Một số suy nghĩ về biến động và điều hành lãi suất hiện nay

TÓM TẮT

Thị trường tiền tệ trong những ngày đầu tháng 5 vừa qua, đã chứng kiến nhiều sự kiện biến

động về lãi suất và những hoạt động có liên quan. Bên cạnh những dấu hiệu của sự biến động tích

cực, liệu có tiềm ẩn những gì khiến chúng ta cần quan tâm suy nghĩ ? Trên cơ sở đó có thể giúp

cho việc điều hành công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, thực sự đạt được mục tiêu cuối cùng

như mong đợi. Nói cách khác, cần có giải pháp gì để hỗ trợ đồng bộ với điều hành công cụ lãi suất,

nhằm tăng tính hiệu quả của nó, đối với mục tiêu kích cầu tín dụng, kích thích khả năng phục hồi

và tăng trưởng kinh tế nói chung.

Đây là bài viết có nội dung tương đối chuyên sâu về một lĩnh vực (tiền tệ-ngân hàng). Vì

vậy, để tiện việc theo dõi của đọc giả, trước hết chúng tôi muốn giới thiệu đôi nét sơ lược, về một số

vấn đề có tính chất nguyên lý cơ bản trực tiếp liên quan. Trên cơ sở đó, sẽ phân tích diễn biến, nhận

định và đề xuất ý kiến giải quyết vấn đề.

pdf 8 trang yennguyen 5580
Bạn đang xem tài liệu "Một số suy nghĩ về biến động và điều hành lãi suất hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số suy nghĩ về biến động và điều hành lãi suất hiện nay

Một số suy nghĩ về biến động và điều hành lãi suất hiện nay
51
Một số suy nghĩ . . .
Nghiên cứu – Trao đổi
MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ BIẾN ĐỘNG VÀ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT HIỆN NAY
 Nam Phương*, Đỗ Linh Hiệp**
TÓM TẮT
Thị trường tiền tệ trong những ngày đầu tháng 5 vừa qua, đã chứng kiến nhiều sự kiện biến 
động về lãi suất và những hoạt động có liên quan. Bên cạnh những dấu hiệu của sự biến động tích 
cực, liệu có tiềm ẩn những gì khiến chúng ta cần quan tâm suy nghĩ ? Trên cơ sở đó có thể giúp 
cho việc điều hành công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, thực sự đạt được mục tiêu cuối cùng 
như mong đợi. Nói cách khác, cần có giải pháp gì để hỗ trợ đồng bộ với điều hành công cụ lãi suất, 
nhằm tĕng tính hiệu quả của nó, đối với mục tiêu kích cầu tín dụng, kích thích khả nĕng phục hồi 
và tĕng trưởng kinh tế nói chung. 
Đây là bài viết có nội dung tương đối chuyên sâu về một lĩnh vực (tiền tệ-ngân hàng). Vì 
vậy, để tiện việc theo dõi của đọc giả, trước hết chúng tôi muốn giới thiệu đôi nét sơ lược, về một số 
vấn đề có tính chất nguyên lý cơ bản trực tiếp liên quan. Trên cơ sở đó, sẽ phân tích diễn biến, nhận 
định và đề xuất ý kiến giải quyết vấn đề.
Từ khoá: Biến động, điều hành, lãi suấtSOME THOUGHTS ABOUT PRESENT INTEREST CHANGE AND MANAGEMENT
ABSTRACT
Banking market for the irst days of May changed a lots in interest and its related activities. 
Besides the signs of active changes, is there any implicit that makes us think? Based on that can 
help to manage interest method of State Bank gain the last purpose as expected. In other words, 
what solutions to comprehensive assist/ support with manage interest method which raises its 
effectiveness for the goal of demand stimulation credit, in general, stimulate rehabilitate capacity 
and economic development. This essay which has promptly content about one aspect ( banking – 
monetary). First of all, we would like to introduce cursorily some basic principles which directly 
related so the readers easily monitor. Based on that, we will analyze the happenings, consider and 
put forward ideas for solving problems.
Key word: Change, manage, interest
* TS. GVC. Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
** PGS.TS. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
52
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
1. Tìm hiểu những nguyên lý cơ bản 
về công cụ lãi suất
Trên phương diện lý thuyết, lãi suất được 
hiểu một cách chung nhất, đó chính là một 
loại giá phải trả, để có được quyền sử dụng, 
một khoản vốn tiền tệ không thuộc sở hữu 
của mình, trong một khoảng thời gian nhất 
định. Chẳng hạn, khi ta gửi một khoản tiền 
vào ngân hàng, tức là đã nhường quyền sử 
dụng khoản tiền đó cho ngân hàng, trong thời 
hạn thỏa thuận giữa hai bên. Đổi lại, ta sẽ 
nhận được khoản tiền lãi, theo lãi suất tiền 
gửi của ngân hàng. Sau đó, ngân hàng sẽ sử 
dụng khoản vốn tiền tệ của ta để cho vay, 
cũng có nghĩa là họ đã bán lại quyền sử dụng 
khoản vốn tiền tệ này cho người khác (doanh 
nghiệp chẳng hạn). Đương nhiên, ngân hàng 
sẽ bán lại với mức giá (tức lãi suất cho vay) 
cao hơn khi ta bán cho họ; bởi lẽ về nguyên 
lý, lãi suất cho vay của ngân hàng sẽ tạo ra 
khoản thu, mà khoản thu này phải đủ để bù 
đắp lại chi phí mua vốn, các khoản chi phí 
quản lý phát sinh trong kinh doanh và đương 
nhiên phải bao gồm cả lợi nhuận của ngân 
hàng nữa chứ! Như vậy ta có thể hiểu một 
cách dễ dàng và đơn giản là khi ngân hàng 
mua vốn (nhận tiền gửi)với giá cao, thì cũng 
sẽ phải bán vốn ra (cho vay) với lãi suất cho 
vay cao. Đó cũng là vấn đề hiển nhiên và 
hoàn toàn phù hợp với nguyên lý chung của 
hạch toán kinh tế mà thôi! 
Cũng cần tìm hiểu sâu thêm một chút, về 
lãi suất mà người gửi tiền được hưởng: trong 
điều kiện nền kinh tế có lạm phát, tức là có 
sự mất giá của đồng tiền, lãi suất tiền gửi chỉ 
thực sự đem lại thu nhập cho người gửi tiền, 
khi mức lãi suất này lớn hơn tỷ lệ lạm phát. 
Giả sử lãi suất tiền gửi (công bố của ngân 
hàng hay còn gọi là lãi suất danh nghĩa) là 7% 
/nĕm; tỷ lệ lạm phát cũng là 7%/nĕm, thì thực 
sự người gửi tiền cũng không có lợi gì. Bởi vì 
khoản lãi ngân hàng trả cho họ, cũng chỉ vừa 
đủ để bù đắp lại cái mà họ đã bị mất đi (vì 
sự mất giá của đồng tiền do lạm phát), trong 
thời gian họ nhường quyền sử dụng khoản 
vốn tiền tệ của mình cho ngân hàng. Điều đó 
có thể diễn đạt tóm tắt qua công thức: 
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ 
lệ lạm phát
Với công thức trên ta thấy rõ, người có dư 
tiền sẽ chỉ sẵn sàng gửi tiền vào ngân hàng, 
khi lãi suất thực đạt được là số dương và đạt 
được ở giới hạn kỳ vọng của họ.
Một vấn đề khác có liên quan tới phạm 
trù lãi suất, cũng cần được đề cập tới trước 
khi bàn về thực trạng của nó hiện nay. Như 
ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường, các 
ngân hàng được tổ chức và vận hành theo mô 
hình hệ thống 2 cấp; trong đó cấp 1 là ngân 
hàng Trung ương (ở Việt Nam gọi là Ngân 
hàng Nhà nước), thực hiện chức nĕng quản 
lý nhà nước về mọi hoạt động về tiền tệ, tín 
dụng, ngân hàng nói chung; không có chức 
nĕng kinh doanh tiền tệ. Còn hệ thống cấp 2 
là ngân hàng trung gian (bao gồm các ngân 
hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân 
hàng chuyên doanh, ) thực hiện chức nĕng 
kinh doanh tiền tệ với mục tiêu tìm kiếm lợi 
nhuận.
Để thực hiện chức nĕng của mình, Ngân 
hàng Nhà nước (NHNN) chỉ đạo điều hành 
thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được 
những mục tiêu của chính sách này, thông 
qua các công cụ như chính sách lãi suất, 
chính sách tỷ giá, chính sách tín dụng, Tùy 
tình hình thực tế của nền kinh tế ở mỗi thời 
kỳ, NHNN sẽ sử dụng những biện pháp cụ 
thể của từng công cụ đó, nhằm đạt được mục 
tiêu chung của chính sách tiền tệ đã dự kiến. 
Chẳng hạn, trong thời kỳ cần đẩy mạnh tĕng 
53
Một số suy nghĩ . . .
trưởng kinh tế, NHNN thực thi chính sách 
tiền tệ mở rộng, tức là chủ trương tĕng cung 
ứng lượng tiền trong lưu thông. Để thực hiện 
được chủ trương này, NHNN sẽ chủ động 
hạ lãi suất tái cấp vốn, tạo điều kiện để các 
ngân hàng thương mại (NHTM), được nhận 
các khoản vay từ NHNN với lãi suất thấp. 
Do vậy, các NHTM sẽ có điều kiện để hạ lãi 
suất cho vay, kích thích mở rộng tín dụng cho 
nền kinh tế. Hoặc giả sử có tình huống ngược 
lại, khi muốn hạn chế tình trạng tĕng trưởng 
tín dụng quá nóng của nền kinh tế; đồng thời 
kiềm chế khả nĕng lạm phát có thể xẩy ra, 
NHNN có thể: hoặc chủ động nâng lãi suất 
tái chiết khấu, gây áp lực tĕng lãi suất cho 
vay của các NHTM, từ đó dẫn tới hệ quả thu 
hẹp tín dụng trong nền kinh tế. Hoặc NHNN 
có thể quy định trần lãi suất huy động ở mức 
giới hạn thấp, buộc các NHTM không được 
huy động tiền gửi cao hơn giới hạn này, từ 
đó hạn chế khả nĕng mở rộng nguồn vốn, 
mở rộng tín dụng trong nền kinh tế. Đó cũng 
chính là một vài nội dung đơn giản về cơ chế 
điều hành công cụ lãi suất của NHNN, nhằm 
đạt được mục tiêu chung của chính sách tiền 
tệ quốc gia.
2. Câu chuyện phức tạp về lãi suất thực 
tế hiện nay
Hãy tạm gác lại những vấn đề lý luận cơ 
bản nêu trên, bởi dù sao chúng cũng đã hoàn 
thành vai trò của mình, tạo cơ sở ban đầu 
giúp ta có điều kiện dễ dàng, theo dõi diễn 
biến của những câu chuyện thực tế đa dạng 
và phức tạp hiện nay, trên thị trường tiền tệ, 
tín dụng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế-
xã hội nói chung.
 Chủ đề mà ta đang muốn tìm hiểu và 
bàn luận ở đây cũng là một vấn đề thực tiễn, 
có liên quan và ảnh hưởng sâu rộng, đối với 
hầu hết các chủ thể trong nền kinh tế-xã hội; 
trong đó đương nhiên bao gồm cả chúng ta. 
Đó chính là câu chuyện diễn biến của lãi suất 
tiền gửi hiện hành qua những tín hiệu thông 
tin thị trường. 
2.1. Trần lãi suất huy động tiền gửi vẫn 
còn khả nĕng hạ tiếp
Nếu những ai quan tâm theo dõi thì chắc 
hẳn còn nhớ rằng, khoảng tháng 9/2012, các 
NHTM trong đó khởi đầu là ACB, đã tạo một 
đợt sóng đẩy lãi suất tiền gửi tiết kiệm (loại 
kỳ hạn trên 1 nĕm) lên 13%/nĕm. Tiếp theo là 
các NHTM khác cũng đồng loại tĕng theo. Có 
thể biện giải cho hiện tượng bất bình thường 
này là do, một số NHTM muốn đảm bảo cho 
thanh khoản trong dài hạn được dồi dào để 
phòng hờ rủi ro; một số NHTM khác vẫn còn 
trong tình trạng thiếu thanh khoản, do vậy 
phải đẩy lãi suất huy động lên để có hy vọng 
thu hút thêm được nguồn vốn huy động, bù 
đắp lỗ hổng thiếu hụt thanh khoản đã xuất 
hiện, do tồn tại các khoản nợ xấu. Hoặc tại 
một số NHTM khác quá xa đà vào việc cấp 
tín dụng, dẫn đến tình trạng tỷ trọng số tiền 
cho vay /vốn huy động quá cao, hơn nữa có 
những khoản tiền cho vay nhưng không thu 
hồi được nợ, xuất hiện tình trang nợ xấu gia 
tĕng, từ đó cũng phải vào cuộc theo đà nâng 
lãi suất huy động tiền gửi để có thêm thanh 
khoản. Một số NHTM có được những dự án 
đầu tư lớn, có hiệu quả; tuy nhiên vốn huy 
động chưa đáp ứng yêu cầu cho vay và thế là 
họ cũng sẵn sàng chấp nhận lao vào cuộc đua 
tĕng lãi suất huy động
Để lập lại trật tự lãi suất tiền gửi trong 
nền kinh tế, cuối tháng 12/2012, NHNN đã 
chỉ đạo hạ trần lãi suất huy động tiền gửi 
xuống còn 8%/nĕm. Bước sang nĕm 2013, từ 
26/03, NHNN quy định giảm trần lãi suất tiền 
gửi ngắn hạn từ 8%/nĕm xuống 7,5%/nĕm. 
Tiếp theo, ngày 10/05 vừa qua trên cơ sở các 
54
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
yếu tố điều hành kinh tế vĩ mô, với thực trạng 
diễn biến lạm phát được kiểm soát trong giới 
hạn cho phép, cũng như tình hình thanh khoản 
của các tổ chức tín dụng, ngày 10/05/2013, 
NHNN đã công bố quyết định cắt giảm 1% 
đối với các lãi suất chủ chốt (được coi là các 
lãi suất điều hành). Cụ thể: Với lãi suất tái cấp 
vốn giảm từ 8%/nĕm xuống 7%/nĕm; lãi suất 
chiết khấu từ 6%/nĕm xuống 5%/nĕm; lãi 
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện 
tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu 
hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN, 
đối với các ngân hàng từ 9%/nĕm xuống 
8%/nĕm. Còn với trần lãi suất tiền gửi, vẫn 
được giữ nguyên ở mức hiện hành 7,5%/nĕm. 
Cùng với việc đưa ra quyết định giảm lãi suất 
điều hành chủ chốt, giữ nguyên trần lãi suất 
tiền gửi, NHNN cũng có đưa ra quy định, về 
mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng 
VND, của các tổ chức tín dụng, đối với các 
nhu cầu tín dụng thuộc các đối tượng được ưu 
đãi như: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, 
công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, 
giảm từ 12%/nĕm xuống 11%/nĕm. 
Thông qua việc giảm các loại lãi suất 
điều hành như trên cho thấy, định hướng hỗ 
trợ lãi suất đầu vào của NHNN đối với các 
tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi để 
các NHTM có điều kiện thực hiện giảm lãi 
suất đầu ra, với các khách hàng có nhu cầu 
tín dụng.
Đối với lãi suất huy động tiền gửi, NHNN 
chủ trương vẫn tiếp tục duy trì trần lãi suất ở 
mức 7,5%/nĕm, với lý giải rằng cĕn cứ vào 
các yếu tố điều hành kinh tế vĩ mô, diễn biến 
kiểm soát lạm phát với mức kỳ vọng trong 
nĕm 2013 là khoảng 6,5% - 7%, do vậy mức 
trần lãi suất huy động ngắn hạn ở mức 7,5%/
nĕm vẫn được duy trì và được cơ quan quản 
lý vĩ mô coi là hợp lý. 
Chúng tôi đề xuất giảm trần lãi suất 
xuống 6,5%/nĕm
Có ý kiến cho rằng, nên giảm tiếp trần lãi 
suất tiền gửi xuống mức 7%/nĕm với lý do, 
để có thể tiếp tục giảm thêm lãi suất cho vay, 
kích thích tĕng trưởng tín dụng mạnh hơn. 
Chúng tôi cho rằng, trong điều kiện hiện nay, 
việc giảm trần lãi suất tiền gửi xuống 7%/nĕm 
cũng sẽ không có hiệu ứng gì khác hơn. Thật 
vậy, thực tế cho thấy, ngay trước khi có quy 
định trần lãi suất tiền gửi giảm từ 8%/nĕm 
xuống 7,5%/nĕm, một số ngân hàng lớn đã 
chủ động cắt giảm lãi suất xuống dưới mức 
trần quy định. Cụ thể như Vietcombank hạ lãi 
suất kỳ hạn 1 tháng xuống 6%/nĕm, 2 tháng 
6,5%/ nĕm, 3 tháng 6,8%/nĕm và kỳ hạn 6-9 
tháng chỉ còn 7%/nĕm. Vietinbank với lãi suất 
kỳ hạn 1-12 tháng là 7%/nĕm. Tại BIDV tình 
hình cũng tương tự, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 
3-12 tháng chỉ còn 7%/nĕm;Hiện nay, tình 
trạng các ngân hàng huy động tiền gửi, với 
mức lãi suất dưới trần quy định, đã trở thành 
khá phổ biến trên thị trường tiền tệ.Thực ra 
hiện tượng này cũng không có gì đáng ngạc 
nhiên lắm. Nó có thể xuất phát từ nhiều lý do 
khác nhau, song có điều chắc chắn là các ngân 
hàng này đang trong tình trạng dư thừa thanh 
khoản, chưa tìm được dự án khả thi để đầu tư 
(‘đầu vào” đang lớn hơn “đầu ra”).
Tuy nhiên, cũng không nên từ thực trạng 
nêu trên, để có thể tùy tiện đưa ra quyết định 
tiếp tục giảm trần lãi suất tiền gửi thiếu cĕn 
cứ khoa học và thực tiễn. Bởi lẽ, khi hạ trần 
lãi suất tiền gửi quá giới hạn hợp lý, người 
gửi tiền sẽ cảm thấy bĕn khoĕn khi tiền lãi 
tiết kiệm ngày càng ít đi, họ sẽ sẵn sàng rời 
bỏ “sân chơi tiền gửi” để đến với “sàn vàng”, 
hay dự trữ USD,Khi đó trình trạng khó 
khĕn về vốn, thiếu hụt thanh khoản của các 
NHTM sẽ có thể lại xuất hiện và sẽ trở nên 
55
Một số suy nghĩ . . .
trầm trọng, khi tĕng trưởng tín dụng có cơ hội 
quay trở lại. Chúng tôi cho rằng, cần nghiên 
cứu để điều chỉnh hạ trần lãi suất tiền gửi 
xuống 6,5%/nĕm. Điều này hoàn toàn phù 
hợp thực trạng điều hành chỉ tiêu lạm phát và 
yêu cầu kéo giảm lãi suất cho vay hiện nay.
2.2. Lời giải nào cho bài toán kích cầu 
tín dụng
Câu chuyện lãi suất bây giờ không chỉ 
dừng lại ở lãi suất huy động tiền gửi, mà điều 
cần quan tâm nhiều hơn chính lại là lãi suất 
cho vay, nếu như muốn tìm lời giải cho bài 
toán kích cầu tín dụng. Xét trên giác độ vĩ 
mô, tĕng trưởng tín dụng không phải là mục 
tiêu cuối cùng, song chính nó lại là một trong 
những công cụ rất quan trọng và là mục tiêu 
trung gian, góp phần đưa nền kinh tế đạt mục 
tiêu cuối cùng là tĕng trưởng kinh tế.
2.2.1. Giảm lãi suất cho vay phải được 
coi là nhiệm vụ cấp bách hiện nay
Chúng ta đã bình luận khá nhiều về lãi 
suất huy động tiền gửi, song hãy đừng quên 
rằng mục tiêu của huy động là để cho vay. Có 
thể dễ dàng nhận thấy rằng, việc giảm lãi suất 
huy động chính là tiền đề trực tiếp và rất quan 
trọng để hướng tới mục tiêu giảm lãi suất cho 
vay. Tuy nhiên, diễn biến lãi suất thực tế cho 
thấy, lãi suất cho vay vẫn còn ở mức cao so với 
trần lãi suất huy động. Hiện nay lãi suất cho 
vay đối với các ngành được ưu đãi như nông 
nghiệp-nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp 
nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ và ứng dụng 
công nghệ cao mới được hưởng mức lãi suất 
9-11%/nĕm; còn lại các lĩnh vực khác từ 12-
15%/nĕm. Chưa kể, với các khoản dư nợ cũ 
còn tồn tại của một số doanh nghiệp, hiện vẫn 
phải tiếp tục chịu đựng với lãi suất trên 15%. 
- Lãi suất cho vay cao, ngân hàng “ế vốn”
Theo số liệu báo cáo của NHNN về tình 
hình hoạt động tín dụng của các NHTM, tính 
đến ngày 23/4/2013, huy động vốn tĕng 5,34% so 
với cuối nĕm 2012, cao hơn gấp 1,5 lần mức 
tĕng của cùng kỳ nĕm 2012, trong khi tĕng 
trưởng tín dụng chỉ đạt 1,44%. Số liệu thống 
kê này, trong một mức độ nhất định, cho thấy 
hệ thống ngân hàng đang trong tình trạng “ế 
vốn”. Vậy điều gì sẽ xẩy ra khi tình trạng 
“tồn kho” tiền của các ngân hàng cứ tiếp tục 
kéo dài và gia tĕng? Trước hết nó ảnh hưởng 
trực tiếp tới kết quả kinh doanh của ngân 
hàng và đồng thời ảnh hưởng tới họat động 
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và 
toàn bộ nền kinh tế-xã hội. Để có thể tháo gỡ 
khó khĕn này, cần nhận diện những nguyên 
nhân của tình trạng trên. Chúng tôi cho rằng 
hiện tượng ế vốn như trên xuất phát từ nhiều 
nguyên nhân; song trước hết có thể lý giải là 
do lãi suất cho vay quá cao, so với khả nĕng 
chịu đựng của các doanh nghiệp. Thật vậy, 
lãi suất tiền vay cấu thành trong giá thành 
sản phẩm. Khi các yếu tố khác không đổi, 
lãi suất vay càng cao thì giá thành sản phẩm 
sẽ càng cao. Nếu doanh nghiệp muốn có lãi 
thì phải bán sản phẩm giá cao. Đương nhiên 
người tiêu dùng sẽ không chấp nhận. Kết 
cục là doanh nghiệp không vay và vốn của 
ngân hàng cũng không có đầu ra. Điều nguy 
hại hơn là khi doanh nghiệp không bán được 
hàng, tồn kho tĕng lên, sản xuất sẽ không thể 
tiếp tục; đồng thời khi doanh nghiệp không 
trả được vốn vay, nợ xấu của ngân hàng cũng 
sẽ tiếp tục gia tĕng.
- Câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao lại có tình 
trạng lãi suất cho vay cao như vậy?
Nhiều ý kiến cho rằng, các ngân hàng 
thương mại (NHTM) lâu nay đã và đang 
hưởng khoản chênh lệch phần trĕm giữa 
lãi suất huy động và cho vay gọi là tỷ lệ 
lãi biên (NIM) khá lớn. Theo tính toán của 
VnEconomy, nĕm 2012 NIM của 6 NHTMCP 
56
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
hàng đầu, niêm yết trên sàn giao dịch chứng 
khoán, đạt trung bình ở mức 4,1%, thấp hơn 
mức trung bình 4,3% của nĕm 2011, nhưng 
cao hơn mức 3,6% và 3,5% của các nĕm 
2010 và 2009. Như vậy, nếu lấy lãi suất cho 
vay trung bình là 12,5% và trần lãi suất tiền 
gửi là 7,5% thì NIM hiện nay là 5%. Đây rõ 
ràng là một vấn đề bất hợp lý; tuy nhiên việc 
tìm giải pháp xử lý mang tính thuyết phục 
cũng không phải là đơn giản; bởi lẽ lâu nay 
các NHTM đã quen kinh doanh trong điều 
kiện NIM khá thoải mái. 
- Đề xuất quy định trần lãi suất cho vay 
10%/nĕm
Với tầm nhìn vĩ mô, các cơ quan quản 
lý nhà nước cần suy nghĩ, để có giải pháp 
xử lý hiệu quả trong việc điều hành giảm lãi 
suất cho vay. Đồng thời NHNN cần coi đây 
là trách nhiệm, là nhiệm vụ cấp bách chứ 
không thể chỉ hô hào chung chung, kêu gọi 
các NHTM phấn đấu trong nĕm 2013, đưa 
lãi suất cho vay xuống 13%/nĕm (!). Chúng 
tôi cho rằng NHNN cần quy định trần lãi suất 
cho vay của các NHTM trong điều kiện hiện 
nay chỉ ở mức 10%/nĕm và sẽ tiếp tục giảm 
tùy tình hình thực tế. Đương nhiên với một 
số NHTM, việc áp dụng mức trần lãi suất cho 
vay này sẽ gặp những khó khĕn nhất định; 
đặc biệt là những ngân hàng có tình trạng nợ 
xấu nhiều, nĕng lực tài chính yếu và công tác 
quản trị không tốt. Với những ngân hàng này, 
có thể quy định lộ trình cụ thể và đây cũng 
được xem là bước thử thách, trong quá trình 
tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã và đang 
được triển khai.
2.2.2. Khẩn trương triển khai biện pháp 
xử lý nợ xấu
Lãi suất vay cao cũng chính là một trong 
những nguyên nhân quan trọng, dẫn đến tình 
trạng giá thành sản phẩm cao, hàng hóa khó 
tiêu thụ, tồn kho ngày càng nhiều, nợ vay 
không trả được, tình trạng “nợ xấu” tại các 
NHTM xuất hiện ngày càng nhiều.
Cho đến thời điểm hiện nay con số nợ xấu 
chính xác là bao nhiêu cũng đang là một vấn 
đề chưa rõ ràng vì nhiều lý do. Có nhiều con 
số về nợ xấu trong nền kinh tế được công bố 
nhưng thiếu độ tin cậy. Tại Diễn đàn kinh kinh 
tế mùa xuân tháng 4/2013, PGS,TS.Trần Đình 
Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho 
rằng: Hiện nay có có nhiều thứ còn xấu hơn cả 
nợ xấuViệc không biết chính xác số nợ xấu, 
còn xấu hơn cả nợ xấu, bởi không có số liệu 
đáng tin cậy thì không thể xây dựng chiến lược 
đúng để giải quyết vấn đề.
Nhiều ý kiến cho rằng, nợ xấu tại các 
NHTM đến nay ước khoảng 500.000 tỷ đồng. 
Một khối lượng vốn không nhỏ đang nằm bất 
động đang tạo ra một lực cản rất lớn đối với 
dòng vốn tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế. 
Vì vậy cùng với việc tích cực áp dụng các 
biện pháp khả thi của mỗi NHTM trong việc 
giải quyết nợ xấu đã phát sinh, không để nợ 
xấu mới phát sinh thêm, Nhà nước cần sớm 
triển khai hoạt động có hiệu quả đối với Công 
ty quản lý tài sản quốc gia (VAMC), góp phần 
đẩy nhanh quá trình giải quyết tình trạng nợ 
xấu, góp phần khơi thông dòng chảy tín dụng 
trong nền kinh tế, tạo điều kiện giảm lãi suất 
cho vay và tĕng khả nĕng cung ứng tín dụng 
cho nền kinh tế. Đương nhiên cần xác định 
trách nhiệm giải tỏa nợ xấu trước hết và chủ 
yếu vẫn thuộc về cả hệ thống ngân hàng cũng 
như phía các doanh nghiệp, song vai trò điều 
hành vĩ mô của Nhà nước để phối hợp hành 
động lúc này là vô cùng quan trọng.
2.2.3. Giải cứu tình trạng doanh nghiệp 
phá sản
Như đã nêu trên, điểm mấu chốt để giải 
quyết vấn đề kích cầu tín dụng không chỉ 
57
Một số suy nghĩ . . .
là lãi suất cho vay của ngân hàng. Một vấn 
đề cũng hết sức quan trọng, đó là khả nĕng 
hấp thụ, là sức cầu tín dụng của các doanh 
nghiệp hiện nay ra sao. Cũng lại có hiện 
tượng tương tự như vấn đề nợ xấu, đó là 
con số doanh nghiệp phá sản, tính đến thời 
điểm hiện nay hiện nay là bao nhiêu? Có lẽ 
không ai có câu trả lời chính xác! Con số 
được nhiều người nhắc đến là hơn 50.000 
doanh nghiệp phá sản. Thế nhưng, tại phiên 
họp ngày 14/05/2013 Chủ tịch Quốc hội 
Nguyễn sinh Hùng cho rằng: “Tình hình 
doanh nghiệp bi đát,tôi nghĩ có tới 100.000 
doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy 
chục nghìn , tỷ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn 
hơn 65%”. Có thể coi đây là một vấn đề cực 
kỳ nghiêm trọng đối với vấn đề phục hồi và 
tĕng trưởng của nền kinh tế. Rõ ràng thực 
trạng hoạt động của các doanh nghiệp hiện 
nay, dù lãi suất cho vay có giảm thì khả nĕng 
tĕng trưởng tín dụng với chỉ tiêu điều hành 
là 12% trong nĕm 2013 cũng chỉ là ảo tưởng 
mà thôi. Nhiều doanh nghiệp đã phát biểu 
rằng, trong thời gian gần đây, tuy lãi suất 
cho vay của một số ngân hàng đã giảm chút 
ít, song doanh nghiệp cũng không không 
muốn vay vì không biết vay để làm gì khi 
hàng tồn kho còn quá nhiều. Hoặc với một 
số doanh nghiệp khác, nợ xấu còn đè nặng 
trên vai, nên cũng rất khó tiếp cận với khoản 
vay mới, dù có nhu cầu.
Khôi phục tình hình hoạt động của các 
doanh nghiệp là vấn đề cực kỳ khó khĕn và 
đòi hỏi phải xử lý đồng bộ nhiều giải pháp, kể 
cả vi mô và vĩ mô. Từng doanh nghiệp phải 
nỗ lực song sự hỗ trợ từ giải pháp vĩ mô cũng 
vô cùng quan trọng. Nhà nước cần áp dụng 
các giải pháp cần thiết như :
- Xem xét giảm thuế thu nhập doanh 
nghiệp. 
Cùng với việc giảm lãi suất cho vay, việc 
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp lúc này sẽ 
tạo cơ hội lớn cho doanh nghiệp có lợi nhuận, 
có động cơ cần thiết kích thích sản xuất. Việc 
xem xét giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có 
thể sẽ là quyết định không dễ chấp nhận đứng 
trên giác độ cân đối ngân sách trong thời gian 
trước mắt. Tuy nhiên, hãy vì mục tiêu lâu dài 
giải cứu doanh nghiệp để cứu cả nền kinh tế 
đang lâm nguy, chúng ta rất cần áp dụng giải 
pháp này. 
- Áp dụng các giải pháp cần thiết liên 
quan tới kích cầu tiêu dùng. 
Thời gian qua sức tiêu thụ sản phẩm của 
các doanh nghiệp rất thấp, dẫn tới tình trạng 
giá trị hàng tồn kho trong nền kinh tế ngày 
càng gia tĕng và hệ quả đáng lo ngại của nó, 
chính là con số các doanh nghiệp phá sản 
lên tới hàng trĕm ngàn như hiện nay. Vì vậy 
Nhà nước cần nghiên cứu để sớm đưa ra giải 
pháp kích cầu tiêu dùng, tương tự như kích 
cầu mua nhà ở xã hội vừa được triển khai. 
Điều này là hoàn toàn cần thiết và có thể khả 
thi, bởi lẽ với điều kiện thực tế đã 3 tháng 
liên tục (3,4,5/2013), CPI tại 2 thành phố lớn 
là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đều giảm và 
tính chung CPI tháng 5/2013 cả nước giảm 
0,06%.
Kết luận
Để có thể biến chỉ tiêu định hướng tĕng 
trưởng kinh tế 5,5% trong nĕm 2013 thành 
hiện thực, trong bối cảnh nền kinh tế đang 
trong tình trạng vô cùng khó khĕn như hiện 
nay, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp; 
trong đó công cụ lãi suất cần được điều hành 
hết sức hợp lý, theo hướng tạo điều kiện hỗ 
trợ tối đa, để các doanh nghiệp phục hồi và 
phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của 
mình. Riêng với chỉ tiêu tĕng trưởng tín dụng 
nĕm 2013 dự kiến 12%, cho đến thời điểm 
58
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
hiện tại, có thể thấy rõ là rất khó khả thi, nếu 
không có sự điều hành một cách thực sự khoa 
học và hiệu quả của Chính phủ và trực tiếp là 
cơ quan Ngân hàng Nhà nước. Bên cạnh đó 
cũng rất cần có sự phối hợp hành động, của 
tất cả các thành phần có liên quan, với tách 
nhiệm cao nhất, vì lợi ích chung của nền kinh 
tế và cộng đồng xã hội./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Nhung. Tiền tệ - Ngân hàng, Nxb. Thống kê, Hà Nội 2007.
[2]. WWW.gov.vn
[3]. WWW.VnExpress.net;
[4]. WWW.cafeF.vn;
[5]. WWW.xaluan.com;

File đính kèm:

  • pdfmot_so_suy_nghi_ve_bien_dong_va_dieu_hanh_lai_suat_hien_nay.pdf