Một đánh giá hiệu quả của truyền thông trong việc nâng cao sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh năm 2012-2013
TÓM TẮT Đặt vấn đề: Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không đúng cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, một trong những giải pháp là can thiệp bằng các phương tiện truyền thông. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 trước và sau khi can thiệp bằng truyền thông. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau khi can thiệp. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 ‐2013. Thiết kế: nghiên cứu can thiệp. Kết quả: 33,43% người dân biết thành phố có cấp cứu ngoại viện trước can thiệp, sau can thiệp là: 69,14% (p<0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 51,65%.="" 33,53%="" biết="" số="" điện="" thoại="" gọi="" cấp="" cứu="" là="" 115="" trước="" can="" thiệp,="" sau="" can="" thiệp="" là:="" 79,95="" %="">0,001),><0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 58,06%.="" 27,31%="" biết="" cấp="" cứu="" 115="" do="" bệnh="" viện="" cấp="" cứu="" trưng="" vương="" đảm="" trách="" trước="" can="" thiệp,="" sau="" can="" thiệp="" là="" 52,07%="">0,001),><0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 47,55%.="" 71,85%="" trước="" can="" thiệp="" cho="" rằng="" cấp="" cứu="" 115="" là="" cần="" thiết,="" sau="" can="" thiệp:="" 75,51%="">0,001),><0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 4,85%.29,83%="" cho="" biết="" sẽ="" gọi="" cấp="" cứu="" 115="" khi="" gặp="" tình="" huống="" cấp="" cứu,="" trước="" can="" thiệp,="" sau="" can="" thiệp:="" 33,43%="">0,001),><0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 10,77%.="" khi="" gặp="" tình="" huống="" cấp="" cứu,="" trước="" can="" thiệp="" 10,51%="" người="" dân="" gọi="" cấp="" cứu="" 115,="" sau="" can="" thiệp:="" 35,04%="">0,001),><0,001), chỉ="" số="" hiệu="" quả:="" 71,32%.="" tổng="" số="" lần="" nhận="" số="" điện="" thoại="" 115="" trung="" bình="" trước="" can="" thiệp:="" 14,63="" lần/ngày,="" sau="" can="" thiệp:="" 15,96="" lần/ngày.="" số="" chuyến="" xe="" cấp="" cứu="" trung="" bình="" trước="" can="" thiệp:="" 12,89="" chuyến/ngày,="" sau="" can="" thiệp:="" 13,49="" chuyến/ngày.="" nhóm="" tuổi="" 18‐30="" biết="" cấp="" cứu="" ngoại="" viện,="" số="" điện="" thoại="" 115,="" sẽ="" gọi="" cấp="" cứu="" 115="" và="" khi="" gặp="" tình="" huống="" cấp="" cứu="" đã="" gọi="" cấp="" cứu="" 115="" nhiều="" hơn="" các="" nhóm="" tuổi="" khác.="" nhóm="" trình="" độ="" đại="" học,="" cao="" đẳng,="" nhóm="" cư="" ngụ="" tại="" các="" quận="" nội="" thành,="" nhóm="" nghề="" nghiệp="" công="" chức,="" viên="" chức,="" trí="" thức,="" học="" sinh,="" sinh="" viên="" biết="" cấp="" cứu="" ngoại="" viện="" và="" số="" điện="" thoại="" 115="" nhiều="" hơn="" các="" nhóm="" khác,="" nhưng="" sử="" dụng="" cấp="" cứu="" 115="" so="" với="" các="" nhóm="" khác="" thì="" không="" khác="" biệt.="" kết="" luận:="" nghiên="" cứu="" cho="" thấy="" giải="" pháp="" can="" thiệp="" bằng="" truyền="" thông="" cho="" người="" dân="" thành="" phố="" hồ="" chí="" minh="" đã="" mang="" lại="" hiệu="" quả="" rõ="" rệt="" trong="" việc="" nâng="" cao="" sự="" hiểu="" biết="" về="" cấp="" cứu="" 115,="" số="" điện="" thoại="" 115.="" tuy="" nhiên,="" dù="" người="" dân="" có="" tăng="" hiểu="" biết="" về="" cấp="" cứu="" ngoại="" viện,="" số="" điện="" thoại="" 115="" thì="" thái="" độ="" và="" sử="" dụng="" cấp="" cứu="" 115="" vẫn="" không="" tăng="" hoặc="" tăng="" không="" đáng="" kể.="" cần="" có="" thêm="" nhiều="" giải="" pháp="" khác="" nhằm="" nâng="" cao="" thái="" độ="" và="" hành="" vi="" sử="" dụng="" cấp="" cứu="" 115="" của="" người="" dân="" thành="" phố="" hồ="" chí="" minh="" chứ="" không="" chỉ="" đơn="" thuần="" bằng="" biện="" pháp="" truyền="">0,001),>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một đánh giá hiệu quả của truyền thông trong việc nâng cao sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh năm 2012-2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 1 1 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG VIỆC NÂNG CAO SỰ HIỂU BIẾT, THÁI ĐỘ VÀ SỬ DỤNG CẤP CỨU 115 CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2012 ‐ 2013 Lê Thanh Chiến*, Huỳnh Thị Thanh Trang*, Đỗ Văn Dũng**, Đặng Văn Tài***, Đỗ Quốc Huy*, Võ Quang Huy*, Nguyễn Thái Bình*, Trần Vĩnh Khanh*, Lại Thị Kim Lệ*, Nguyễn Ngọc Cẩm Tú* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không đúng cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, một trong những giải pháp là can thiệp bằng các phương tiện truyền thông. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 trước và sau khi can thiệp bằng truyền thông. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau khi can thiệp. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng: Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 ‐2013. Thiết kế: nghiên cứu can thiệp. Kết quả: 33,43% người dân biết thành phố có cấp cứu ngoại viện trước can thiệp, sau can thiệp là: 69,14% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 51,65%. 33,53% biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 trước can thiệp, sau can thiệp là: 79,95 % (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 58,06%. 27,31% biết cấp cứu 115 do Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương đảm trách trước can thiệp, sau can thiệp là 52,07% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 47,55%. 71,85% trước can thiệp cho rằng cấp cứu 115 là cần thiết, sau can thiệp: 75,51% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 4,85%.29,83% cho biết sẽ gọi cấp cứu 115 khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp, sau can thiệp: 33,43% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 10,77%. Khi gặp tình huống cấp cứu, trước can thiệp 10,51% người dân gọi cấp cứu 115, sau can thiệp: 35,04% (p<0,001), chỉ số hiệu quả: 71,32%. Tổng số lần nhận số điện thoại 115 trung bình trước can thiệp: 14,63 lần/ngày, sau can thiệp: 15,96 lần/ngày. Số chuyến xe cấp cứu trung bình trước can thiệp: 12,89 chuyến/ngày, sau can thiệp: 13,49 chuyến/ngày. Nhóm tuổi 18‐30 biết cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115, sẽ gọi Cấp cứu 115 và khi gặp tình huống cấp cứu đã gọi Cấp cứu 115 nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Nhóm trình độ đại học, cao đẳng, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên biết cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 nhiều hơn các nhóm khác, nhưng sử dụng Cấp cứu 115 so với các nhóm khác thì không khác biệt. Kết luận: Nghiên cứu cho thấy giải pháp can thiệp bằng truyền thông cho người dân thành phố Hồ Chí Minh đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao sự hiểu biết về cấp cứu 115, số điện thoại 115. Tuy nhiên, dù người dân có tăng hiểu biết về cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115 thì thái độ và sử dụng Cấp cứu 115 vẫn không tăng hoặc tăng không đáng kể. Cần có thêm nhiều giải pháp khác nhằm nâng cao thái độ và hành vi sử dụng Cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh chứ không chỉ đơn thuần bằng biện pháp truyền thông. Từ khóa: Cấp cứu ngoại viện, Cấp cứu 115, truyền thông. * Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương ** Đại học Y Dược Tp.HCM *** Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Tp.HCM (T4G) Tác giả liên lạc: Ths.Bs.Huỳnh Thị Thanh Trang ĐT: 0918192469 Email: thanhtrangbvtv@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 2 ABSTRACT EFFICACY OF MEDIA IN RAISING AWARENESS OF KNOWLEDGE, ATTITUDE AND USING EMERGENCY SERVICE 115 AMONGST POPULATION IN HO CHI MINH CITY (2012‐2013) Le Thanh Chien, Huynh Thi Thanh Trang, Do Van Dung, Dang Van Tai, Do Quoc Huy, Vo Quang Huy, Nguyen Thai Binh, Tran Vinh Khanh, Lai Thi Kim Le, Nguyen Ngoc Cam Tu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 1 ‐ 12 Background: To reduce mortality and complications due to limited first aid and improper delays, it is essential to improve awareness and using the emergency service 115 in Ho Chi Minh City, one of solutions is to intervene by media. Objectives: Determine the proportion of people in Ho Chi Minh who have knowledge, attitudes and use of emergency 115 before and after by media intervention. Learn a number of factors related to the knowledge, attitude and use of emergency 115 people in Ho Chi Minh City before and after the intervention. Methods: Subjects: People living in Ho Chi Minh City in 2012 ‐2013. Design: Interventional trial. Results: 33.43% and 69.14% people were aware of city emergency service before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 51.65%. 33.53% and 79.95% people were aware of emergency phone number 115 before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 58.06%. 27.31% and 52.07% people knew that emergency service 115 was undertaken by Trung Vuong Hospital before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 47.55%. 71.85% and 75.51% people thought that emergency service 115 is necessary before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 4.85%.29.83% and 33.43% people would call 115 in case of emergency before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 10.77%. When encountering an emergency situation, 10.51% and 35.04% would call 115 before and after intervention, respectively (p <0.001), performance indicators: 71.32%. Total phone calls before and after intervention were 14.63 and 15.96 / day, respectively. Average number of ambulance trips before and after intervention were 12.89 and 13.49 / day. Amongst groups with different age, group 18‐30 year‐old is most aware of emergency service, has called and will call 115 when they encounter an emergency case. Those people who have university degree, living in urban districts, professional, students are more aware of emergency service and 115, yet emergency usage frequency is not different from other groups. Conclusion: The study has showed that intervention by media amongst population in Ho Chi Minh City has been remarkably effective in improving the understanding of the emergency service and 115. However, although people may increase understanding of emergency aid, the attitude and using 115 service do not increase significantly. More solutions are needed to enhance attitudes and behavior using the emergency 115 amongst people in Ho Chi Minh City, not merely by means of media. Keywords: emergency service, 115, media. ĐẶT VẤN ĐỀ Tại thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương được giao nhiệm vụ thực hiện là một Trung tâm Cấp cứu 115 phục vụ cấp cứu ngoại viện cho người dân sinh sống tại thành phố. Theo số liệu thống kê công tác cấp cứu ngoài bệnh viện của Khoa Cấp cứu ngoại viện Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương trong thời gian từ năm 2002 đến 2011 như sau: Tổng số lần nhận điện thoại cấp cứu, tổng số lần xe của bệnh viện đi cấp cứu, số chuyến xe cấp cứu ngoại viện bình quân mỗi ngày rất thấp, không tương xứng với nhu cầu trong thực tế, chỉ đáp ứng <1% nhu cầu cấp cứu của người dân thành phố Hồ Chí Minh(4,10,11). Nghiên cứu khảo sát sự hiểu biết và thái độ Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 3 người dân tại thành phố Hồ Chí Minh về cấp cứu 115 của Lê Thanh Chiến, Trần Vĩnh Khanh năm 2011 cho thấy: chỉ có 29,56% người dân biết thành phố Hồ Chí Minh có dịch vụ cấp cứu ngoại viện/tại nhà, Tỷ lệ biết số điện thoại gọi cấp cứu 115 là 32,14%, tỷ lệ biết 115 là số điện thoại gọi cấp cứu 64,23%, 81,01% cho biết dịch vụ cấp cứu 115 là rất cần thiết và cần thiết, nhưng khi gặp trường hợp cấp cứu, phần lớn sẽ tự đưa bệnh nhân đến bệnh viện vì lý do tự đi nhanh hơn (67,04%)(10). Để giảm bớt tỷ lệ tử vong và hạn chế biến chứng do cấp cứu ban đầu chậm trễ và không đúng cách, việc nâng cao tỷ lệ hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết, một trong những giải pháp là can thiệp bằng các phương tiện truyền thông với nhiều hình thức (trực tiếp, gián tiếp). Mục tiêu Xác định tỷ lệ người dân thành phố Hồ Chí Minh có hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 trước và sau khi can thiệp bằng truyền thông. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến sự hiểu biết, thái độ và sử dụng cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh trước và sau khi can thiệp. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu can thiệp Nghiên cứu được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: (tháng 9‐11/2012): Nghiên cứu mô tả cắt ngang khảo sát về sự hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 của người dân tại thành phố Hồ Chí Minh. Giai đoạn 2 (tháng 12/2012‐tháng 5/2013): Can thiệp trên nhóm nghiên cứu. Giai đoạn 3 (tháng 5‐6/2013): Đánh giá lại sự hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 trên nhóm nghiên cứu sau can thiệp. Đối tượng nghiên cứu Người dân đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2012 ‐2013. Tiêu chí chọn mẫu Người dân từ 18 ‐ 60 tuổi. Đang sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh, không kể thường trú hay tạm trú. Có điện thoại bàn, đăng k ý công khai tại dịch vụ 1080, 1081, nằm trong danh bạ điện thoại 2012‐2013. Tiêu chí loại trừ Những người không đồng ý tham gia nghiên cứu. Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu cụm. Thành phố Hồ Chí Minh có 24 quận huyện, chọn ngẫu nhiên ít nhất 105 người để phỏng vấn qua điện thoại. Phương pháp thu thập số liệu Phỏng vấn qua điện thoại bằng bảng câu hỏi đã soạn sẵn. Bảng câu hỏi gồm 3 phần với 20 câu hỏi. Thành phố Hồ Chí Minh có 719,123 thuê bao điện thoại mạng VNPT, mỗi quận huyện có trung bình 29.963 thuê bao, chọn số điện thoại ngẫu nhiên bằng máy tính được cung cấp bởi dịch vụ tổng đài 1080 và 1081. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1: Sự hiểu biết về cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 trước và sau can thiệp Sự hiểu biết về cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 Trước can thiệp Sau can thiệp Test χ2, p n % n % Biết TPHCM có CCNV Biết 677 33,43 1400 69,14 <0,00 1 Không biết 1348 66,57 625 30,86 Số điện thoại gọi cấp cứu 115 679 33,53 1619 79,95 <0,00 1 Số khác/ Không biết 1346 66,47 406 20,05 Biết 115 là số điện thoại CC Biết 1102 54,41 1765 87,16 <0,00 1 Không biết 923 45,58 260 12,84 Tổng cộng 2025 100 2025 100 Bảng 2: Sự hiểu biết về cấp cứu 115 trước và sau can thiệp của nhóm biết cấp cứu 115 và số điện thoại 115 Sự hiểu biết về cấp cứu 115 Trước can thiệp Sau can thiệp Test χ2, p Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 4 n % n % BV đảm trách CC 115 BV CCTV 301 27,31 919 52,07 <0,001 Không biết 801 72,69 846 47,93 Cách gọi cấp cứu 115 Biết 1006 91,29 1743 98,75 <0,001 Không biết 96 8,71 22 1,25 Cước phí gọi đến số 115 Miễn phí 429 38,93 1185 67,14 <0,001Có phí/ Không biết 673 61,07 580 32,86 Chi phí CC 115 Biết 165 14,97 544 30,82 <0,001 Không biết 937 85,03 1221 69,18 Tổng cộng 1102 100 1765 100 Bảng 3: Thái độ về cấp cứu 115 trước và sau can thiệp Thái độ về cấp cứu 115 của nhóm nghiên cứu Trước can thiệp Sau can thiệp Test χ2, p n % n % Mức độ cần thiết của CC 115 Cần thiết 1455 71,85 1529 75,51 <0,00 1 Không ý kiến/ Không cần thiết 570 28,15 496 24,49 Thái độ Gọi cấp cứu 115 604 29,83 677 33,43 <0,00 1 Tự đến bệnh viện/ Tùy tình huống 1421 70,17 1348 66,57 Tổng cộng 2025 100 2025 100 Bảng 4: Các trường hợp đã gặp tình huống cấp cứu trước và sau can thiệp Đã từng gặp tình huống cấp cứu Trước can thiệp Sau can thiệp n % n % Có 371 9,32 899 44,4 Không 1654 81,68 1126 55,6 Tổng cộng 2025 100 2025 100 Bảng 5: Xử trí khi gặp tình huống cấp cứu trước và sau can thiệp Xử trí khi gặp cấp cứu Trước can thiệp Sau can thiệp Test χ2, p n % n % Gọi CC 115 39 10,51 315 35,04 <0,001Khác 332 89,49 584 64,96 Tổng cộng 371 100 899 100 Bảng 6: Số cuộc gọi 115 và số chuyến xe cấp cứu trước và sau can thiệp Số cuộc gọi 115 và số chuyến xe/ngày Trước can thiệp Sau can thiệp Tổng số lần nhận số điện thoại 115 14,63 15,96 Số chuyến xe cấp cứu 12,89 13,49 Tổng số BN được cấp cứu 12,7 12,6 Bảng 7: Đánh giá hiệu quả nâng cao sự hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 Đánh giá hiệu quả Trước CT (%) Sau CT (%) CSHQ (%) Biết TPHCM có CCNV 33,43 69,14 51,65 Biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 33,53 79,95 58,06 Biết 115 là số điện thoại gọi cấp cứu 54,81 87,16 37,12 Biết BVCCTV phụ trách Cấp cứu 115 27,31 52,07 47,55 Cấp cứu 115 là cần thiết 71,85 75,51 4,85 Sẽ gọi 115 khi gặp CC 29,83 33,43 10,77 Đã gọi cấp cứu 115 10,51 35,04 71,32 Bảng 8: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và sự hiểu biết cấp cứu ngoại viện (cấp cứu 115) Đặc điểm Biết Không biết Tổng cộng Test χ2, n % n % n % p Giới tính Nam 684 70,15 291 29,85 975 100 0,34 Nữ 716 68,19 334 31,81 1050 100 Nhóm tuổi 18 – 30 286 77,51 83 22,49 369 100 <0,001 31 – 45 582 0,29 246 29,71 828 100 46 – 60 532 64,25 296 35,75 828 100 Trình độ học vấn Mù chữ, cấp 1,2 349 61,12 222 38,88 571 100 <0,001 Cấp 3 614 1,23 248 87,72 862 100 CĐ-ĐH 437 73,82 155 18 592 100 Nhóm cư ngụ Nội thành 1148 70,52 480 29,48 1628 100 0,006 Ngoại thành 252 63,48 145 36,52 397 100 Nghề nghiệp Nhóm 1 261 75,22 86 24,78 347 100 0,007 Nhóm 2 1139 67,88 539 32,12 1678 100 Bảng 9: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên cứu và sự nhận biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 Đặc điểm Biết Không biết Tổng cộng Test χ2, n % n % n % p Giới tính Nam 784 80,41 191 19,59 975 100 0,61 Nữ 835 79,52 215 20,48 1050 100 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 5 Đặc điểm Biết Không biết Tổng cộng Test χ2, n % n % n % p Nhóm tuổi 18 – 30 321 86,99 48 13,01 369 100 <0,001 31 – 45 679 82 149 18 828 100 46 – 60 619 74,76 209 25,24 828 100 Trình độ học vấn Mù chữ, cấp 1,2 411 71,99 160 28,02 571 100 <0,001 Cấp 3 705 1,79 157 8,21 862 100 Cao đẳng, Đại học 503 84,97 89 15,03 592 100 Nhóm cư ngụ Nội thành 1336 82,06 292 17,94 1628 100 <0,001 Ngoại thành 283 71,28 114 28,72 397 100 Nghề nghiệp Nhóm 1 300 86,46 47 13,54 347 100 0,001 Nhóm 2 1319 78,61 359 21,39 1678 100 Bảng 10: Liên quan giữa các đặc điểm chung nhóm nghiên ... nâng cao sự hiểu biết về cấp cứu 115, số điện thoại cấp cứu 115, nhu cầu sử dụng và cả việc sử dụng khi gặp tình huống cấp cứu. Dựa trên kết quả điều tra ban đầu cho thấy, vấn đề nâng cao sự hiểu biết, nâng cao sử dụng Cấp cứu 115, hoàn toàn có thể thực hiện tại cộng đồng. Những can thiệp này không đòi hỏi công nghệ cao, trang thiết bị đắt tiền, không đòi hỏi nhân viên y tế chuyên khoa sâu, dễ thực hiện và dễ nhận được sự quan tâm của cộng đồng. Tuy nhiên, qua kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, so với hiệu quả can thiệp về nâng cao sự hiểu biết của người dân, cụ thể chỉ số hiệu quả về tiêu chí biết thành phố Hồ Chí Minh có cấp cứu ngoại viện là 51,65%, biết số điện thoại gọi cấp cứu 115 là 58,06%, biết 115 là số điện thoại gọi cấp cứu là 37,12%, thì hiệu quả can thiệp trong thái độ (10,77%) là thấp hơn. Điều này cho thấy, để nâng cao thái độ của người dân về Cấp cứu 115 thì can thiệp bằng truyền thông là chưa đủ. Trong 2 năm qua, khoa Cấp cứu ngoại viện Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương cũng đã có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng tuy nhiên theo nghiên cứu, số lượng cuộc gọi 115/ngày và số chuyến xe Cấp cứu 115/ngày vẫn không tăng. Đây cũng đang là thực trạng chung của hệ thống cấp cứu 115 của cả nước, hiện nay ở nước ta chỉ có khoảng 20% các ca cấp cứu cả nội và ngoại khoa tại nhà và đường phố được thực hiện bởi hệ thống cấp cứu 115, 80% còn lại là do người dân tự vận chuyển. Còn tại thành phố Hồ Chí Minh, số ca bệnh, nạn nhân được vận chuyển, cấp cứu bởi 115 chiếm <1% so với tổng số ca vào cấp cứu tại các bệnh viện trên toàn thành phố. Cụ thể trong năm 2010, số ca cấp cứu trong toàn thành phố là 750,954, số cuộc gọi cấp cứu 115 là 6159, số lần đi cấp cứu là 5225(11). Qua nghiên cứu này cho thấy, dù tỷ lệ hiểu biết của người dân về cấp cứu 115, về số điện thoại 115 có gia tăng, thì tỷ lệ sử dụng vẫn không tăng hoặc tăng rất ít và nếu chỉ can thiệp bằng truyền thông thì hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân do những hạn chế của cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh: mạng lưới cấp cứu 115 chưa phủ kín và thường trực, chưa thiết lập được quy chế hoạt động chuyên trách, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương không điều phối trực tiếp thống nhất mạng lưới cấp cứu ngoại viện, đầu tư trang thiết bị cho công tác cấp cứu ngoài bệnh viện vẫn còn nhiều hạn chế, Cấp cứu 115 vẫn chưa được quan tâm đúng mức của xã hội. Mạng lưới cấp cứu 115 chỉ đáp ứng < 1% nhu cầu cấp cứu của người dân (chưa tính đến nhu cầu vận chuyển trong khám bệnh, chữa trong khám bệnh, chữa bệnh của người dân) và không đủ khả năng ứng phó trước thiên tai, thảm họa(11).Một vấn đề được đặt ra tại nước ta hiện nay, khả năng tự sơ cấp cứu cho bản thân và người nhà không có, trong khi tại các nước phát triển, người dân có thể hồi sinh tim phổi cơ bản (CPR) cho người khác đang hấp hối. Tại các nước phát triển, các nghiên cứu cho thấy các trường hợp ngưng tim tại cộng đồng được làm CPR bởi người dân. Một nghiên cứu tại Nhật của Arthur năm 1993 cho thấy trong các trường hợp ngưng tim trước bệnh viện, thì đã có 12% người dân tham gia CPR trước khi đội cấp cứu đến, trong khi thời gian trung bình đội cấp cứu, cứu hỏa đến là 2,5 phút(8). Tại Thụy Điển, nghiên cứu của Mattias Ringh từ năm 1992 đến năm 2005 trên các bệnh nhân bị ngưng tim ngoài bệnh viện. Tỷ lệ bệnh nhân được những người qua đường hô hấp nhân tạo tăng từ 47% năm 1992 lên 58% vào năm 2005 (p < 0.0001)(21). Tại Mỹ, 36,7% các trường hợp ngưng tim được sự chứng kiến của một người bên ngoài, 33,3% bệnh nhân được hô hấp nhân tạo bởi người xung quanh và 3,7% Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 10 được những người xung quanh khử rung bằng máy tự động bên ngoài trước khi EMS xuất hiện(12). Trong khi ở nước ta, nghiên cứu của Đinh Xuân Diễm ‐ David Trần năm 2009, chỉ có những bệnh nhân được đưa đến bằng xe cấp cứu (16%) là nhận được hồi sinh tim phổi(3).Nghiên cứu của Đặng Trúc Lan Trinh năm 2008 cho thấy hầu hết các trường hợp ngưng tim xảy ra tại nhà (80%), (20%) xảy ra tại nơi công cộng, tất cả các trường hợp này đều không được thân nhân thực hiện CPR đúng cách, người dân vẫn chưa ý thức về mức độ nguy hiểm của nó, những người chứng kiến đều không có những xử lý thích hợp khi chứng kiến bệnh nhân bị ngưng tim và làm chậm thời gian và cơ hội có thể cứu sống bệnh nhân. Để thật sự cải thiện dự hậu lâm sàng cho những bệnh nhân bị ngưng tim đột ngột ngoài bệnh viện, cần một nỗ lực lớn trong thông tin và giáo dục cộng đồng các kiến thức về hồi sinh tim phổi cơ bản(2). Những yếu tố liên quan đến sự hiểu biết và sử dụng cấp cứu 115 sau can thiệp Qua kết quả nghiên cứu, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ biết cấp cứu ngoại viện giữa các nhóm tuổi, nhóm trình độ học vấn, nhóm cư ngụ, nhóm nghề nghiệp. Nhóm tuổi 18‐30 biết cấp cứu ngoại viện chiếm tỷ lệ 77,51%, nhóm trình độ đại học, cao đẳng biết cấp cứu ngoại viện chiếm tỷ lệ 73,82%, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành biết cấp cứu ngoại viện chiếm tỷ lệ 70,52%, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên biết cấp cứu ngoại viện chiếm tỷ lệ 75,22% nhiều hơn các nhóm khác. Nhóm tuổi 18 – 30 còn biết số điện thoại gọi cấp cứu 115 cao nhất (86,99%), đây là nhóm tuổi tiếp cận các phương tiện truyền thông ‐ đặc biệt là Internet ‐ nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Tỷ lệ biết số điện thoại cấp cứu là 115 của nhóm trình độ cao đẳng, đại học là 84,97%, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành là 82,06%, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên là 86,46% cũng nhiều hơn các nhóm khác. Các so sánh này cho thấy tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, cư ngụ có liên quan đến sự hiểu biết dịch vụ cấp cứu ngoại viện, số điện thoại gọi cấp cứu 115. So sánh với kết quả nghiên cứu năm 2011 cho thấy nhóm tuổi 18 ‐ 30, nhóm trình độ học vấn cao đẳng, đại học, trên đại học, nhóm nghề nghiệp là nhân viên y tế, công chức, viên chức, học sinh sinh viên, trí thức biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 nhiều hơn các nhóm khác. Nhóm cư ngụ quận nội thành biết dịch vụ cấp cứu 115 nhiều hơn nhóm huyện ngoại thành(10). Nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Rau R. và cộng sự ở Đức năm 2006 cho thấy để thông tin cho người dân về dịch vụ cấp cứu 24/24h họ chọn đối tượng là nam giới, nhóm tuổi trẻ hơn và những người có trình độ học vấn cao hơn, để thông tin về số điện thoại cuộc gọi khẩn cấp 112 họ chọn nhóm đối tượng người lớn tuổi, và thông tin cho công chúng về số điện thoại quốc gia vận chuyển bệnh nhân 19,222(17). Truyền thông cho từng nhóm đối tượng cụ thể sẽ dễ đạt được mục tiêu tại Hoa Kỳ, theo tác giả Douglas Evans W., cách tiếp cận rộng là mục tiêu truyền thông, trong đó thông tin về các nhóm dân số được sử dụng, như sử dụng tên của một người, sử dụng hồ sơ của một đối tượng cụ thể (ví dụ: phụ nữ thu nhập trung bình, trên người có con, sống ở khu vực ngoại thành). Đây là cách tiếp cận được sử dụng đạt hiệu quả trong nâng cao sức khỏe(5). Khi gặp tình huống cấp cứu, nhóm tuổi 18‐ 30 cho biết sẽ gọi xe cấp cứu nhiều hơn các nhóm tuổi khác (35,77%), nhóm trình độ cao đẳng, đại học sẽ gọi xe cấp cứu 36,66% nhiều hơn các nhóm khác, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành sẽ gọi xe cấp cứu 35,01% nhiều các nhóm huyện ngoại thành. Nhóm tuổi 18 ‐ 30 cũng là nhóm tuổi biết số điện thoại gọi cấp cứu 115 cao nhất, khi gặp tình huống cấp cứu, nhóm tuổi 18–30 cũng đã gọi xe cấp cứu chiếm Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 11 tỷ lệ 46,43% cao hơn các nhóm tuổi khác. Như vậy, nhóm tuổi có liên quan đến sự hiểu biết, nhu cầu sử dụng và sử dụng cấp cứu 115, nhóm tuổi 18‐30 biết về cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115, có nhu cầu gọi và đã gọi cấp cứu 115 nhiều hơn các nhóm tuổi khác, đây là nhóm tuổi tiếp cận các phương tiện truyền thông ‐ đặc biệt là Internet ‐ nhiều hơn các nhóm tuổi khác. Kết quả này phù hợp với kết quả năm 2011, nhóm tuổi 18–30 cũng là nhóm biết số điện thoại gọi cấp cứu là 115 và khi gặp tình huống cấp cứu sẽ gọi xe cấp cứu nhiều hơn các nhóm khác(10). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kỳ, tỷ lệ sử dụng EMS cao nhất ở những người trên 65 tuổi(6). Nhóm trình độ đại học, cao đẳng, nhóm cư ngụ tại các quận nội thành, nhóm nghề nghiệp công chức, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên biết cấp cứu ngoại viện và số điện thoại 115 nhiều hơn các nhóm khác, nhưng sử dụng Cấp cứu 115 so với các nhóm khác thì không khác biệt, cho thấy dù có tăng hiểu biết về cấp cứu ngoại viện, số điện thoại 115 thì vẫn không tăng sử dụng cấp cứu 115. Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Steven Reinberg năm 2013 cho thấy tại Hoa Kỳ, ở bệnh nhân đột quị gọi EMS, nhóm dân tộc thiểu số và nhóm người ở vùng nông thôn ít gọi đến EMS hơn các nhóm khác(19). Một nghiên cứu của 17 chiến dịch y tế châu Âu gần đây trên một loạt các chủ đề bao gồm thúc đẩy các xét nghiệm HIV, nhập viện vì nhồi máu cơ tim, tiêm chủng, tầm soát ung thư cũng cho thấy dù truyền thông ở tác động nhỏ nhưng có hiệu quả tích cực. Nghiên cứu này cho thấy, hành vi cần phải được thay đổi một lần hoặc chỉ một vài lần sẽ dễ dàng hơn khi lặp đi lặp lại và kéo dài thời gian(5). KẾT LUẬN Nghiên cứu cho thấy giải pháp can thiệp bằng truyền thông cho người dân thành phố Hồ Chí Minh đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao sự hiểu biết về Cấp cứu 115, số điện thoại 115. Cần có thêm nhiều giải pháp khác nhằm nâng cao thái độ và hành vi sử dụng Cấp cứu 115 của người dân thành phố Hồ Chí Minh chứ không chỉ đơn thuần bằng biện pháp truyền thông. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arendts, Sim M, Johnston S, Brightwell R (2011), “A protocol for a randomised controlled trial of paramedic assessment and referral to access medical care at home”, BMC Emergency Med 2011 8/6. 11(1), pp. 7. 2. Đặng Trúc Lan Trinh (2009), “Nhận xét đặc điểm các trường hợp ngưng tim ngoài bệnh viện, hồi sức không thành công tại khoa cấp cứu Bệnh viện Nhân dân Gia Định, từ 02/2008 – 12/2008. Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. Phụ bản tập 6 (13), tr 311 – 318. 3. Đinh Xuân Diễm. David Trần (2010), “Nghiên cứu những trường hợp ngưng tim trước nhập viện đến khoa Cấp cứu Bệnh viện FV năm 2009”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, phụ bản tập 14 (4), tr.35‐38. 4. Đỗ Quốc Huy (2011), “Cấp cứu ngoại viện (115) tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tài liệu Hội thảo Khoa học kỹ thuật Pháp – Việt về cấp cứu ngoại viện, tr.87‐99. 5. Douglas WE (2006), “How social marketing works in health care”, BMJ, 2006, May 20, 332(7551), pp.1207‐1210. 6. Dundar C., Sunter AT. Canbaz S. Cetinoglu E. (2006), “Emergency service use by older people in Samsun, Turkey”, Adv Ther, Jan‐Feb;23(1), pp. 47‐53. 7. Hà Thanh Hà (2011), “Khảo sát đặc điểm dịch tễ, sự phân bố bệnh của các trường hợp cấp cứu được tiếp nhận, xử trí qua hệ thống cấp cứu 115 tại thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Phụ bản của tập 15(4), tr.105‐111. 8. Kellermann AL, Hackman BB, Somes G, Kreth TK, Nail L, Dobyns P. (1993), “Impact of First‐Responder Defibrillation in an Urban Emergency Medical Services System”, JAMA.1993, 270(14), pp.1708‐1713. 9. Lamhaut L (2011), “SAMU, SMUR”, Colloque Franco‐ Vietnamien de medecine d’urgence prehospitaliere, pp.15‐40. 10. Lê Thanh Chiến, Trần Vĩnh Khanh (2011), “Khảo sát sự hiểu biết và thái độ của người dân thành phố Hồ Chí Minh về dịch vụ cấp cứu 115”, Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh. Phụ bản của tập 14 (4), tr 59 – 64. 11. Lê Trường Giang (2012), “Hệ thống y tế công cộng thành phố Hồ Chí Minh: thực trạng và giải pháp đề xuất”, Tạp chí Ung thư học Việt Nam, Hội nghị Khoa học y tế công cộng TP.Hồ Chí Minh lần I, tr.16‐27. 12. Mc Nally B (2011), “Out‐of‐Hospital Cardiac Arrest Surveillance ‐Cardiac Arrest Registry to Enhance Survival (CARES), United States, October 1, 2005‐ December 31, 2010”, Surveillance Summaries, Vol.60(8), pp.1‐19. 13. Nguyễn Đình Đán (1999), “Củng cố hệ thống cấp cứu tỉnh Thái Bình”, Thông tin Y học thảm họa và bỏng, tập 2 (1), tr.20‐25. 14. Nguyễn Hồng Thái, Đỗ Thanh Long, Nguyễn Văn Mạnh (2008), “Đánh giá thực trạng sơ cứu – cấp cứu – vận chuyển bệnh nhân bỏng của các cơ sở y tế đến Viện Bỏng quốc gia”, Thông tin Y học thảm họa và bỏng, số 1, tr.58‐66. 15. Nguyễn Thị Mỹ Ngọc (2010), “Thực trạng mạng lưới cấp cứu ngoại viện (cấp cứu 115) thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn tốt nghiệp đại học. Trường Đại học Hùng Vương, thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Cấp Cứu Trưng Vương 2013 12 16. Phạm Anh Phong (2011), “Mô tả thực trạng bệnh nhân chấn thương do tai nạn vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam từ tháng 4/2010 đến 10/2010”, Tạp chí Y học lâm sàng, số 7, tr.42‐47. 17. Randall N., Hyer Vincent T Covello (2005), “Effective Media Communication during Public Health Emergencies”, A Who Handbook, World Health Organization, pp.1‐85. 18. Rau R. Mensing M. Brand H. (2006). “Medical Emergency Services as Seen by Consumers”. Health services research by CATI survey of the community. Med Klin (Munich) Jan 15,101(1), pp.37. 19. Reinberg S. (2013), “Many Stroke Patients Donʹt Call 911”, HealthDay News, April 30, 2013. 20. Richard J, Osmond MH, Nesbitt L, Stiell IG (2006), “Management and outcomes of pediatric patients transported by emergency medical services in a Canadian prehospital system”, CJEM. 2006 Jan, 8(1), pp. 6‐12. 21. Ringh M., Herlitz J. et al (2009), “Out of hospital cardiac arrest outside home in Sweden, change in characteristics, outcome and availability for public access defibrillation”, Scandinavian Journal of Trauma, Resuscitation and Emergency Medicine. Biomed Central, pp 1‐6. 22. Tanne J.H., (1986), “EMS receives an average of 100 calls an hour. Early evening is the busiest time”, New York emergency, 9. pp.33. Ngày nhận bài 20/08/2013. Ngày phản biện nhận xét bài báo 29/08/2013. Ngày bài báo được đăng: 10/10/2013
File đính kèm:
- mot_danh_gia_hieu_qua_cua_truyen_thong_trong_viec_nang_cao_s.pdf