
tranh hết sức phức tạp, gay gắt và sôi động. 
Trong quá trình đó, Nho giáo, Lão giáo đã 
ti ... truyền đạo của giới 
tăng ni, các đế vương Trung Hoa cũng góp 
một phần không nhỏ, họ nhìn thấy đây là 
một vũ khí tư tưởng trong nền thống trị của 
giai cấp phong kiến cổ đại, và vũ khí đó 
được sử dụng khá quen thuộc, thành thạo 
và ngày càng được trọng dụng. “Phật giáo 
đời Đường hoàn toàn lệ thuộc vào quyền 
chi phối của quốc gia và trở thành một tôn 
giáo chấn hộ quốc gia, chiếm một vị trí rất 
trọng yếu, Phật giáo nghiễm nhiên được 
coi như quốc giáo” [7, tr.184]. 
Năm 502, Tiêu Diễn diệt Tiêu Bảo 
Quyển, tự xưng là hoàng đế, đổi nước Tề 
thành nước Lương - hiệu là Lương Vũ Đế. 
Ông mượn tam cương ngũ thường của Nho 
giáo để duy trì trật tự thống trị, đồng thời 
cũng tôn trọng Phật giáo, lấy đó để lung lạc 
tăng lữ và những tín đồ Phật giáo, hướng 
những lợi ích mà họ quan tâm trước mắt 
vào kiếp sau. Năm 504 Lương Vũ Đế hạ 
chiếu, ông từ bỏ Đạo giáo, quy y Phật. Năm 
519, ông thọ Bồ Tát Giới tại điện Vô Ngại. 
Từ đó, mọi người gọi ông là hoàng đế Bồ 
Tát. Sau khi thọ giới, ông tự biến mình 
thành một tín đồ tu hành khổ hạnh, là tấm 
gương phản chiếu sáng ngời đối với vô số 
các vị đế vương ăn chơi xa hoa trong lịch 
sử Trung Quốc. Cơ sở lý luận của ông chủ 
yếu theo giáo lý Phật giáo đại thừa, tức là 
các tăng sĩ cần phải có tấm lòng từ bi rộng 
lớn để không thể gây nên tội lỗi nữa. 
Lương Vũ Đế cũng đã để lại một lượng 
kinh sách đồ sộ. Những điều đó cho thấy, 
ông bỏ Đạo giáo để quy y Phật không 
giống như sự sùng đạo mù quáng của một 
số đế vương phong kiến mà có một số tư 
tưởng nhất định. Điều này thể hiện rõ nhất 
trong tư tưởng tam giáo đồng nguyên và 
tam giáo tịch dụng của ông. 
Vương triều Tùy trị vì 38 năm (581 - 
618) cả hai vị đế vương nhà Tùy đều trọng 
thị Phật giáo, coi Phật giáo là một trong 
những biện pháp rất có hiệu quả để bảo vệ 
và củng cố nền thống trị phong kiến. Khi 
Văn Đế thay nhà Chu lập nhà Tùy năm 
581, đúng vào lúc lệnh tiêu diệt Phật giáo 
của Chu Vũ Đế vừa được bãi bỏ. Sự kiện 
lớn nhất là ông đã ban chiếu cho mọi người 
được phép xuất gia, tự do làm tăng sĩ, ra 
lệnh đóng góp tiền của xây dựng chùa, 
chép kinh, tạc tượng. Nhờ vậy, Phật giáo ở 
vùng phương Bắc Trung Quốc rộng lớn 
được phục hồi mạnh mẽ. 
Tuy nhiên, thái độ của cha con nhà 
Tùy cùng những việc làm của họ với Phật 
giáo bị những nhà sử học lúc bấy giờ gọi là 
những trò “nịnh” Phật, nó hoàn toàn khác 
với những hành động bỏ Đạo quy y Phật 
của Nam triều Lương Vũ Đế. Họ được coi 
là sùng bái một cách mù quáng, nhiệt tình 
với Phật giáo nhưng không biết cách sử 
dụng Phật giáo để duy trì, bảo hộ cho nền 
thống trị của mình. Song, mọi hành động 
gọi là “nịnh” Phật của họ ở mức độ khách 
quan nào đó lại rất có lợi để Phật giáo được 
tiếp tục phát triển [1, tr.190]. 
Trong hơn 20 vị đế vương nhà Đường, 
Võ Tắc Thiên (623 - 704) là người đã khéo 
léo dùng Phật giáo để chiếm ngai vàng. 
Năm 660, đại sự triều chính về cơ bản đều 
thuộc về tay Võ Tắc Thiên. Ngay khi nắm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Quỳnh 
57 
quyền hành, bà chính thức đề cao Phật 
giáo, cho xây dựng thêm nhiều chùa chiền, 
đúc tượng lớn, chép kinh, dịch thuật, trọng 
dụng các vị tăng sư giỏi. Bà làm tất cả 
những việc đó là nhằm lôi kéo giới Phật tử 
về phía mình. 
Để đáp lại sự ủng hộ của Võ Tắc 
Thiên, các tăng đồ Phật giáo cũng tạo dư 
luận lớn về việc bà lên ngôi. “Vĩnh Xương 
nguyên niên (năm 689) có 10 người sa môn 
ngụy soạn “Đại Vân kinh” dâng lên cho 
triều đình. Trong “Đại Vân kinh” nói: có 
một vị bồ tát tên là “Tịnh Quang thiên nữ”, 
Phật dạy bà dùng “Thân nữ” làm đế vương 
thống trị thiên hạ, và vị nữ vương này 
tương lai sẽ còn thành Phật, ám chỉ Võ 
Tắc Thiên sẽ thành nữ hoàng là thuận theo 
ý chỉ của Phật” [2, tr.202]. “Năm 690, 
khoảng 6 vạn người gồm bà con trăm họ 
gần xa, các tù trưởng ở khắp nơi cùng với 
các sa môn Phật giáo dâng biểu xin Võ Thị 
làm Hoàng đế” [3, tr.246]. Đường Duệ 
Tông Lý Đán đành phải nhường ngôi báu 
cho Thái hậu. Võ Tắc Thiên lên ngôi tự 
xưng là Thần Hoàng đế, đổi niên hiệu 
thành Thiên Thụ, đổi tên nước Đường 
thành Chu. Trong quá trình “cách mạng Võ 
Chu”, các sa môn Phật giáo lập công đầu, 
họ không chỉ tìm được lý luận cho việc Võ 
Chu thay nhà Đường để chứng minh cho 
việc Võ Thị làm nữ Hoàng đế là do ý chỉ 
của Phật mà còn có những biểu hiện tích 
cực trong việc đề nghị này. Sau khi lên 
ngôi, Võ Tắc Thiên càng có những chính 
sách nâng đỡ Phật giáo, đặt Phật giáo lên 
trên Đạo giáo. 
Đường Vũ Tông lên ngôi năm 841 tại vị 
được 6 năm, là vị vua duy nhất trong 20 vị 
vua nhà Đường căm ghét Phật giáo. Ông đã 
thực hiện nhiều biện pháp kìm hãm Phật 
giáo trong thời gian dài, giảm số lượng sư sãi 
và nô tì của họ, đốt sách mang nội dung đề 
cao Phật giáo, thiêu hủy số kinh Phật trong 
hoàng cung, bắt đem toàn bộ tượng Phật, 
tượng Bồ tát và các Thiên vương chôn sâu 
xuống dưới đất. Các hoạt động của Đường 
Vũ Tông đã làm suy giảm thế lực Phật giáo, 
làm suy yếu kinh tế nhà chùa khiến Phật giáo 
Trung Quốc suy thoái trầm trọng. 
Việc Đường Vũ Tông diệt Phật giáo 
một phần liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo 
của ông, nhưng nguyên nhân sâu xa là sự 
tranh giành lợi ích kinh tế. Từ khi lập nhà 
Đường, Phật giáo đã được giai cấp thống trị 
phong kiến đề xướng và tôn sùng, ảnh 
hưởng và thế lực của Phật giáo ngày càng 
tăng, đặc biệt là nền kinh tế nhà chùa ngày 
càng phát triển. Tự thân trong Phật giáo đã 
hình thành các tập đoàn kinh tế mà tăng lữ 
đồng thời là các địa chủ, đối lập với nền 
kinh tế của các địa chủ thế tục. Biểu hiện rõ 
nhất ở chỗ họ tranh giành lẫn nhau sức lao 
động và ruộng đất, ảnh hưởng trực tiếp đến 
sự kiến thiết nền kinh tế của nhà nước 
phong kiến. Xét về góc độ kinh tế, đế 
vương là người đại biểu cao nhất của nền 
kinh tế địa chủ thế tục, tất nhiên hoàng đế 
phải bảo vệ lợi ích của mình. Do đó, việc 
diệt Phật của Đường Vũ Tông có lợi cho 
việc củng cố và phát triển của xã hội phong 
kiến trung ương tập quyền, có tác dụng tiến 
bộ về mặt lịch sử. 
Theodore M. Ludwig cho rằng: “Thời 
hoàng kim của Phật giáo đầy vinh quang 
nhưng ngắn ngủi. Dẫu rằng, Phật giáo có 
được hậu thuẫn rộng rãi trong tất cả các 
tầng lớp xã hội, vẫn còn đó những đối thủ 
trong số các tín đồ Khổng, Lão, phần nào 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
58 
trong số ấy vẫn coi Phật giáo là một tín 
ngưỡng ngoại lai. Tính độc lập tương đối 
cùng sự thịnh vượng của các Phật viện và 
tăng đoàn thường bị các vương triều coi 
như một mối đe dọa hiển nhiên” [8, tr.70]. 
Phật giáo hưng thịnh hay suy vong qua 
mỗi thời kỳ lịch sử phụ thuộc không ít vào 
nền chính trị - xã hội cũng như thái độ của 
các đế vương đối với nó. Nhưng tư tưởng 
nhân văn cứu đời độ thế của Phật giáo thì đã 
đi sâu vào lòng quần chúng và đấy mới là sự 
thể hiện chân thành trong ái mộ Phật giáo. 
2.4. Quan hệ giữa tu viện Phật giáo và 
đời sống kinh tế thời Tùy - Đường 
Trong lịch sử Trung Quốc có bốn định 
chế kinh tế liên quan với các tu viện Phật 
giáo hoặc thậm chí phát nguyên chính từ 
các tu viện này. Đó là tiệm cầm đồ, hội 
tương tế, bán đấu giá, và bán vé số. Tiệm 
cầm đồ do các tu viện sáng lập và điều 
hành hoặc có chi nhánh. Sự kiện này bắt 
đầu từ thế kỷ thứ V. Các hội tương tế có 
quan hệ mật thiết với các tu viện Phật giáo 
chậm nhất là vào đời nhà Đường nếu không 
muốn nói là sớm hơn. Các tài sản cá nhân 
của các sư quá cố sẽ được bán đấu giá tại tu 
viện trong đời Đường, Tống, Nguyên và có 
thể còn sớm hơn đời Đường. Bán vé số là 
do các tu viện Phật giáo phát hành để gây 
quỹ bắt đầu từ thời nhà Nguyên. 
Như vậy, quá trình “Trung Quốc hóa” 
Phật giáo đến thời nhà Đường đạt đến đỉnh 
cao và Phật giáo không những tác động vào 
đời sống tư tưởng - văn hóa Trung Quốc 
mà còn là khởi nguyên cho các định chế 
kinh tế [5, tr.898]. 
Việc cầm đồ và tương trợ về mặt tài 
chính đã trở thành những hoạt động phổ 
biến trong đa số nhân dân Trung Quốc bên 
ngoài tu viện. Những người định chế còn 
lại không rõ ràng và cũng không được 
nhiều tài liệu đề cập. Dĩ nhiên, trong lịch sử 
Trung Quốc còn tồn tại nhiều định chế kinh 
tế nhưng ở đây chúng ta chỉ bàn đến ba 
định chế ở thời nhà Đường. 
Thứ nhất là tiệm cầm đồ, có nguồn gốc 
phát sinh từ tu viện Phật giáo đầu tiên do 
các học giả Trung Quốc và Nhật Bản ghi 
nhận và nghiên cứu. Trát Hạo, một học giả 
ở thế kỷ XVIII kết luận rằng, trước đời 
Đường, chuyện cầm đồ chỉ tồn tại trong các 
tu viện Phật giáo. Chuyên gia Nhật Bản về 
các định chế pháp lý là Miyazaki 
Michiasuburo có một nghiên cứu đầy đủ về 
lịch sử tiệm cầm đồ ở Trung Quốc và Nhật 
Bản, ông đồng ý với luận điểm của Trác 
Hạo về nguồn gốc Phật giáo của tiệm cầm 
đồ tại Trung Quốc. Nhà nghiên cứu này 
còn gợi ý rằng, tại Nhật Bản vào thời 
Kamakura hay sớm hơn các nhà sư Nhật 
Bản đã du nhập mô hình cầm đồ từ các tu 
viện Trung Quốc. 
Danh từ “Trường sinh khố”, ban đầu 
chỉ các tu viện, về sau mới dùng để chỉ 
chức năng cầm đồ. Tiệm cầm đồ nổi tiếng 
nhất trong lịch sử Trung Quốc nằm ở Hóa 
Độ tự tại Trường An - trung tâm của Tam 
Giai giáo do nhà sư Tín Hạnh sáng lập vào 
thời nhà Tùy. Do của cải cúng đường của 
nhân dân vào các tu viện rất nhiều, được 
dùng vào việc tu bổ chùa chiền và tu viện 
vào thời sơ Đường cho đến khi triều đình ra 
lệnh tịch thu vào năm 713. 
Thứ hai là hội tương tế hay còn gọi là 
hợp bội - tức các hội cho vay vòng xoay. Có 
những hội đoàn tôn giáo gọi là nghĩa ấp hay 
ấp hội đã tồn tại từ thời Nam - Bắc triều, 
trong đó các tín đồ Phật giáo tự tổ chức 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Quỳnh 
59 
thành những nhóm gây quỹ phục vụ các 
hoạt động tôn giáo của chùa chiền tu viện, 
đặc biệt là để dựng tượng Phật. Các nhà sư 
hoặc ni cô có thể trở thành nhân viên điều 
hành các loại hội này. Các văn bia còn lưu 
giữ được cho thấy các hội đoàn này hoạt 
động rất mạnh từ thời Bắc Ngụy đến đầu 
thời nhà Đường. Từ giữa thời Đường trở đi 
có rất ít công trình tôn giáo được xây dựng. 
Nhưng điều đó không có nghĩa là các hội 
đoàn tôn giáo nói trên đã ngưng hoạt động. 
Theo các văn bản phát hiện ở Đôn Hoàng, 
các học giả cho biết rằng ngay từ thời vãn 
Đường vẫn tồn tại những xã ấp chuyên gây 
quỹ tài trợ những buổi tiệc chay cho các nhà 
sư, để ấn tống kinh Phật, hoặc các bài giảng 
kinh cho đại chúng, in hình Phật, bồ tát. Vào 
thế kỷ IX, thông thường từ 10 đến 15 hội đoàn 
tôn giáo như vậy gắn liền với một tu viện và số 
hội viên của hội khoảng từ 25 đến 40 người. 
Các tổ chức tôn giáo này cũng phục vụ 
nhiều cho các chức năng xã hội - kinh tế 
trong nhân dân để giúp các hội viên có thể 
trang trải những kinh phí lớn như đám ma, 
đám cưới, Tập quán này có tên gọi là 
“truy hung trục cát” (đuổi cái xui tìm cái 
hên). Sau khi hội viên chết, con cái họ có 
quyền thừa kế chức hội viên và tiếp tục các 
quyền lợi và nghĩa vụ của cha mẹ mình. 
Sau này, nhiều tổ chức không có tăng ni 
trong ban điều hành, nghĩa là tính chất tôn 
giáo ban đầu đã bị thế tục hóa. 
Thứ ba là bán đấu giá, xuất phát từ vấn 
đề giải quyết những sở hữu cá nhân của các 
vị sư sau khi họ qua đời trong tu viện. Đây 
cũng là một chuyện quan trọng. Theo Luật 
Tạng của Phật giáo được phiên dịch sang 
Hán văn vào đầu thế kỷ thứ V, quần áo và 
đồ dùng cá nhân của một vị sư qua đời cần 
phải phân phối cho các vị sư khác trong tu 
viện, đem bố thí làm phước, hoặc đem bán 
đấu giá để trả nợ (các tăng ni có quyền để 
lại chúc thư yêu cầu xử lý tài sản theo ý của 
họ). Mục đích các quy định này để thắt chặt 
mối quan hệ giữa người sống và người chết 
và giúp cho người sống biết rõ những gì 
đang chờ đợi họ và giải thoát khỏi những 
ham muốn trần tục. 
Một văn bản Luật Tạng được dịch vào 
thời sơ Đường là Căn bản thuyết Nhất thiết 
hữu bộ do Nghĩa Tịnh dịch lại nói rằng, tại 
Ấn Độ phải xử lý các tư trang cá nhân của 
các vị sư quá cố bằng cách bán đấu giá. Có 
lẽ giới tăng ni Trung Quốc đã quen với tập 
quán này trước khi văn bản nói trên được 
phiên dịch vì nó đã tồn tại trong các tu viện 
Trung Quốc từ thế kỷ VII. Năm 626, Đạo 
Tuyên phê phán việc bán đấu giá như vậy 
là trái với tinh thần Luật Tạng và giới luật 
của tu viện. Ông đặc biệt đả kích những 
tiếng cười đùa ồn ào vang lên trong khi đấu 
giá là một trò vui lố bịch. Tuy nhiên, sự đả 
kích của ông cũng không ngăn được sự phổ 
biến của việc bán đấu giá trong các tu viện. 
Và theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng, 
việc bán đấu giá trong các tu viện Phật giáo 
bắt đầu suy tàn vào cuối thời nhà Nguyên. 
Ngoài ra, Phật giáo còn tham gia nhiều 
việc cứu tế xã hội khác, như việc trị thủy, 
khai ngòi, bắc cầu cống cho dân chúng. 
Chùa viện là nơi lễ bái, thưởng ngoại của 
dân chúng nhưng cũng là nơi ngâm thơ, 
thưởng nguyệt của các thi sĩ và còn là nơi trú 
chân cho những khách qua đường [7, tr.186]. 
Những khảo cứu cho thấy, một số khía 
cạnh khá bất ngờ của đời sống tu viện tại 
Trung Quốc thời phong kiến. Chúng ta 
cũng thấy sự đóng góp của họ vào đời sống 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
60 
nhân dân nói chung chứ không phải có ý 
kiến cho rằng Phật giáo Trung Quốc xem 
như là ảo ảnh nên chẳng mảy may đến bất 
cứ chuyện gì trong đời sống thực tế cả. 
3. KẾT LUẬN 
Phật giáo Trung Quốc thời Tùy - 
Đường đã phát triển rực rỡ về mọi mặt, tạo 
ra trạng thái tinh thần mới cho Phật giáo 
Trung Hoa. Suốt bề dày lịch sử, từ thiền sư 
Tuệ Viễn đến Thạch Hầu Hy Thiên, họ đã 
thực hiện cuộc hành trình cần mẫn theo sợi 
chỉ đỏ xuyên suốt, mang tinh thần truyền 
thống Trung Hoa vào Phật học. 
Như thế, qua quá trình phát triển 
khoảng 600 năm đặc biệt là qua sự xung 
đột, đấu tranh và dung hợp với tư tưởng 
văn hóa truyền thống của văn hóa Trung 
Quốc ở các thời kỳ Ngụy - Tấn và Nam - 
Bắc triều, đến thời Tùy- Đường, Phật giáo 
đã cơ bản hoàn thiện xong việc “Trung 
Quốc hóa”. Từ một tôn giáo ngoại lai, Phật 
giáo đã phát triển và trở thành một tôn giáo 
phù hợp với bối cảnh văn hóa, tư tưởng, 
truyền thống, đồng thời cũng có những tác 
động đáng kể đến nền kinh tế - xã hội của 
Trung Quốc. Cho đến nay, Phật giáo vẫn 
còn in đậm trong từng nét văn hóa Trung 
Hoa và hơn nữa những tư tưởng đạo đức 
nhân sinh đã thấm sâu vào trong tâm hồn 
mỗi con người. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Vương Chí Bình (2002), Các đế vương với Phật giáo, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội. 
[2] Nguyễn Tuệ Chân (Biên dịch, 2008), Lịch sử Phật giáo, Nxb Tôn giáo. 
[3] Doãn Chính (Chủ biên, 2004), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia. 
[4] Doãn Chính (Chủ biên, 2012), Lịch sử triết học Phương Đông, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật. 
[5] Dương Ngọc Dũng - Lê Anh Minh (2003), Triết giáo Đông phương, Nxb Đại học Quốc gia, 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
[6] Thích Quảng Đức (2015), Nhập môn triết học Phật giáo nguyên thủy, Nxb Văn hóa - 
văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 
[7] Thích Thanh Kiểm (1965), Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Nxb Vạn Hạnh. 
[8] Theodore M. Lugwig (2000), Những con đường tâm linh phương Đông, Nxb Văn hóa thông tin. 
Ngày nhận bài: 04-6-2018. Ngày biên tập xong: 23-8-2018. Duyệt đăng: 28-11-2018

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_phat_giao_voi_nen_kinh_te_chinh_tri_trung_q.pdf