Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động của Kiểm toán nhà nước (KTNN) đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và Nhà nước nhằm khẳng định sự cần thiết, tính chính đáng để tồn tại một cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của một quốc gia như KTNN. Trong những năm qua, cùng với việc nâng cao năng lực, hiệu quả và chất lượng kiểm toán, KTNN có các giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có cơ sở cho việc hoạch định đúng đắn các chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Các kết quả phân tích này nhằm đưa ra một số gợi ý hữu ích nhằm góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động trong chiến phát triển của Kiểm toán nhà nước đến năm 2020

pdf 7 trang yennguyen 5240
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và nhà nước
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN6 Số 128 - tháng 6/2018
NAÂNG CAO CHAÁT LÖÔÏNG NGUOÀN NHAÂN LÖÏC 
KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC ÑAÙP ÖÙNG YEÂU CAÀU 
KIEÅM SOAÙT TAØI CHÍNH, TAØI SAÛN COÂNG
CUÛA ÑAÛNG VAØ NHAØ NÖÔÙC
ThS. HOÀNG BỔNG*
*Kiểm toán nhà nước khu vực XIII
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động của Kiểm toán nhà nước (KTNN) đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công của Đảng và Nhà nước nhằm khẳng định sự cần thiết, tính chính đáng để tồn tại một cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công của một quốc gia như 
KTNN. Trong những năm qua, cùng với việc nâng cao năng lực, hiệu quả và chất lượng kiểm toán, KTNN 
có các giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có cơ sở cho việc hoạch định 
đúng đắn các chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Các kết quả phân tích này 
nhằm đưa ra một số gợi ý hữu ích nhằm góp phần nâng cao hiệu lực hoạt động trong chiến phát triển của 
Kiểm toán nhà nước đến năm 2020.
Từ khóa: Chất lượng nguồn nhân lực của kiểm toán nhà nước.
Improving the quality of human resources of SAV to meet the requirements of public finance, assets 
controls by our party and state
Improving the quality of human resources is to contribute to improving the effectiveness of SAV to meet 
the requirements of financial control and public assets of the Party and the State in order to confirm the 
necessity and legitimacy for the existence of an agency which has the function of inspecting and controlling 
the management and use of finance and public assets of a country as SAV. In the past years, together with 
improving the capacity, efficiency and quality of auditing, SAV has had important solutions to improve the 
quality of human resources to serve as a basis for proper planning and developing policies and effective 
use of human resources. The results of this analysis are intended to provide some useful suggestions to 
contribute to improving operational effectiveness in the development of SAV up to 2020.
key words: The quality of human resources of SAV.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ 
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển 
năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, 
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà 
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh 
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và 
đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh 
đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân 
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong 
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư 
pháp”. Điều đó, đã thể hiện yêu cầu của Đảng phải 
tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm 
nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực 
nhà nước. Để tăng cường kiểm soát quyền lực nhà 
nước theo yêu cầu của Đảng, cần phải có các công 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 7Số 128 - tháng 6/2018
cụ kiểm soát có hiệu lực và hiệu quả, trong đó có 
cơ quan KTNN. Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài 
chính công do Quốc hội thành lập, hoạt động độc 
lập và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN sẽ là công cụ 
kiểm tra tài chính có hiệu lực nhất của Nhà nước 
đối với mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có quản lý, sử 
dụng tài chính, tài sản công, đặc biệt là trong điều 
kiện Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh cuộc 
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở 
nước ta hiện nay. 
Để nâng cao hiệu lực hoạt động của KTNN, 
đáp ứng yêu cầu kiểm soát tài chính, tài sản công 
của Đảng và Nhà nước cần phải thực hiện đồng bộ 
nhiều giải pháp; trong đó có giải pháp quan trọng 
hàng đầu là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 
kiểm toán nhà nước. Trong phạm vi bài viết này, 
chúng tôi chỉ xin đề cập đến hai khía cạnh cơ bản 
có ý nghĩa về mặt phương pháp luận để nâng cao 
chất lượng nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước là 
khái niệm và đặc điểm của nguồn nhân lực kiểm 
toán nhà nước.
khái niệm nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước
Theo Từ điển Tiếng Việt: Nguồn là nơi phát 
sinh, nơi cung cấp. Nhân lực là sức của con người 
bao gồm: Sức lực cơ bắp (thể lực), trình độ tri thức 
được vận dụng vào quá trình lao động của mỗi cá 
nhân (trí lực), những ham muốn, hoài bão của bản 
thân người lao động hướng tới một mục đích xác 
định (tâm lực). Nhân lực với ý nghĩa đầy đủ của 
nó bao gồm ba yếu tố có sự liên hệ biện chứng với 
nhau, đó là thể lực, trí lực, tâm lực. Nguồn nhân 
lực được hiểu là nơi phát sinh, nơi cung cấp sức lực 
của con người đầy đủ trên các phương diện cho lao 
động sản xuất. 
Hiện nay, trên thế giới và trong nước có nhiều 
khái niệm về nguồn nhân lực với các góc độ tiếp 
cận khác nhau. 
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: Nguồn 
nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng 
lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực 
tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong 
một cộng đồng. 
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì: 
Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những 
người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. 
Ngân hàng Thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực 
là toàn bộ “vốn người” (thể lực, trí lực, kỹ năng 
nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân sở hữu. Nguồn 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN8 Số 128 - tháng 6/2018
lực con người được coi như là một nguồn vốn bên 
cạnh các nguồn vốn khác như tài chính, công nghệ, 
tài nguyên thiên nhiên... 
Giáo trình Quản lý nguồn nhân lực xã hội, Học 
viện Hành chính Quốc gia, Nhà xuất bản Khoa 
học và Kỹ thuật Hà Nội, năm 2008 đưa ra khái 
niệm nguồn nhân lực xã hội và nguồn nhân lực 
của tổ chức; trong đó: (1) Nguồn nhân lực xã hội 
là dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao 
động. (2) Nguồn nhân của một tổ chức là một bộ 
phận cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Hay 
nói khác đi, nguồn nhân lực của tổ chức là hệ con 
của hệ thống nguồn nhân lực xã hội. Đó là tất cả 
những người làm việc trong tổ chức, từ thủ trưởng 
đến nhân viên. Đó cũng là người đang chờ đợi để 
có thể vào làm việc cho tổ chức, tức là nguồn dự 
trữ của tổ chức. Nguồn nhân lực của một tổ chức 
là một thuật ngữ được sử dụng để phân biệt với 
nhiều loại nguồn lực khác của tổ chức như quyền 
lực, tài lực (tài chính), vật lực (trang thiết bị, máy 
móc nhà xưởng). 
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có 
thể có những khái niệm khác nhau về nguồn nhân 
lực nhưng những khái niệm trên đây đều thống 
nhất ở nội dung cơ bản sau đây: 
- Nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực 
lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm 
sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các 
cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được 
đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá 
trình phát triển xã hội. 
- Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động 
cho xã hội. Con người với tư cách là yếu tố cấu thành 
lực lượng sản xuất, giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực 
cơ bản và nguồn lực của sự phát triển thì không thể 
chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng hay 
chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất 
lượng; không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi 
lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm 
năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội. 
- Nguồn nhân lực của một tổ chức là tất cả 
những người làm việc trong tổ chức đó và những 
người đang chờ đợi để có thể vào làm việc cho tổ 
chức đó.
 Sự phát triển của nguồn nhân lực có thể đánh 
giá theo hai phương diện: Về số lượng, cơ cấu và 
chất lượng. 
Số lượng nhân lực: Nói đến nguồn lực của bất 
kỳ một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia 
nào câu hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người 
và sẽ có thêm bao nhiêu nữa trong tương lai. 
Đấy là những câu hỏi cho việc xác định số lượng 
nguồn nhân lực. Sự phát triển về số lượng nguồn 
nhân lực dựa trên hai nhóm yếu tố bên trong (nhu 
cầu thực tế công việc đòi hỏi phải tăng số lượng 
lao động) và những yếu tố bên ngoài của tổ chức 
như sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động 
do di dân; số lượng nguồn nhân lực còn phải xem 
xét cả về mặt cơ cấu có phù hợp với nhu cầu của 
lao động hay không.
Chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nhân 
lực là yếu tố tổng hợp của nhiều yếu tố bộ phận 
như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, 
sức khỏe, thẩm mỹ... của người lao động. Trong 
các yếu tố trên thì trí lực và thể lực là hai yếu tố 
quan trọng trong việc xem xét, đánh giá chất lượng 
nguồn nhân lực. 
KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính công cao 
nhất của quốc gia thực hiện kiểm toán nhằm bảo 
đảm việc quản lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các 
nguồn lực tài chính, tài sản công phục vụ cho sự 
phát triển của đất nước. Là một cơ quan công quyền, 
nhân lực KTNN bao gồm: Cán bộ, công chức, viên 
chức và kiểm toán viên nhà nước; trong đó:
- Cán bộ: Cán bộ là công dân Việt Nam, được 
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức 
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng 
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội 
ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung 
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, 
thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là 
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân 
sách nhà nước. Đây là bộ phận giữ vị trí lãnh đạo 
cơ quan KTNN. Hiện nay, ở KTNN chỉ có duy nhất 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 9Số 128 - tháng 6/2018
Tổng KTNN là cán bộ. 
- Công chức: Công chức là công dân Việt Nam, 
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, 
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt 
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung 
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị 
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, 
quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng. 
Căn cứ vào ngạch được bổ nhiệm, công chức được 
phân loại như sau: Loại A gồm những người được 
bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao cấp hoặc 
tương đương; Loại B gồm những người được bổ 
nhiệm vào ngạch chuyên viên chính hoặc tương 
đương; Loại C gồm những người được bổ nhiệm 
vào ngạch chuyên viên hoặc tương đương; Loại D 
gồm những người được bổ nhiệm vào ngạch cán sự 
hoặc tương đương và ngạch nhân viên. Ở KTNN, 
bộ phận này chủ yếu làm việc ở các đơn vị thuộc bộ 
máy điều hành của KTNN.
- Viên chức: Viên chức là công dân Việt Nam 
được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại 
đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng 
làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị 
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. 
Ở KTNN, bộ phận này làm việc ở các đơn vị sự 
nghiệp công lập của KTNN.
- KTV nhà nước: KTV nhà nước là công chức 
Nhà nước được bổ nhiệm vào ngạch kiểm toán để 
thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Chức danh KTV 
nhà nước gồm các ngạch sau đây: KTV; KTV 
chính; KTV cao cấp. Đây là bộ phận chiếm đại 
đa số trong tổng biên chế và là lực lượng lao động 
chính, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của 
cơ quan KTNN. Bộ phận này chủ yếu làm việc ở 
các đơn vị thực hiện nhiệm vụ kiểm toán (KTNN 
chuyên ngành, KTNN khu vực). 
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, đội ngũ 
cán bộ, công chức, viên chức, KTV nhà nước phải 
bảo đảm đủ về số lượng, cơ cấu và yêu cầu cao về 
chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức 
nghề nghiệp trong sáng, tận tụy với công việc, yêu 
ngành, yêu nghề, công tâm, khách quan trong quá 
trình thực thi công vụ. Họ chính là những người 
đang hàng ngày miệt mài thực hiện nhiệm vụ “giữ 
tiền” và “giữ người” cho đất nước, góp phần minh 
bạch và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia.
Từ sự phân tích trên đây, có thể đưa ra định 
nghĩa về nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước như 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN10 Số 128 - tháng 6/2018
sau: Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước là tổng 
thể số lượng, theo cơ cấu và chất lượng cán bộ, 
công chức, viên chức và KTV nhà nước với tổng 
hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm 
chất đạo đức, tinh thần tạo nên năng lực mà bản 
thân họ và cơ quan KTNN đã, đang và sẽ huy động 
vào quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán đáp 
ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Đặc điểm của nguồn nhân lực kiểm toán 
nhà nước
Để có cơ sở cho việc hoạch định đúng đắn các 
chính sách phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn 
nhân lực kiểm toán nhà nước ở nước ta, một vấn đề 
quan trọng là phải xuất phát từ đặc điểm của nguồn 
nhân lực kiểm toán nhà nước cũng như xu hướng 
biến đổi của nó. Đặc điểm chủ yếu của nguồn nhân 
lực kiểm toán nhà nước, bao gồm:
Một là: Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước liên 
quan trực tiếp hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà 
nước về tài chính, tài sản công
Nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước có vai trò 
quan trọng vì liên quan trực tiếp đến hoạt động 
kiểm tra, giám sát của Nhà nước về tài chính, tài 
sản công. Với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính 
nhà nước cao nhất, hoạt động KTNN phục vụ việc 
kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử 
dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần 
thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, 
lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm 
pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, 
tiền và tài sản nhà nước. Để đáp ứng yêu cầu nêu 
trên, nguồn nhân lực kiểm toán nhà nước phải đáp 
ứng yêu cầu thực hiện đầy đủ cả ba loại hình kiểm 
toán là kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân 
thủ và kiểm toán hoạt động; trong đó: Kiểm toán 
báo cáo tài chính là loại hình kiểm toán để kiểm tra, 
đánh giá, xác nhận tính đúng đắn, trung thực của 
báo cáo tài chính; kiểm toán tuân thủ là loại hình 
kiểm toán để kiểm tra, đánh giá và xác nhận việc 
tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế mà đơn vị được 
kiểm toán phải thực hiện; kiểm toán hoạt động là 
loại hình kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh 
tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài 
chính, tài sản công. Những năm qua, KTNN mới 
chỉ chủ yếu thực hiện kiểm toán theo loại hình kiểm 
toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, chưa 
có điều kiện thực hiện nhiều loại hình kiểm toán 
hoạt động. Hiện nay, để thực thi các quy định của 
Hiến pháp năm 2013, KTNN đang chú trọng triển 
khai loại hình kiểm toán hoạt động và tiến tới sẽ tập 
trung vào loại hình kiểm toán quan trọng này. Điều 
đó đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng phải đi trước 
một bước trong việc trang bị kiến thức và kỹ năng 
thực hiện loại hình kiểm toán hoạt động cho đội 
ngũ KTV nhà nước. 
Hai là: Yêu cầu cao về trình độ chuyên môn và 
đạo đức nghề nghiêp
Nghề nghiệp kiểm toán yêu cầu đội ngũ công 
chức, KTV phải có trình độ chuyên môn, kinh 
nghiệm và kỹ năng tương xứng, đòi hỏi phải có quá 
trình tuyển dụng, đào tạo, huấn luyện rất công phu. 
Kiểm toán là công việc mang tính chuyên môn cao, 
công tác kiểm toán đòi hỏi đội ngũ làm nghề phải 
có trình độ chuyên môn sâu, được đào tạo bài bản, 
không ngừng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và trau 
dồi kỹ năng nghề nghiệp. KTV nhà nước là một loại 
công chức đặc biệt về chuyên môn nghiệp vụ và đòi 
hỏi điểm xuất phát khá cao về trình độ khi bước vào 
nghề. Theo tuyên bố Lima: “Công chức kiểm toán 
của cơ quan KTNN phải có đủ năng lực cần thiết và 
đạo đức để hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ của mình. 
Ngay từ lúc tuyển dụng vào biên chế của cơ quan 
KTNN phải quan tâm đến trình độ kiến thức và 
năng lực trên mức độ trung bình cũng như thực tế 
nghiệp vụ ở mức thỏa đáng của các ứng viên”. Trong 
thực tế, KTNN cũng đặt ra tiêu chuẩn tối thiểu đối 
với ứng viên tuyển dụng vào ngành đó là phải có 
bằng đại học trở lên. Cũng theo tuyên bố Lima 
“Cần quan tâm ở mức cao nhất đến việc bồi dưỡng 
lý luận và thực tế nghiệp vụ trên bình diện nội bộ, 
đại học và quốc tế cho tất cả các công chức kiểm 
toán của cơ quan KTNN và khuyến khích công việc 
đó bằng mọi phương tiện, kể cả mặt tài chính và tổ 
chức. Việc bồi dưỡng phải vượt ra khỏi những kiến 
thức kế toán và kiến thức truyền thống về luật, kinh 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 11Số 128 - tháng 6/2018
tế và phải bao gồm cả các kỹ thuật khác về kinh tế 
xí nghiệp, kể cả về xử lý dữ liệu bằng máy vi tính”. 
Điều đó có nghĩa là đòi hỏi của nghề kiểm toán đối 
với người làm nghề là không những phải tinh thông 
nghiệp vụ mà còn phải có kỹ năng xử lý nghiệp vụ, 
có hiểu biết sâu, rộng về nhiều lĩnh vực. 
KTV nhà nước phải là người có đạo đức nghề 
nghiệp thích hợp. Theo Chuẩn mực kiểm toán 
quốc tế cũng như Chuẩn mực KTNN Việt Nam 
thì KTV nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc 
đạo đức nghề nghiệp sau đây: Liêm chính; độc lập, 
khách quan; trình độ, năng lực; kỹ năng chuyên 
môn; thận trọng nghề nghiệp và bảo mật.
Liêm chính: Trong hoạt động kiểm toán, KTV 
nhà nước phải công minh, chính trực, thẳng thắn, 
trung thực để có chính kiến rõ ràng; công bằng, tôn 
trọng sự thật, không thành kiến và thiên vị. KTV 
nhà nước không được nhận tiền, quà biếu và tránh 
các quan hệ xã hội có thể dẫn đến việc phải nhân 
nhượng trong kiểm toán...
Độc lập, khách quan: Trong hoạt động kiểm 
toán, KTV nhà nước phải thật sự độc lập, khách 
quan, không bị chi phối hoặc bị tác động bởi bất 
kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần khi kiểm toán và 
đưa ra kết luận, kiến nghị kiểm toán. Trong khi 
thực hiện nhiệm vụ, KTV nhà nước chỉ tuân theo 
pháp luật, các chuẩn mực, quy trình, phương pháp 
chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy định 
khác của KTNN.
Trình độ, năng lực: KTV nhà nước phải có sự 
am hiểu về pháp luật, các nguyên tắc và chuẩn mực 
điều chỉnh hoạt động của đơn vị được kiểm toán; 
hiểu rõ quy định của pháp luật trong các lĩnh vực 
quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính công; về quản 
lý, sử dụng tài chính và tài sản công thuộc lĩnh vực, 
chuyên ngành được phân công kiểm toán. KTV 
nhà nước phải hiểu rõ quy định của pháp luật và 
quy định về hoạt động kiểm toán của KTNN; hiểu 
biết và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán, kế toán 
và quản lý tài chính, các quy trình và hướng dẫn 
thực hành theo yêu cầu của nhiệm vụ kiểm toán...
Kỹ năng chuyên môn: KTV nhà nước phải có các 
kỹ năng chuyên môn để thực hiện các công việc 
của một cuộc kiểm toán; có khả năng vận dụng các 
kỹ năng chuyên môn phù hợp với sự đa dạng, phức 
tạp của nhiệm vụ được giao. KTV nhà nước phải 
có kỹ năng lập kế hoạch, chương trình kiểm toán; 
kỹ năng thu thập, phân tích thông tin, thu thập 
bằng chứng kiểm toán; kỹ năng lập báo cáo kiểm 
toán, thuyết trình, thảo luận; thực hiện thành thạo 
các phương pháp nghiệp vụ kiểm toán và có khả 
năng sử dụng các phương tiện công nghệ hiện đại 
trong hoạt động kiểm toán.
Thận trọng nghề nghiệp: KTV nhà nước phải 
thực hiện công việc với sự thận trọng cần thiết 
trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán. KTV nhà 
nước phải có thái độ hoài nghi mang tính nghề 
nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện 
kiểm toán; có thái độ, tác phong thận trọng, kỹ 
lưỡng để công việc đạt chất lượng cao; chỉ tham 
gia vào các hoạt động kiểm toán mà mình có kiến 
thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết trong lĩnh 
vực đó... 
Bảo mật: KTV nhà nước phải có trách nhiệm 
thực hiện theo các quy định của pháp luật về giữ bí 
mật nhà nước, bí mật của đơn vị được kiểm toán về 
những thông tin mà mình đã thu thập được trong 
hoạt động kiểm toán; không được tiết lộ thông tin 
dưới bất kỳ hình thức nào khi chưa được phép của 
cấp quản lý có thẩm quyền, trừ khi có nghĩa vụ 
phải công khai theo quy định của pháp luật.
Để có được đội ngũ công chức, KTV nhà nước 
tinh thông nghiệp vụ và có đạo đức trong sáng đòi 
hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ phải 
được thực hiện thường xuyên, liên tục, có kế hoạch 
và nội dung phù hợp. 
Ba là: Có xu hướng trẻ hóa và phát triển nhanh 
chóng 
Do KTNN là hoạt động mới chỉ xuất hiện ở Việt 
Nam từ năm 1994, trước khi thành lập cơ quan 
KTNN, chưa có cơ quan nào trong bộ máy nhà 
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của KTNN. 
Do vậy, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công 
chức, KTV nhà nước phải tiến hành từ đầu, song 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN12 Số 128 - tháng 6/2018
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đội ngũ 
cán bộ, công chức, KTV nhà nước từng bước được 
kiện toàn và phát triển nhanh chóng. Nếu như năm 
1994 khi bắt đầu thành lập, KTNN có 60 người 
thì sau hơn 20 năm hoạt động đến nay KTNN đã 
có trên 2000 người và dự kiến đến năm 2020 có 
khoảng trên 2500 người. 
Đội ngũ công chức của KTNN được hình thành 
từ 2 nguồn chính là: 
- Nguồn tiếp nhận: Đây là những công chức 
hình thành từ những năm đầu thành lập và chuyển 
công tác từ đơn vị khác về KTNN, chủ yếu là những 
công chức lớn tuổi, có kinh nghiệm trong công tác 
thực tiễn. 
- Nguồn thi tuyển (chủ yếu từ sinh viên đã tốt 
nghiệp các trường đại học): Đây là lực lượng chiếm 
đa số trong đội ngũ công chức của KTNN hiện nay; 
trong đó, số công chức trẻ mới được tuyển dụng 
qua thi tuyển những năm gần đây chiếm khoảng 
50% tổng số công chức toàn ngành. Do vậy, đội ngũ 
công chức có xu hướng trẻ hóa, nhất là sau mỗi đợt 
tổ chức thi tuyển công chức vào cơ quan KTNN. 
Nguồn nhân lực trẻ và tăng nhanh là một lợi thế 
đối với sự phát triển của KTNN ở nước ta. Công 
chức trẻ, nhất là số mới được tuyển dụng qua thi 
tuyển những năm gần đây có mặt mạnh là được 
đào tạo cơ bản các kiến thức mới của nền kinh tế 
thị trường, theo chuyên ngành phù hợp với chuyên 
môn của KTNN; có kiến thức về tin học, ngoại ngữ 
tốt; có khả năng thích ứng, nắm bắt nhanh với kiến 
thức hiện đại và có sức khỏe dồi dào. Tuy nhiên, đa 
số họ còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong giao 
tiếp, ứng xử, xử lý tình huống và vận dụng kiến 
thức lý thuyết vào thực tế công tác. 
Bốn là: Luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro
Nghề kiểm toán được xã hội ghi nhận như một 
nghề nhạy cảm vì nó cận kề với sự cám dỗ mang 
tính vật chất, kết luận kiểm toán có thể thiếu khách 
quan nếu người làm ra nó thiếu bản lĩnh nghề 
nghiệp và bị mua chuộc bởi những lợi ích vật chất. 
Chính vì vậy, tố chất “liêm chính, khách quan” là 
yêu cầu buộc phải có đối với KTV. Đây được coi 
là điều kiện tiên quyết trong đạo đức nghề kiểm 
toán và phải được KTV thường xuyên trau dồi, rèn 
luyện duy trì và phát huy. Mặt khác, do hoạt động 
kiểm toán phân tán trên địa bàn rộng lớn cả nước, 
trung bình mỗi KTV mỗi năm phải đi công tác xa 
nhà, xa cơ quan dài ngày khoảng 6 đến 7 tháng; 
hàm chứa nhiều rủi ro về chuyên môn, phẩm chất 
đạo đức của KTV. Do vậy, vừa đòi hỏi đội ngũ KTV 
về cả trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp; 
vừa phải có chế độ đãi ngộ thích hợp; vừa đòi hỏi 
phải có cơ chế kiểm soát chất lượng và quản lý đạo 
đức nghề nghiệp chặt chẽ. 
Để kiểm soát chất lượng kiểm toán và quản lý 
chặt chẽ đạo đức nghề nghiệp của KTV, KTNN 
phải tăng cường các biện pháp giáo dục, kiểm tra 
kiểm soát, phòng ngừa; đồng thời, phát hiện kịp 
thời và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi 
phạm đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật công tác của 
ngành và pháp luật của Nhà nước. 
Nhận diện đúng đắn những khía cạnh cơ bản 
nêu trên sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc đề ra hệ 
thống các giải pháp đầy đủ, đồng bộ và có tính khả 
thi cao cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực kiểm toán nhà nước đáp ứng yêu cầu kiểm soát 
tài chính, tài sản công của Đảng và Nhà nước ở 
nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam 
năm 2013;
2. Luật KTNN (sửa đổi);
3. Luật Cán bộ, công chức năm 2008;
4. Chuẩn mực KTNN số 30 – Bộ quy tắc đạo 
đức nghề nghiệp;
5. Tuyên bố Lima của INTOSAI;
6. Giáo trình Quản lý nguồn nhân lực xã hội, 
Học viện Hành chính Quốc gia;
7. Từ điển bách khoa Việt Nam; Từ điển tiếng 
Việt.
Ngày nhận bài lần 1: 04/6/2018
Ngày duyệt đăng: 10/6/2018

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_chat_luong_nguon_nhan_luc_kiem_toan_nha_nuoc_dap_un.pdf