Một số quan điểm lý thuyết xã hội học pháp luật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam

Tóm tắt: Xã hội học pháp luật trên thế giới được ghi nhận hình thành vào những năm

giữa thế kỷ XX và thâm nhập vào Việt Nam rất muộn sau đó. Mặc dù ngày nay xã hội

học pháp luật đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học ở Việt Nam cũng

như thu hút được sự chú ý của một số nhà nghiên cứu và thực hành pháp luật nhưng

nói chung còn mơ hồ và nhiều tranh cãi xung quanh các vấn đề: khái niệm, lý thuyết,

phương pháp, đối tượng và các hướng nghiên cứu cụ thể Trên cơ sở khảo cứu quan

điểm lý thuyết của một số lý thuyết gia tiêu biểu, bài viết phân tích, tổng hợp và đưa ra

những gợi ý để vận dụng các quan điểm đó vào thực tiễn nghiên cứu và thực hành

pháp luật ở Việt Nam.

pdf 8 trang yennguyen 4280
Bạn đang xem tài liệu "Một số quan điểm lý thuyết xã hội học pháp luật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số quan điểm lý thuyết xã hội học pháp luật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam

Một số quan điểm lý thuyết xã hội học pháp luật và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam
 Một số quan điểm lý thuyết xã hội học pháp luật 
và định hướng nghiên cứu ở Việt Nam 
Phạm Minh Anh(*) 
Tóm tắt: Xã hội học pháp luật trên thế giới được ghi nhận hình thành vào những năm 
giữa thế kỷ XX và thâm nhập vào Việt Nam rất muộn sau đó. Mặc dù ngày nay xã hội 
học pháp luật đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học ở Việt Nam cũng 
như thu hút được sự chú ý của một số nhà nghiên cứu và thực hành pháp luật nhưng 
nói chung còn mơ hồ và nhiều tranh cãi xung quanh các vấn đề: khái niệm, lý thuyết, 
phương pháp, đối tượng và các hướng nghiên cứu cụ thể Trên cơ sở khảo cứu quan 
điểm lý thuyết của một số lý thuyết gia tiêu biểu, bài viết phân tích, tổng hợp và đưa ra 
những gợi ý để vận dụng các quan điểm đó vào thực tiễn nghiên cứu và thực hành 
pháp luật ở Việt Nam. 
Từ khóa: Quan điểm lý thuyết, Xã hội học pháp luật, Thực tiễn xã hội 
Theo nhà xã hội học người Hungary 
Kulcsar Kalman(*)(1928-2010)(**), tư duy 
xã hội học và tư duy pháp luật mặc dù có 
mối liên hệ với nhau nhưng được xem 
như hai kiểu tư duy khác nhau. Theo 
ông, các nhà luật học luôn có đặc trưng 
là tư duy chuẩn mực, còn tư duy xã hội 
học nảy sinh trên cơ cở những nhận thức 
về hiện thực xã hội mà nét nổi bật là cố 
gắng tìm ra mọi liên hệ cấu trúc của 
chuẩn mực với một tập hợp nhất định các 
nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật. Những 
tư tưởng xã hội học pháp luật như vậy đã 
xuất hiện từ khá lâu, nhằm phản ánh sự 
phản ứng của lý thuyết luật học đối với 
(*)
 TS., Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; 
Email: phamminhanh@gmail.com 
(**)
 Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, Viện trưởng 
Viện Xã hội học Hungary, tác giả của cuốn sách 
nổi tiếng Cơ sở Xã hội học pháp luật. 
những vấn đề mới xuất hiện trong thực 
tiễn xã hội mà chủ nghĩa thực chứng luật 
học tỏ ra thiếu mềm dẻo và ít thích nghi 
với việc giải quyết những phát sinh đó. 
Tuy nhiên, theo Kulcsar Kalman, xã 
hội học pháp luật, được hình thành trên 
cơ sở của những tư duy đó, chỉ xuất hiện 
khi “những quá trình đã chín muồi có 
tính chất khách quan của việc các quan 
hệ xã hội tư bản chủ nghĩa chuyển sang 
hình thức phát triển nhất của nó là chủ 
nghĩa tư bản độc quyền” (Kulcsar 
Kalman, 1999: 6) và xuất hiện một loạt 
các xu hướng mới như luật học xã hội 
học ở Mỹ và trường phái luật tự do ở 
châu Âu. Dưới đây sẽ phân tích tóm 
lược những tư tưởng cơ bản của một số 
lý thuyết gia tiêu biểu đã góp phần quan 
trọng cho việc ra đời của bộ môn xã hội 
học pháp luật ngày nay. 
Một số quan điểm 27 
1. Quan điểm của một số nhà xã hội 
học pháp luật tiêu biểu 
1. Quan điểm của Rudolf von 
Jhering (1818-1892) 
Vào cuối thế kỷ XIX, với nhiều 
người khái niệm pháp luật mà trường 
phái pháp luật thực chứng (legal 
positivism - trường phái được coi là 
thịnh hành nhất vào thời điểm đó)(*) đưa 
ra không thể phản ánh hết được nội dung 
cũng như chức năng của pháp luật. Theo 
họ, quan niệm pháp luật của trường phái 
luật thực chứng không còn phù hợp và 
khó giải thích thấu đáo nhiều vấn đề mới 
nảy sinh trong xã hội như: những mâu 
thuẫn và xung đột đang xuất hiện ngày 
càng nhiều trong xã hội dân sự, về mối 
quan hệ giữa nhà nước và xã hội, làm thế 
nào để bảo đảm pháp chế, trật tự pháp 
luật, hoặc bằng phương pháp luận hình 
thức của pháp luật thực chứng thì khó có 
thể đưa ra những luận cứ cho sự xuất 
hiện, tồn tại và phát triển của nhà nước 
pháp quyền. Pháp luật như vậy là pháp 
luật chết, pháp luật tách rời khỏi xã hội, 
trừu tượng khó hiểu, không phản ánh 
được nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích 
của xã hội và như vậy pháp luật không 
thể hiện đúng chức năng vốn có của nó. 
Một trong những người đầu tiên kết hợp 
lý thuyết xã hội học vào nghiên cứu các 
vấn đề pháp luật và nhà nước, để giải 
thích cho những mâu thuẫn kể trên là 
Rudolf von Jhering - cha đẻ của trường 
phái xã hội học pháp luật tại Đức. 
Theo, R. Jhering, pháp luật là tổng 
thể các quy phạm bắt buộc đang có hiệu 
lực trong một nhà nước. Đây là một quan 
(*)
 Theo trường phái này, pháp luật chỉ đơn thuần là 
những quy tắc xử sự có giá trị ràng buộc do cơ 
quan có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và 
đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước (Xem thêm: 
điểm có tính mô tả về pháp luật, coi pháp 
luật là một hiện tượng xã hội khách quan 
mà con người có thể quan sát, nhận thức 
và mô tả được ( 
Khái niệm trung tâm của R. Jhering 
chính là khái niệm “lợi ích” (interest) 
được thể hiện trong pháp luật. Trên cơ sở 
đó, R. Jhering đưa ra thuyết “pháp luật 
của những lợi ích” và lấy quan niệm “luật 
học của những nhu cầu” để đem đối lập 
với quan niệm “luật học của những khái 
niệm” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ 
Chí Minh, 2014: 160). 
R. Jhering cho rằng pháp luật không 
thể chỉ là những quy tắc mang tính bắt 
buộc của nhà nước, được bảo đảm bởi 
nhà nước, mà pháp luật phải là hệ thống 
những mục đích xã hội được bảo đảm 
bởi sự cưỡng chế, hay pháp luật là tổng 
thể những điều kiện sống của xã hội 
được bảo đảm bởi cưỡng chế - bằng 
quyền lực nhà nước. Theo ông, sự hình 
thành pháp luật chính là kết quả của cuộc 
đấu tranh giữa các lợi ích khác nhau 
trong xã hội. Mỗi cá nhân, nhóm người 
trong xã hội đều hướng đến mục đích 
bảo vệ lợi ích riêng của mình và cố gắng 
để lợi ích đó được nhà nước ghi nhận và 
bảo vệ. Bên cạnh đó, họ cũng hướng đến 
việc dung hòa với lợi ích chung và phấn 
đấu sao cho cả hai loại lợi ích này đều 
được pháp luật bảo vệ. 
Trong quan điểm của mình, R. Jhering 
thừa nhận rằng, trên thực tế pháp luật 
không phải lúc nào cũng phản ánh được 
lợi ích của toàn xã hội, pháp luật cũng 
không tồn tại và phát triển một cách hòa 
bình mà ở đó luôn có sự đấu tranh. Đấu 
tranh là bản chất của pháp luật, không 
thể có pháp luật mà không có đấu tranh, 
cũng giống như không thể có tư hữu tài 
sản nếu con người không lao động. 
Nhưng ông cho rằng, tính chất đấu 
tranh của pháp luật trong xã hội hiện đại 
28 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2016 
không còn là đấu tranh giữa các giai cấp, 
giai tầng trong xã hội để có thể ghi nhận 
và bảo vệ quyền lợi của mình trong luật, 
mà theo ông bản chất pháp luật đã khác 
nên tính chất của đấu tranh cũng khác. 
Đấu tranh của pháp luật là đấu tranh 
chống lại việc vi phạm pháp luật, đấu 
tranh bảo vệ những nguyên tắc pháp luật 
mới đó là nguyên tắc xã hội dân sự và 
nhà nước pháp quyền. Lý do là vì pháp 
luật hiện đại là pháp luật mà ở đó đã có 
sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật 
đối với mọi người. 
Như vậy với R. Jhering, đấu tranh vì 
quyền lợi đã được ghi nhận trong pháp 
luật trước những vi phạm luôn là thuộc 
tính của xã hội hiện đại. Chính vì vậy, 
người ta luôn cần có nhà nước, bởi nhà 
nước là công cụ giúp họ bảo vệ quyền lợi 
của mình một cách thỏa đáng và hiệu lực 
nhất. Theo quan điểm của ông, nhà nước 
không có tính giai cấp mà nhà nước là 
một xã hội với sức mạnh cưỡng chế, nhà 
nước là một xã hội có tổ chức và có 
quyền lực. Từ quan điểm này, có thể 
thấy, ông ủng hộ một nhà nước có sức 
mạnh, có quyền lực thực sự. Bởi chỉ khi 
nhà nước có sức mạnh thật sự thì mới có 
năng lực để bảo vệ trật tự pháp luật đã 
được thiết lập, một trật tự mà ở đó pháp 
luật là biểu hiện của lợi ích xã hội. Ông 
đã từng thừa nhận “Một nhà nước mà ở 
đó có sự bất lực của quyền lực là cái tội 
chết người của nhà nước ấy, cái tội 
không thể được tha thứ Một nhà nước 
như thế thì thà không có có lẽ còn tốt 
hơn” (Theo tài liệu: Học viện Chính trị 
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2014: 161). Nhà 
nước mạnh, theo R. Jhering, không có 
nghĩa là nhà nước trên tất cả, mà cũng 
chỉ là công cụ mạnh để bảo vệ lợi ích. 
Nhà nước cũng phải nằm dưới trật tự đã 
được xác lập và chỉ như thế mới bảo vệ 
được sự trường tồn của pháp luật. 
Như vậy, với thuyết “pháp luật của 
những lợi ích” và khái niệm trung tâm 
của nó là “mục đích”, R. Jhering đã thổi 
vào thời đại một luồng tư tưởng mới, 
quan niệm mới - một quan niệm rất xã 
hội của pháp luật. 
2. Quan điểm của Emile Durkheim 
(1858-1917) 
Nhà xã hội học người Pháp E. 
Durkheim là người đặt nền móng xây 
dựng chủ nghĩa chức năng 
(Functionalism) và chủ nghĩa cấu trúc 
(Structuralism), tuy nhiên ông cũng có 
những đóng góp lớn lao không thể tranh 
cãi vào việc hình thành xã hội học pháp 
luật châu Âu hiện đại. Các công trình 
nghiên cứu về lĩnh vực xã hội học và lập 
pháp sau này ở Pháp đã chịu ảnh hưởng 
lớn của E. Durkheim như các công trình 
nghiên cứu về lĩnh vực pháp luật dân sự 
và luật hôn nhân và gia đình được tiến 
hành vào những năm 1970... 
E. Durkheim đưa ra quan điểm về cái 
gọi là “không có quy phạm, không có 
pháp luật” và đối tượng của xã hội học 
pháp luật là nghiên cứu pháp luật trong 
ngữ cảnh xã hội của nó, trong mối quan 
hệ giữa pháp luật với đạo đức, còn không 
có quy phạm, không có pháp luật là 
nguyên nhân của bệnh lý xã hội và thông 
thường của tình hình tội phạm (Theo: Võ 
Khánh Vinh, 2011: 379-380). 
Một trong những khái niệm quan 
trọng trong xã hội học của E. Durkheim 
là “đoàn kết xã hội” (social solidarity). 
Ông cho rằng pháp luật có quá trình tiến 
hóa cùng với sự tiến hóa của xã hội. 
Trong các xã hội cổ xưa, con người gắn 
bó với nhau bằng sự “đoàn kết cơ học” 
(mechanical solidarity), nghĩa là liên kết 
dựa trên sự đồng nhất về văn hóa, vị thế 
xã hội, còn trong xã hội hiện đại con 
người gắn bó với nhau bằng sự “đoàn kết 
Một số quan điểm 29 
hữu cơ” (organic solidarity), tức là sự 
gắn bó trên cơ sở phân công lao động, 
tính đa dạng và sự khác biệt trong xã hội. 
Luật pháp trong các xã hội cổ xưa chủ 
yếu mang tính chất trừng phạt các hành 
vi sai trái, còn luật pháp trong các xã hội 
hiện đại thì chủ yếu mang tính chất tạo 
dựng và phục hồi công lý nhằm mục đích 
điều chỉnh lại những sai trái trong điều 
kiện “đoàn kết hữu cơ”. 
3. Quan điểm của Max Weber (1864-
1920) 
Một trong những nhà tư tưởng có 
ảnh hưởng đến quá trình hình thành xã 
hội học pháp luật còn phải kể đến là M. 
Weber. Cùng với các lý thuyết gia nổi 
tiếng khác như R. Pound (Mỹ), E. 
Ehrlich (Áo), M. Weber được coi là đại 
diện tiêu biểu cho trào lưu pháp luật tự do. 
M. Weber cho rằng sự phát triển của 
pháp luật là một quá trình trong đó sự 
chuyển đổi các quan hệ cơ bản của xã 
hội đã ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển 
của pháp luật ở thời của ông. Ông nói 
đến sự tách rời giữa tính chuẩn xác của 
tư duy pháp luật logic hình thức với các 
ảnh hưởng kinh tế của tư duy đó, hay sự 
khác nhau giữa các hành động do pháp lý 
quy định với các hành động do mong đợi 
về mặt kinh tế của các bên có liên quan. 
M. Weber coi sự phát triển của luật pháp 
là quá trình duy lý hóa, tức là tiến hóa từ 
tính phi duy lý sang tính duy lý. Tính phi 
duy lý pháp lý (legal irrationality) có 
nghĩa là sử dụng những phương tiện khác 
ngoài logic hay lý trí để xử lý các vấn đề 
hay để phán quyết các vụ án, còn tính 
duy lý pháp lý (legal rationality) có 
nghĩa là một hệ thống các quy phạm 
mang tính chất nhất quán và logic (Dẫn 
theo tài liệu: Học viện Chính trị Quốc gia 
Hồ Chí Minh, 2014: 167). 
Trên cơ sở quan điểm duy lý hóa luật 
pháp, khi đề cập đến mối liên hệ qua lại 
giữa trật tự pháp luật và chế độ kinh tế 
của xã hội, ông viết: “Nếu kinh tế và trật 
tự pháp luật... có mối liên hệ bên trong 
với nhau thì điều này chỉ có thể có với 
điều kiện trật tự pháp luật trong trường 
hợp này hiện diện theo nghĩa xã hội học 
chứ không theo nghĩa pháp lý, đặc biệt 
như một thực tại kinh nghiệm. Khi ấy 
nghĩa của từ ‘trật tự pháp luật’ thay đổi 
hoàn toàn, từ này ám chỉ không phải thế 
giới các chuẩn mực ‘đúng đắn’ về logic 
mà chỉ sự thống nhất các nguyên nhân 
thực sự của những hành động thực tế của 
con người” (Dẫn theo: Kulcsar Kalman, 
1999: 43). 
Liên quan đến mối quan hệ giữa nhà 
nước và pháp luật, M. Weber cho rằng 
luật pháp có liên quan tới một “bộ máy 
cưỡng chế”, mục đích của bộ máy này là 
buộc mọi người phải tuân theo các chuẩn 
mực của cộng đồng hay tổ chức. Những 
chuẩn mực pháp lý có thể được bảo đảm 
thi hành bởi nhà nước và các yếu tố (tổ 
chức) xã hội khác, tuy vậy, nhà nước 
khác với tất cả các tổ chức khác ở chỗ nó 
giữ vai trò độc quyền về khả năng “cưỡng 
chế bằng bạo lực”. Nhưng theo Weber, 
động lực thúc đẩy người ta tuân thủ các 
chuẩn mực không phải chỉ do có bộ máy 
cưỡng chế. 
4. Quan điểm của Roscoe Pound 
(1870-1964) 
R. Pound - nguyên Hiệu trưởng 
Trường Luật thuộc Đại học Harvard 
(Mỹ) - được coi là đại diện lớn nhất của 
trường phái xã hội học pháp luật thực 
dụng, những người đi sâu nghiên cứu 
“luật trong hành động” (Law in Action) 
chứ không phải “luật trong sách vở” 
(Law in Books). Vấn đề trọng tâm trong 
các nghiên cứu của R. Pound là cách 
hiểu của ông về tính chất công cụ của 
pháp luật được phát triển dưới ảnh hưởng 
30 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2016 
của triết học thực dụng và cách tiếp cận 
lịch sử. 
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng 
xã hội học pháp luật đi trước, R. Pound 
nhận thấy nghiên cứu sự phát sinh, tồn 
tại, phát triển của pháp luật cần phải đặt 
trong mối liên hệ với các hiện tượng xã 
hội khác. Trong 5 tập sách Pháp luật của 
mình, ông nhấn mạnh việc nghiên cứu 
pháp luật trên phương diện hành động và 
chức năng nhưng từ quan điểm triết học 
thực dụng. Chủ nghĩa thực dụng coi mọi 
tri thức là khoa học và xuất phát từ thực 
tiễn. Xuất phát từ quan điểm đó, R. 
Pound nghiên cứu hệ thống luật nhưng 
trong hành động và gắn với những mục 
đích xã hội. 
K. Kalman tổng kết rằng, trong các 
nghiên cứu của mình, R. Pound nêu vấn 
đề về mâu thuẫn giữa tính ổn định của 
trật tự pháp luật với sự cần thiết thay đổi 
trong pháp luật, mà chính lý thuyết pháp 
luật nảy sinh là để giải quyết vấn đề này. 
Trung tâm của lý thuyết pháp luật của 
ông chính là thực tiễn pháp luật, quản lý 
tư pháp và quản lý hành chính. Tuy 
nhiên, ở mức độ nhất định, điều này lại 
mâu thuẫn với các nhu cầu chung nhất 
của thời đại và của xã hội, đặc biệt là nhu 
cầu xây dựng pháp luật một cách có chủ 
định. Để giải quyết vấn đề này, R. Pound 
đưa ra ý tưởng “luật tự nhiên tương đối”. 
Quan điểm của ông là kết hợp cách tiếp 
cận thực dụng với cách tiếp cận chức 
năng. “Xu hướng là đem phân tích xem 
các chuẩn mực pháp luật vận hành thế 
nào và làm sao để xây dựng các chuẩn 
mực ấy để đạt được kết quả tương ứng 
hơn là phân tích nội dung trừu tượng của 
nó. Chính điều này buộc chúng ta phải 
nghiên cứu mục tiêu của pháp luật. Chức 
năng là nhằm đạt mục tiêu nhất định” 
(Dẫn theo: Kulcsar Kalman, 1999: 40). 
Từ xuất phát điểm đó, ông kêu gọi: 
“Chúng tôi kêu gọi sự hỗ trợ của triết 
học, đạo đức học, chính trị, xã hội học 
giúp chúng tôi giải quyết các vấn đề mà 
chúng tôi xem là các vấn đề của luật học. 
Cần phải nghiên cứu pháp luật trong tất 
cả các quan hệ của nó như một giai đoạn 
chuyên biệt của cái theo nghĩa rộng là 
khoa học về xã hội” (Dẫn theo: Kulcsar 
Kalman, 1999: 41-42). 
Như những nhà xã hội học pháp luật 
thực dụng khác, pháp luật theo quan 
niệm của R. Pound không phải chỉ là 
những gì nằm trên giấy. Như đã đề cập, 
R. Pound cho rằng luật có tính chất tự 
nhiên tương đối vì nó là các định đề xuất 
phát từ nhu cầu lợi ích cụ thể của xã hội 
trong một thời kỳ nhất định. Thực chất, 
nền móng của các định đề cần xây dựng 
cho pháp luật nằm ở các nhu cầu, lợi ích 
thực sự của con người trong xã hội đó. 
Theo ông, các nhà luật học cần phải xuất 
phát từ các ham muốn, lợi ích, nhu cầu 
thực tế của con người và pháp luật luôn 
có một mục đích là làm sao để thỏa mãn 
tối đa các nhu cầu ấy. Ông nói: “Nhà tư 
tưởng pháp luật cần rời bỏ chiếc ghế tháp 
ngà, để đo các nhu cầu thực tế và các lợi 
ích thực tế” (Dẫn theo: Kulcsar Kalman, 
1999: 43), cần phải suy nghĩ về pháp luật 
như là một thiết chế xã hội để phục vụ 
nhu cầu xã hội. 
Trong tư tưởng của R. Pound, pháp 
luật được coi là công cụ kiểm soát xã hội 
cũng như làm hài hòa và thỏa hiệp các 
lợi ích. Theo ông, pháp luật là “một hình 
thức kiểm soát xã hội đặc biệt trong một 
xã hội đã có hình thức tổ chức chính trị 
ở bậc cao” (James M. Donovan , 2008). 
Vì vậy, ông dành phần nhiều thời gian 
để nghiên cứu các “vấn đề về lợi ích 
trong pháp luật”, bởi ông cho rằng vấn 
đề này là sự đảm bảo hữu hiệu và an toàn 
nhất cho tất cả các nhu cầu của cá nhân 
cũng như xã hội. Trong các công trình 
Một số quan điểm 31 
của mình, R. Pound cũng chỉ ra rằng vấn 
đề kiểm soát xã hội dù thế này hay thế 
khác có liên quan mật thiết đến sự điều 
tiết, phối hợp hành vi ứng xử hay mối 
tương tác xã hội của công dân, vì vậy 
ông đưa ra thuật ngữ mà ông cho rằng 
hoàn toàn phù hợp là “Người kỹ sư xã 
hội” (social engineering). Ông gọi những 
nhà xã hội học pháp luật là các kỹ sư xã 
hội bởi họ là những người đảm bảo sự 
thỏa hiệp và hài hòa các lợi ích xã hội, 
họ cần có cái nhìn xa hơn dòng chữ đạo 
luật (Kulcsar Kalman, 1999: 45). 
Ngoài ra, “người kỹ sư xã hội” là 
một phạm trù mà theo ông có thể loại trừ 
được sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh 
vực tư nhân cũng như lợi ích tư. Có thể 
nói đây là tư tưởng mà thông qua đó ông 
cũng phản ánh sự không đồng tình với 
chính sách kinh tế kế hoạch tập trung và 
phi tự do hóa trong kinh tế đang được 
nhiều nước áp dụng thời đó(*). 
Có thể thấy rằng, trong quan điểm 
của R. Pound, pháp luật có mục đích là 
đạt được sự thỏa hiệp giữa cá nhân và xã 
hội, còn về chức năng, pháp luật có sứ 
mệnh điều tiết và làm hài hòa xã hội. 
5. Quan điểm của Eugen Ehrlich 
(1962-1922) 
E. Ehrlich là nhà xã hội học người 
Áo có nhiều đóng góp cho xã hội học 
pháp luật. Cũng giống như R. Jhering, E. 
Ehrlich không phủ nhận quan điểm cho 
rằng pháp luật là những quy phạm của 
nhà nước, nhưng theo ông luật(**) không 
phải là nguồn duy nhất của pháp luật. 
(*)
 Trong đó ông thể hiện sự không đồng tình cả 
với chính sách kinh tế “New Deal” của Tổng 
thống Mỹ Franklin D. Roosevelt trong thời kỳ Đại 
khủng hoảng. 
(**)
 Luật ở đây được hiểu theo nghĩa là văn bản do 
nhà nước ban hành (là văn bản quy phạm pháp luật 
của nhà nước). 
Ngoài luật ra, pháp luật còn có những 
nguồn khác như ý thức pháp luật của 
thẩm phán, ý thức pháp luật của xã hội 
E. Ehrlich là người sáng tạo ra thuyết 
“luật tự do”. Theo ông “luật tự do” là 
luật sống, luật được làm nên bởi chính 
cuộc sống. Trong cuốn sách Cơ sở của 
xã hội học pháp luật viết năm 1913, ông 
đã đưa ra thuyết “Pháp luật sống của các 
liên minh”, trong đó nhấn mạnh tính đa 
nguyên của pháp luật và cho rằng tòa án 
và cơ quan hành chính cũng cần có được 
cái tự do lập pháp. Khái niệm “pháp luật 
sống” (living law) xuất phát từ quan 
điểm của ông cho rằng trong mỗi tổ chức 
hay sự liên kết của con người (mà ông 
gọi là liên minh) đều tồn tại một trật tự tự 
thân, cái trật tự do họ tự làm được gọi là 
các thỏa thuận, hợp đồng hay quy chế, 
hoặc là các tên gọi khác. Nhưng nó khác 
quy định trong luật nhà nước ở chỗ nó do 
các liên minh của con người tự làm nên 
và nó luôn có một trật tự khiến người ta 
tự nguyện tuân thủ. Vì vậy, theo E. 
Ehrlich, nền tảng và bản chất của pháp 
luật nên tìm trong chính xã hội. Phương 
pháp tìm kiếm tốt nhất đó là trực quan: 
quan sát cuộc sống, hành vi của con 
người, nghiên cứu tập quán, các giấy tờ 
trong thực thi pháp luật 
Để lập luận cho quan điểm “pháp 
luật sống” của mình, E. Ehrlich chỉ ra 
rằng, khoa học pháp lý đã đưa ra khái 
niệm chưa đúng, chưa khoa học về pháp 
luật. Khái niệm pháp luật mà người ta 
dùng lâu nay là hạn hẹp và không đúng, 
bởi nó chỉ phản ánh các hoạt động và 
quy định thủ tục cho ứng xử của công 
quyền. Điều đó làm cho pháp luật rất hạn 
chế. Theo ông, cuộc sống và hành vi của 
con người là do tập quán đời sống xã hội 
điều khiển chứ không phải do quan tòa 
điều khiển, vì vậy còn có một loại pháp 
luật rộng hơn nhiều, nó đang tồn tại 
32 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2016 
trong mỗi tổ chức, liên minh và suy rộng 
ra là thực tiễn xã hội. Chỉ pháp luật ấy 
mới sinh động và giúp con người giải 
quyết tất cả các mâu thuẫn phát sinh 
trong xã hội. Cũng theo E. Ehrlich, nhà 
làm luật không làm ra luật mà chỉ phát 
hiện ra luật mà thôi (Xem: Mai Văn 
Thắng, 2015). 
II. Vận dụng vào nghiên cứu xã hội 
học pháp luật ở Việt Nam 
Như vậy, qua khảo cứu có thể thấy 
quan niệm của một số nhà lý thuyết xã 
hội học pháp luật tiêu biểu đã tiếp cận 
pháp luật ở cái đích cuối cùng, đó chính 
là thực tiễn cuộc sống. Các ông đều coi 
nội dung quan trọng của pháp luật đó 
chính là các quan hệ xã hội, là quan hệ 
thực tiễn và cũng chính họ đã góp phần 
tăng cường sự năng động, tự chủ, tự quản 
của xã hội, qua đó hạn chế sự can thiệp 
quá sâu của nhà nước vào đời sống cá 
nhân cũng như xã hội. Cụ thể là: 
- Pháp luật không chỉ là những quy 
phạm do nhà nước ban hành hoặc ghi 
nhận, mang trong đó ý chí của nhà nước, 
được ban hành dưới dạng một văn bản 
nào đó, mà nó được hình thành trong 
thực tiễn cuộc sống, trong hành vi của 
con người. Pháp luật không phải là 
những gì trong tự nhiên, cũng không chỉ 
là những gì nằm trong văn bản mà pháp 
luật biểu hiện ở thực tiễn cuộc sống, là 
sự thực hiện luật pháp trong cuộc sống. 
- Pháp luật được hiểu là các hành vi 
pháp lý, thực tiễn pháp luật, trật tự pháp 
luật, thực hiện pháp luật Pháp luật 
chính là hành vi thực tế của chủ thể quan 
hệ pháp luật. Pháp luật theo trường phái 
này còn được gọi là “pháp luật sống”. 
Thẩm phán trong quá trình tạo lập “pháp 
luật sống” đã góp phần “bù đắp” luật 
pháp. Khi đưa ra các phán quyết hay 
quyết định, thẩm phán đang đóng vai trò 
là chủ thể lập pháp. 
- Pháp luật là công cụ để thỏa hiệp, 
điều tiết lợi ích, có chức năng tạo sự 
đồng thuận và hài hòa trong xã hội. 
- Pháp luật được bảo đảm thực hiện 
không chỉ bởi cưỡng chế nhà nước mà 
còn bởi các biện pháp xã hội khác. 
Vận dụng các quan niệm, tư tưởng 
đó, các nhà xã hội học và cả các nhà 
nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam có thể 
hướng vào các vấn đề sau: 
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và 
phát triển của xã hội học pháp luật, kế 
thừa và ghi nhận những đóng góp của 
các nhà xã hội học pháp luật tiền bối đối 
với sự phát triển của xã hội học pháp luật 
ngày nay. 
- Nghiên cứu những quy luật và tính 
quy luật của quá trình phát sinh, tồn tại, 
hoạt động của pháp luật trong đời sống 
xã hội nói chung, trong mối liên hệ của 
nó với các loại chuẩn mực cũng như sự 
vận động của thực tiễn xã hội. 
- Phân tích và thực hiện các hoạt 
động thống kê, dự báo các xu hướng biến 
đổi, phát triển của pháp luật trong từng 
giai đoạn phát triển của xã hội trên cả các 
phương diện: nghiên cứu luật, làm luật, 
thực thi pháp luật và chấp hành pháp luật 
để pháp luật luôn “sống” cùng thực tiễn 
xã hội. 
- Nghiên cứu tính quy định xã hội 
của pháp luật thông qua việc phân tích 
nguồn gốc, bản chất xã hội, vai trò và các 
chức năng xã hội của pháp luật. 
- Nghiên cứu các khía cạnh xã hội 
của hoạt động xây dựng pháp luật, thực 
hiện và áp dụng pháp luật; các nhân tố xã 
hội tác động đến công tác xây dựng, thực 
hiện và áp dụng pháp luật cũng như các 
Một số quan điểm 33 
biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu 
quả của các hoạt động này. 
- Nghiên cứu hệ thống pháp luật, 
mục đích xã hội của các quy phạm pháp 
luật, cơ chế điều chỉnh trong việc đảm 
bảo sự kiểm soát xã hội và tổ chức đời 
sống xã hội. Hướng đến sự cân bằng giữa 
chức năng kiểm soát và chức năng thỏa 
hiệp, điều tiết lợi ích, tạo sự đồng thuận 
và hài hòa trong xã hội. 
- Nghiên cứu ý thức pháp luật, hành 
vi pháp luật và lối sống theo pháp luật 
của các bộ phận dân cư, các nhóm xã hội 
cũng như các cá nhân trong xã hội. Đề 
xuất các phương án xây dựng ý thức 
pháp luật song hành với ý thức cộng 
đồng, ý thức xã hội. 
* * * 
Các nhà lý thuyết xã hội học pháp 
luật dù ở các thời kỳ khác nhau, theo các 
trường phái khác nhau nhưng đã thổi một 
tư duy hiện thực xã hội vào cả chiều 
cạnh nghiên cứu khoa học về pháp luật 
cũng như chiều cạnh đời sống thực tiễn 
pháp luật. Chuyên ngành xã hội học pháp 
luật nói chung đã lớn mạnh nhờ công lao 
rất lớn của các lý thuyết gia này. Các nhà 
nghiên cứu và thực tiễn trên lĩnh vực xã 
hội học pháp luật cũng như luật học nói 
chung ở Việt Nam cũng đã kế thừa, vận 
dụng có chọn lọc để phát triển chuyên 
ngành xã hội học đặc thù này và vận 
dụng vào thực tiễn đời sống pháp luật ở 
nước ta  
Tài liệu tham khảo 
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí 
Minh (2014), Chương trình đào tạo 
thạc sĩ chuyên ngành Xã hội học, 
Quyển 5, Hà Nội. 
2. James M. Donovan (2008), Legal 
Anthropology: An Introduction, 
Altamira Press, Lanham. 
3. Kulcsar Kalman (1999), Cơ sở xã hội 
học pháp luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
4. Mai Văn Thắng (2015), Bàn về trường 
phái Xã hội học pháp luật, 
15/06/ban-ve-truong-phai-xa-hoi-hoc-
phap-luat.html 
5. Võ Khánh Vinh (2011), Xã hội học 
pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, 
Hà Nội. 
6.  
-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1549 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_quan_diem_ly_thuyet_xa_hoi_hoc_phap_luat_va_dinh_huon.pdf