Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm

Tóm tắt: Kế toán quản trị (KTQT) là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho các nhà quản trị

doanh nghiệp (DN) trong quá trình ra quyết định. Trên thế giới, KTQT đã có lịch sử hình

thành và phát triển hơn 100 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam KTQT trong các DN, KTQT còn

tương đối sơ khai, nhiều kỹ thuật KTQT hiện đại chưa được áp dụng. Bài viết cũng nghiên

cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngẫu nhiên đến mức độ áp dụng KTQT. Kết quả nghiên cứu

cho thấy, mức độ phân quyền, mức độ áp dụng CNTT và trình độ nhân viên có ảnh hưởng

đáng kể đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN

pdf 10 trang yennguyen 3460
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm

Mức độ áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp Việt Nam - Kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 183
MỨC ĐỘ ÁP DỤNG KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 
- KẾT QUẢ TỪ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 
ADOPTION OF MANAGEMENT ACCOUNTING PRACTICES: 
AN VIETNAMESE STUDY 
#Thái Anh Tuấn 
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh 
Tóm tắt: Kế toán quản trị (KTQT) là nguồn thông tin quan trọng hỗ trợ cho các nhà quản trị 
doanh nghiệp (DN) trong quá trình ra quyết định. Trên thế giới, KTQT đã có lịch sử hình 
thành và phát triển hơn 100 năm. Tuy nhiên, ở Việt Nam KTQT trong các DN, KTQT còn 
tương đối sơ khai, nhiều kỹ thuật KTQT hiện đại chưa được áp dụng. Bài viết cũng nghiên 
cứu ảnh hưởng của một số yếu tố ngẫu nhiên đến mức độ áp dụng KTQT. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, mức độ phân quyền, mức độ áp dụng CNTT và trình độ nhân viên có ảnh hưởng 
đáng kể đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN. 
Từ khóa: CNTT, KTQT, mức độ áp dụng, phân quyền, trình độ kế toán 
Abstract: Management accounting is critical information for decision making. In the 
developed countries, the management accounting has been developing and adopting for more 
than 100 years. In Vietnam, however, management accounting is rarely. Many management 
accounting practices aren’t adopted. Researcher also indicated affect of some contingency 
factors to adoption of management accounting practices. Level of decentralized, IT and 
knowledge of accountants has significant affect to the adoption, others are not. 
Keywords: Adoption, IT, management accounting, decentralized, knowledge of accountants 
1. Giới thiệu 
Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các DN Việt Nam đang đối 
mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các DN trong và ngoài nước. Để nâng cao năng lực cạnh 
tranh, các DN cần sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đem lại nhiều giá trị gia tăng cho khách 
hàng với các chi phí thấp. Để thực hiện được điều này, các DN cần có hệ thống thông tin trợ 
giúp cho các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định. KTQT là nguồn thông tin quan trọng 
giúp các nhà quản trị phân tích để đưa ra các quyết định đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả 
kinh doanh của DN. 
Trên thế giới, KTQT đã được các DN Mỹ áp dụng từ cuối thế kỷ thứ XIX và hiện nay 
ở các cường quốc kinh tế, KTQT rất được coi trọng và được ứng dụng rộng rãi trong thực 
tiễn. Tại Việt Nam, mặc dù nền kinh tế đã chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường từ 
hơn 30 năm nay nhưng hệ thống KTQT trong các DN vẫn còn sơ khai và chưa được quan tâm 
đúng mức. Thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản trị DN nói riêng và 
khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam trên thị trường nói chung. Bài viết này giới thiệu kết 
quả nghiên cứu bằng một khảo sát thực nghiệm tương đối toàn diện về mức độ áp dụng 
KTQT và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. Nghiên 
cứu sẽ trả lời hai câu hỏi sau: (i) Các phương pháp và kỹ thuật KTQT được các DN Việt Nam 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 184 
áp dụng ở mức độ nào? (ii) Các yếu tố ngẫu nhiên có ảnh hưởng như thế nào đến việc áp dụng 
các phương pháp KTQT trong các DN Việt Nam? 
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung lý luận về tổ chức áp dụng KTQT trong các 
DN Việt Nam và cơ sở cho các khuyến nghị và biện pháp, nhằm thúc đẩy việc áp dụng KTQT 
trên thực tế trong các DN Việt Nam. 
Sau phần mở đầu, phần hai của bài viết sẽ là tổng quan nghiên cứu về KTQT trong và 
ngoài nước. Phần ba là phương pháp nghiên cứu. Phần bốn là kết quả khảo sát và phân tích 
kết quả. Phần cuối cùng là các phát hiện, khuyến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo trong 
tương lai. 
2. Tổng quan nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu 
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về KTQT, các 
công trình nghiên cứu tập trung vào các chủ đề như mức độ áp dụng KTQT trong các DN, so 
sánh mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở một số nước và các nhân tố ảnh hưởng đến việc 
áp dụng KTQT trong các DN. Tiêu biểu cho các công trình nghiên cứu này là công trình 
nghiên cứu của Chenhall và Langfield-Smith (1998) nghiên cứu mức độ áp dụng các phương 
pháp KTQT tại 140 DN lớn trong ngành công nghiệp chế biến của Úc. Mô hình nghiên cứu 
của Chenhall & Langfield-Smith sau này được nhiều công trình nghiên cứu khác áp dụng để 
nghiên cứu mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở các nước hoặc trong các lĩnh vực kinh 
doanh khác nhau như Abdel- Kader và Luther (2006), Pierce&O’Dea(1998), Shields (1998), 
Wijewardena & Zoysa(1999), Ahmad(2012), Yalcin (2012); NuatipSumkaew (2012), v.v 
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về mức độ áp dụng KTQT trong các DN, nhiều 
công trình nghiên cứu tập trung lý giải nguyên nhân và ảnh hưởng của các yếu tố đến việc áp 
dụng các phương pháp KTQT trong các DN. Nổi bật trong các công trình này là các nghiên 
cứu của các tác giả Joshi (2001), Haldma&Laats (2002), Szychta (2002), 
Sulaimanetal. (2004), Pierce và O’Dea (1998), Karanja và cộng sự (2013), Abdel- Kader và 
Luther (2006), Abdel- Kaderetal., (2008), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi Anh (2012), 
Pollanen và Abdel- Maksoud (2010), Ahmad &Leftesi, 2014; Doan, 2016; James, 2013; 
Maelah & Ibrahim, 2007; Subasinghe & Fonseka, 2009. Hầu hết các công trình nghiên cứu về 
các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN đều dựa trên lý 
thuyết ngẫu nhiên để xác định các yếu tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, các yếu tố ảnh hưởng được 
mỗi công trình nghiên cứu không hoàn toàn giống nhau. 
Yếu tố đầu tiên được nhiều tác giả nghiên cứu là mức độ cạnh tranh trên thị trường. 
Sulaimanetal. (2004), Halma và Laats (2002), Karanja và cộng sự (2014), Sulaimanetal. 
(2015), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi Anh (2012), Ahmad, K. etal. (2015), (Leite, 
2015), Kariuki, S. N. (2016) đều cho rằng cạnh tranh ngày càng tăng dẫn đến các DN phải sử 
dụng nguồn lực và ra quyết định hiệu quả hơn từ đó làm phát sinh nhu cầu thông tin phục vụ 
quản trị DN. 
Yếu tố thứ hai được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu là quy mô DN. Quy mô DN 
thường xuyên được coi là một yếu tố trong mô hình ngẫu nhiên (Chenhall, 2007). Các công 
trình nghiên cứu của các tác giả Joshi (2001), Haldma&Laats (2002), Szychta (2002), 
Alattaretal. (2009), Sulaimanetal. (2004), Pierce và O’Dea (1998), Karanja và cộng sự (2013), 
Abdel- Kader và Luther (2006), Abdel- Kaderetal (2008), Ahmad, K. (2012), Doan Ngoc Phi 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 185
Anh (2012), Albu, N. etal., (2012), Pollanen và Abdel- Maksoud (2010) đều coi quy mô là 
một yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc áp dụng các phương pháp KTQT trong các DN. 
Yếu tố thứ ba được nghiên cứu là mối quan hệ giữa phân quyền và việc áp dụng 
KTQT được Abdel- Kader (2008), Doan (2012) và Leite (2015) nghiên cứu và cho kết quả 
giống nhau là việc phân quyền trong quản trị có tác động tích cực đến việc áp dụng các 
phương pháp KTQT hiện đại (Chia, (1995), Abdel- Kader (2008). 
Ngoài các yếu tố trên, ảnh hưởng của việc áp dụng CNTT, sự quan tâm của nhà quản 
trị đến KTQT và trình độ nhân viên kế toán đến mức độ áp dụng KTQT cũng được nhiều tác 
giả nghiên cứu. 
Tại Việt Nam, mặc dù KTQT đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại học từ 
gần 30 năm qua. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về KTQT vẫn còn khiêm tốn. Cho đến 
nay ngoài các công trình nghiên cứu về khả năng áp dụng các kỹ thuật KTQT của phương 
Tây vào các DN Việt Nam của Đoàn Ngọc Phi Anh (2012) và nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Phương Dung (2014) nhằm mục đích xác định KTQT trong các DN Việt Nam đang ở trong 
giai đoạn nào trong quá trình phát triển của KTQT. 
Như vậy, có thể nói, cho đến nay chưa có công trình nào tại Việt Nam nghiên cứu đầy 
đủ về mức độ áp dụng KTQT và ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên đến việc áp dụng các 
phương pháp KTQT trong các DN hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Đây 
chính là khoảng trống cho nghiên cứu này. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Thu thập dữ liệu 
Bảng hỏi được thiết kế và phát triển dựa trên các câu hỏi khảo sát đã được một số tác 
giả sử dụng trước đây như: Chenhall và Langfield- Smith (1998), Wijewardena (1999), Joshi 
(2001), Hyvonen (2005), Ahmad (2012), Yalcin (2012) và có sự chỉnh sửa cho phù hợp với 
văn hóa, ngôn ngữ và thực tiễn của DN Việt Nam trên cơ sở thông tin phản hồi từ 4 chuyên 
gia là giảng viên dạy kế toán trong các trường đại học tại Vinh và Hà nội và 6 chuyên gia là 
phụ trách kế toán trong các DN tại Vinh và Hà nội. 
Bảng câu hỏi gồm 30 câu, gồm các phần sau: 
Phần giới thiệu: Trình bày mục đích, ý nghĩa nghiên cứu, mời tham gia khảo sát và 
cam kết về mục đích sử dụng và bảo mật thông tin đối với người trả lời. 
Phần 1. Thông tin chung về DN và người trả lời (từ câu hỏi 1 đến câu hỏi 8): Các câu 
hỏi về DN, bao gồm các thông tin phục vụ cho phân loại và đánh giá quy mô DN như số 
lượng lao động sử dụng, doanh thu hàng năm, quy mô tài sản. Thông tin về thời gian thành 
lập hoặc số năm hoạt động được sử dụng để xác định tuổi của DN. Thông tin về người trả lời 
bao gồm các thông tin về vị trí công việc mà người trả lời đảm nhận và số năm công tác tại 
DN để đánh giá mức độ hiểu biết của họ về hệ thống KTQT của công ty. 
Phần 2. Khảo sát mức độ áp dụng KTQT trong DN (từ câu hỏi 9 đến câu hỏi 21): 
Phần này bao gồm các câu hỏi được thiết kế phục vụ cho việc đánh giá mức độ áp dụng 
KTQT trong các DN để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất.Câu hỏi sử dụng cho mục này 
là “Công ty của anh/chị đang áp dụng các phương pháp KTQT dưới đây ở mức độ nào?”. 
Thang đo Likert 5 mức độ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi này với 1 = chưa bao giờ 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 186 
và 5 = rất thường xuyên. 
Phần 3. Khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến KTQT trong DN (từ câu 21 đến câu 30): 
Phần này gồm các câu hỏi thu thập thông tin để đánh giá mức độ của một số yếu tố ngẫu 
nhiên trong mô hình nghiên cứu. Các yếu tố ngẫu nhiên được lựa chọn dựa trên các mô hình 
nghiên cứu trước đây gồm: Cạnh tranh, phân quyền, mức độ áp dụng CNTT trong DN, Sự 
quan tâm của nhà quản trị đến KTQT và Trình độ nhân viên kế toán. Thang đo Likert 5 mức 
độ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi này. 
Bảng hỏi điều tra được phát trực tiếp thông qua các mối quan hệ cá nhân và đồng thời 
được gửi qua thư điện tử (emai) nhờ công cụ Google Docs. Tổng cộng có hơn 1.000 bảng hỏi 
được phát ra cho các đối tượng là nhà quản lý, phụ trách kế toán và kế toán viên trong các DN 
được lựa chọn trong phạm vi nghiên cứu. Khảo sát được thực hiện từ tháng 4/2017 đến tháng 
12/2017. Số phiếu nhận được là 483 phiếu, sau khi làm sạch, loại bỏ các phiếu trả lời trùng, 
các phiếu bỏ trống quá nhiều câu hỏi không sử dụng được và các phiếu trả lời không phù hợp, 
có nhiều mâu thuẫn.... còn lại 437 phiếu. 
Đặc điểm của các DN trả lời khảo sát thể hiện ở bảng sau: 
Bảng 1. Đặc điểm các DN trả lời khảo sát 
Các đặc điểm Số lượng Tỷ lệ 
Dịch vụ 26 5,9 
Đa ngành 60 13,7 
Sản xuất 76 17,4 
Thương mại 97 22,2 
Xây dựng 178 40,7 
Lĩnh vực kinh doanh 
Tổng 437 100,0 
Dưới 100 người 252 57,7 
Từ 100 đến 300 người 90 20,6 
Từ 301 đến 500 người 39 8,9 
Từ 501 đến 1000 người 28 6,4 
Trên 1000 người 28 6,4 
Số lao động 
Tổng 437 100,0 
Lĩnh vực kinh doanh: Các DN trả lời khảo sát được chia thành 5 lĩnh vực kinh doanh: 
Sản xuất, xây dựng, thương mại, dịch vụ và đa ngành. Trong đó, các DN đa ngành là những 
DN có hoạt động chính từ 2 ngành nghề trở lên như sản xuất và xây dựng, thương mại và dịch 
vụ hoặc xây dựng và thương mại, v.v Bảng 1 cho thấy trong số các DN trả lời khảo sát, DN 
xây dựng chiếm tỷ lệ cao nhất (40%), tiếp theo là DN thương mại (22,2%) và thấp nhất là các 
DN dịch vụ (26 DN, chiếm 5,9%). 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 187
Quy mô DN: Nghiên cứu sử dụng tiêu chí số lao động để phân loại quy mô DN, đây là 
cách phân loại được một số tác giả như Szychta (2002), Halbouni(2014) sử dụng. Theo cách 
phân loại này, các DN có quy mô nhỏ dưới 100 người chiếm tỷ lệ cao nhất (57,7%), tiếp đến 
là các DN có số lượng lao động từ trên 100 người đến 300 người (20,6%). Các DN có từ 501 
đến 1.000 người và trên 1.000 người chiếm tỷ lệ như nhau (6,4%). 
Địa phương đóng trụ sở của DN: Các DN trả lời khảo sát nằm rải rác tại 26 tỉnh trên 
cả nước, đông nhất là Hà Nội, chiếm 69,6%, ít nhất là các tỉnh Cao Bằng, Đà Nẵng, Đồng 
Nai, Hà Tĩnh, Kon Tum và Lạng Sơn, mỗi tỉnh chỉ có 1 DN trả lời khảo sát. 
3.2. Kỹ thuật xử lý dữ liệu 
Dữ liệu thu được từ khảo sát chính thức sẽ được làm sạch sau đó dùng cho phân tích 
nhân tố khám phá EFA. Các nhân tố thu được rút trích từ phân tích EFA sẽ được đánh giá độ 
tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s alpha trước khi phân tích tương quan và phân tích hồi quy 
để kiểm định các giả thuyết. 
4. Kết quả và bàn luận 
4.1. Mức độ áp dụng các kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam 
4.1.1. Kỹ thuật hạch toán chi phí 
Xét chung tổng số các DN trả lời khảo sát, tỷ lệ các DN áp dụng hạch toán chi phí 
theo sản phẩm ở mức thường xuyên và rất thường xuyên chiếm 66,1% số DN trả lời khảo sát. 
Số còn lại không áp dụng hoặc áp dụng ở mức thấp. Tỷ lệ các DN hạch toán chi phí theo bộ 
phận (phân xưởng, đội sản xuất, đội xây lắp, phòng ban, v.v ) ở mức thường xuyên và rất 
thường xuyên chỉ chiếm 30,9%. Tỷ lệ áp dụng hạch toán chi phí toàn DN đạt 59,3% và tính 
giá thành theo chi phí biến đổi đạt tỷ lệ 26,1%. Điều này có thể do các DN khảo sát phần lớn 
là các DN có quy mô vừa và nhỏ nên thường hạch toán chi phí trên quy mô toàn DN. 
Về mức độ áp dụng các kỹ thuật hạch toán chi phí. 
Mức độ hạch toán theo sản phẩm cũng giảm dần giữa các DN. Đứng đầu là các DN 
xây dựng có mức độ hạch toán chi phí theo sản phẩm đạt điểm trung bình là 4,46/5 điểm. 
Đứng thứ hai về mức độ áp dụng hạch toán chi phí theo sản phẩm là các DN sản xuất, với 
điểm trung bình là 4,30 điểm. Các DN thương mại và dịch vụ có mức áp dụng rất thấp, lần 
lượt là 2,18 và 1,96 điểm. Các DN đa ngành áp dụng ở mức trung bình, 3,03 điểm. 
Mức độ hạch toán chi phí theo bộ phận trong các DN còn thấp hơn so với hạch toán 
chi phí theo sản phẩm. Ngoài các DN xây dựng áp dụng hạch toán theo bộ phận đạt mức 
trung bình, các DN còn lại đều dưới 3 điểm. Thấp nhất là các DN thương mại với điểm trung 
bình là 1,57 điểm. 
Mức độ áp dụng hạch toán chi phí toàn DN cao nhất là các DN dịch vụ với điểm trung 
bình đạt 4,24 điểm. Trong các DN khác mức áp dụng phương pháp này đều đạt ở mức trung 
bình. 
Mức độ áp dụng tính giá thành theo chi phí biến đổi trong các DN Việt Nam nhìn 
chung khá thấp. Ngoài các DN dịch vụ đạt điểm trung bình là 3,04, các DN còn lại có điểm 
trung bình đều dưới 3. Điều này chứng tỏ phương pháp hạch toán chi phí này còn chưa phổ 
biến ở Việt Nam. 
4.1.2. Sử dụng dự toán 
Dự toán là công cụ được sử dụng để lập kế hoạch, kiểm soát và đánh giá hoạt động 
trong các DN. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ và mức độ dự toán khá cao trong các DN xây 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 188 
dựng và sản xuất. Ngược lại, trong các DN thương mại và dịch vụ tỷ lệ sử dụng dự toán khá 
thấp. 
Cụ thể trong các DN xây dựng, tỷ lệ lập dự toán đạt từ 46,1 trở lên. Tỷ lệ lập dự toán 
sản xuất đạt cao nhất (100,0%), thấp nhất là báo cáo tài chính dự toán (46,1%). Các dự toán 
tiêu thụ, dự toán mua vật tư và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 52,8; 65,2 và 57,3%. 
Các DN sản xuất có tỷ lệ sử dụng dự toán đứng thứ hai sau các DN xây dựng. Tỷ lệ áp 
dụng cao nhất đối với dự toán mua vật tư (52,6%), thấp nhất vẫn là áp dụng báo cáo tài chính 
dự toán (43,4%). Các dự toán sản xuất, tiêu thụ, và dự toán tiền lần lượt đạt tỷ lệ 51,3; 44,7 và 
51,3%. 
Đứng thứ ba về tỷ lệ lập dự toán là các DN đa ngành. Trong các DN này, dự toán mua 
vật tư có tỷ lệ áp dụng cao nhất (58,3%), báo cáo tài chính (BCTC) dự toán có tỷ lệ sử dụng 
thấp nhất (31,7%). Dự toán tiêu thụ đạt tỷ lệ 53,3%. Cả hai dự toán sản xuất và dự toán tiền 
đều đạt tỷ lệ 41,7%. 
Các DN dịch vụ có tỷ lệ sử dụng dự toán tiền đạt tỷ lệ cao nhất (65,4%). Dự toán sản 
xuất đạt tỷ lệ thấp nhất (15,4%). Các dự toán khác đạt tỷ lệ trên dưới 40% (38,5% đối với dự 
toán tiêu thụ, dự toán mua đạt 46,2% và BCTC dự toán đạt 42,3%) . 
Trong các DN thương mại, tỷ lệ sử dụng các loại dự toán khá thấp. Thấp nhất là tỷ lệ 
sử dụng dự toán sản xuất (6,2%). Các dự toán còn lại đạt tỷ lệ từ 38,1 (báo cáo tài chính dự 
toán) đến 48,5% (dự toán tiền). Các dự toán tiêu thụ và mua hàng hóa đạt tỷ lệ tương đương 
nhau (45,4 và 46,4%). 
Mức độ sử dụng các loại dự toán trong các DN đạt mức trung bình từ 3,12 đến 3,44 
điểm. Dự toán mua hàng có mức sử dụng cao nhất là 3,44 điểm. báo cáo tài chính dự toán có 
mức sử dụng thấp nhất (3,12). 
Xét theo lĩnh vực hoạt động, các DN xây dựng có mức độ sử dụng dự toán cao nhất. 
Điểm trung bình sử dụng dự toán trong các DN này đạt từ 3,35 đến 4,37 điểm. Mức độ sử 
dụng dự toán trong các DN thương mại thấp hơn trung bình. Ngoài dự toán sản xuất ít được 
sử dụng, các dự toán khác cũng chỉ đạt mức trung bình xung quanh 3 điểm (từ 2,78 đến 3,09 
điểm). 
4.1.3. Sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động 
Ngoài chỉ tiêu lợi nhuận ròng được hầu hết các DN sử dụng, chỉ tiêu có tỷ lệ sử dụng 
trên 50% là chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng doanh thu. Chỉ tiêu doanh thu trên một lao động có tỷ lệ 
sử dụng thấp nhất (từ 7,2% trong các DN thương mại đến 25% trong DN sản xuất). Các chỉ 
tiêu khác có tỷ lệ sử dụng trên dưới 40%. 
Mức độ áp dụng các chỉ tiêu tài chính đánh giá hoạt động 
Ngoài việc sử dụng thường xuyên chỉ tiêu lợi nhuận ròng, các chỉ tiêu tài chính đánh 
giá hoạt động được các DN sử dụng ở mức trung bình (trên 3,0). Chỉ tiêu doanh thu trên một 
lao động được sử dụng ở mức thấp nhất (2,6). Mức độ sử dụng các chỉ tiêu trong DN thương 
mại thấp hơn mức độ sử dụng chung của các DN được nghiên cứu. 
Tỷ lệ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính 
Nhìn chung, việc sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phi tài chính trong các DN 
đều ở tỷ lệ thấp. Chỉ tiêu tỷ lệ hài lòng của khách hàng được sử dụng với tỷ lệ cao nhất 46,2% 
trong các DN dịch vụ. Các chỉ tiêu thời gian giao hàng đúng hạn và thời gian sản xuất/thi 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 189
công được sử dụng ở tỷ lệ 45,0% và 41% trong các DN đa ngành và DN xây dựng. Các chỉ 
tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 40%. 
Mức độ sử dụng các chỉ tiêu đánh giá phi tài chính cũng khá thấp. Các chỉ tiêu đều có 
giá trị trung bình (mean) xung quanh 3,0. 
4.1.4. Sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định ngắn hạn 
Hai kỹ thuật phân tích thông tin được sử dụng phổ biến nhất là phân tích CVP và phân 
tích lợi nhuận sản phẩm, với tỷ lệ sử dụng đạt trên 53%. Các kỹ thuật còn lại đều có tỷ lệ sử 
dụng thấp trong khoảng từ 20 đến 50%. 
Tương ứng với tỷ lệ sử dụng, mức độ sử dụng hai kỹ thuật phân tích CVP và phân tích 
lợi nhuận sản phẩm cũng đạt mức trên trung bình (3,4). Các kỹ thuật còn lại đều xung quanh 
3,0. 
4.1.5. Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn 
Trong số các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn, tỷ lệ hoàn vốn nội 
bộ được sử dụng nhiều nhất trong các DN thương mại (88,7%), tiếp theo là thời gian hoàn 
vốn trong các DN xây dựng (51,7%). Các chỉ tiêu còn lại đều có tỷ lệ sử dụng dưới 50%. 
Mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định dài hạn trong các 
DN xây dựng cao hơn các DN khác nhưng cũng chỉ đạt từ 3,4 đến 3,6. 
4.1.6. Các kỹ thuật KTQT chiến lược 
KTQT chiến lược là các kỹ thuật mới không chỉ ở Việt Nam mà còn với nhiều nước 
trên thế giới. Tại Việt Nam, kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất là chi phí mục tiêu cũng chỉ đạt 
tỷ lệ 24,7% trong các DN xây dựng. Trong số các DN trả lời khảo sát chưa có DN nào sử 
dụng bảng điểm cân bằng. Các kỹ thuật còn lại có tỷ lệ sử dụng đều dưới 20%. 
Từ tỷ lệ sử dụng thấp làm cho mức độ áp dụng trung bình các kỹ thuật KTQT chiến 
lược trong các DN cũng thấp. Ngoài chi phí mục tiêu đạt giá trị trung bình trên 3,2 các kỹ 
thuật còn lại đều có giá trị trung bình dưới 3,0. Đặc biệt, chưa có DN nào trong số các DN 
được khảo sát áp dụng bảng điểm cân bằng. 
Mười kỹ thuật KTQT được sử dụng nhiều nhất trong các DN so với tỷ lệ áp dụng và 
xếp hạng trong các DN Ấn Độ và Australia trong nghiên cứu của Joshi (2001) như sau: 
Bảng 2. Mười kỹ thuật KTQT được áp dụng phổ biến trong các DN Việt Nam 
 Việt Nam Ấn Độ Australia 
TT 
Tỷ lệ 
(%) 
Thứ 
hạng 
Tỷ lệ 
(%) 
Thứ 
hạng 
Tỷ lệ 
(%) 
Thứ 
hạng 
1 Lợi nhuận ròng 100,0 1 n/a n/a n/a n/a 
2 Hạch toán chi phí sản phẩm 66,1 2 n/a n/a n/a n/a 
3 Dự toán sản xuất 57,7 3 100 1 100 2 
4 Dự toán mua 56,8 4 n/a n/a n/a n/a 
5 Dự toán tiền 52,6 5 95 2 99 2 
6 Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu 52,4 6 n/a n/a n/a n/a 
7 Dự toán tiêu thụ 49,0 7 n/a n/a n/a n/a 
8 Dòng tiền 43,9 8 80 9 84 14 
9 Hiệu quả vốn đầu tư (ROI) 43,5 9 100 1 96 3 
10 Thời gian hoàn vốn 43,5 10 n/a n/a n/a n/a 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 190 
4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT 
Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ áp dụng KTQT được nghiên 
cứu gồm 5 biến độc lập: (1) Áp lực cạnh tranh (cạnh tranh), (2) Dự phân quyền quản trị trong 
DN (phân quyền), (3) Mức độ áp dụng thông tin (công nghệ thông tin), (4) Sự quan tâm của 
nhà quản trị đến KTQT và (5) Trình độ nhân viên kế toán. Biến phụ thuộc trong mô hình là 
một thang đo đa hướng gồm các thành phần sau: (a) Hệ thống hạch toán chi phí, (b) Hạch 
toán dự toán, (c) Các kỹ thuật phân tích thông tin để ra quyết định, (d) Hệ thống đánh giá hoạt 
động và (e) Các kỹ thuật KTQT chiến lược. 
Kết quả phân tích tương quan Spearman và kiểm định hồi quy tuyến tính cho thấy: 
Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế toán có tác 
động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Cụ thể: 
Mức độ phân quyền trong DN có ảnh hưởng đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân 
tích thông tin để ra quyết định. 
YHTPT = 0,169 + 0,321PQ 
Mức độ phân quyền và trình độ nhân viên kế toán có ảnh hưởng đến việc sử dụng các 
chỉ tiêu đánh giá hoạt động trong DN. 
YHTĐG = -0,226 + 0,162PQ + 0,147TĐKT 
Mức độ phân quyền và mức độ áp dụng CNTT có ảnh hưởng đến mức độ áp dụng các 
kỹ thuật KTQT chiến lược trong các DN. 
YKTQTCL = - 0,180 + 0,143PQ + 0,183CNTT 
Trong đó: 
PQ: Mức độ phân quyền trong DN 
CNTT: Mức độ áp dụng công nghệ thông tin 
TĐKT: Trình độ nhân viên kế toán 
Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà 
quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam. 
5. Kết luận và các khuyến nghị 
Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ áp dụng KTQT trong các DN Việt Nam vẫn còn 
tương đối thấp, nhiều DN chưa quan tâm đến KTQT. Các phương pháp KTQT truyền thống 
được áp dụng là chủ yếu. Các phương pháp KTQT hiện đại như hạch toán chi phí theo hoạt 
động, bảng điểm cân bằng vẫn còn ít được áp dụng. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: Chưa có bằng chứng về mối quan hệ giữa Áp lực 
cạnh tranh và Sự quan tâm của nhà quản trị cấp cao đến mức độ áp dụng KTQT trong các DN 
Việt Nam. Tuy nhiên, Mức độ phân quyền, Mức độ áp dụng CNTT và Trình độ nhân viên kế 
toán có tác động đến mức độ sử dụng một số kỹ thuật KTQT trong các DN Việt Nam. Trong 
đó, Mức độ phân quyền có tác động đáng kể đến mức độ sử dụng các kỹ thuật phân tích thông 
tin để ra quyết định, hệ thống đánh giá hoạt động và các kỹ thuật KTQT chiến lược. 
Từ kết quả nghiên cứu, có thể thấy để gia tăng mức độ áp dụng KTQT trong các DN ở 
Việt Nam, cần thực hiện các khuyến nghị sau: 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 191
- Các DN cần tăng cường phân quyền quản trị trong DN cho các nhà quản trị. Phân 
quyền thường gắn với trách nhiệm của các nhà quản trị do vậy nó làm phát sinh nhu cầu thông 
tin để sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như sử dụng các chỉ tiêu đánh giá để khuyến 
khích nhân viên trong DN. 
- Trong điều kiện hiện nay, các DN cần tăng cường áp dụng CNTT nhằm tự động hóa 
các công đoạn trong quá trình thu thập, xử lý dữ liệu, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các kỹ 
thuật KTQT tiên tiến. 
- Nâng cao trình độ kế toán, cập nhật các kiến thức KTQT hiện đại là điều kiện cần 
thiết để các kỹ thuật KTQT có thể được áp dụng trong các DN.‡ 
---------------------------------- 
Tài liệu tham khảo 
1. Abdel-Kader, M. (2006). "Management accounting practices in the British food and drinks industry." British Food Journal Vol. 
108 No. 5, 2006 pp. 336-357 Emerald Group Publishing Limited 0007-070X DOI 10.1108/00070700610661321. 
2. Ahmad, K. (2012). The use of management accounting practices in Malaysian SMEs, University of Exeter. Doctor thesis. 
3. Ahmad, N. S. M., &Leftesi, A. (2014). An Exploratory Study of the Level of Sophistication of Management Accounting Practices in 
Libyan Manufacturing Companies. International Journal of Business and Management Vol. II (2). 
4. Anh, D. N. P. (2016). Factors Affecting the Use and Consequences of Management Accounting Practices in A Transitional 
Economy: The Case of Vietnam. Journal of Economics and Development, 18(1), 54-73. 
5. Chenhall, R. H. and K. Langfield-Smith (1998). "Adoption and benefits of management accounting practices: an Australian 
study." Management Accounting Research9(1): 1-19. 
6. Doan, N. P. A. (2012). The adoption of western management accounting practices in Vietnamese enterprises during economic 
transition. (PhD), Griffith University. 
7. Dung, N. T. P., &Aoki, M. (2014). The EvolutionofManagementAccountingPractices in Vietnam: a 
SurveyResearchonVietnameseFoodandBeverageEnterprises. The KeizaiGaku, AnnualReportof the 
EconomicSociety,TohokuUniversity, Nhật Bản, Tập 74- Số 4, Tháng 3/2014., 74(4), 167-183. 
8. Haldma, T., &Lääts, K. (2002). Influencing contingencies on management accounting practices in Estonian manufacturing 
companies. University of Tartu - Economics and Business Administration Working Paper No. 13. Available at SSRN: 
https://ssrn.com/abstract=419863 or  
9. James, P. C. (2013). An Analysis of the Factors Influencing the Adoption of Activity Based Costing (ABC) in the Financial Sector 
in Jamaica. International Journal of Business and Social Research (IJBSR), 3(7). 
10. Joshi, P. L. (2001). The international diffusion of new management accounting practices: the case of India. Journal of 
International Accounting, Auditing & Taxation 10 (2001) 85–109. 
11. Karanja, J. C. N., Mwangi, E., &Nyaanga, P. (2014). Adoption of Modern Management Accounting Techniques in Small and 
Medium (SMEs) in Developing Countries: A Case Study of SMEs in Kenya. 
12. Kariuki, S. N., &Kamau, C. G. (2016). Organizational contingencies influencing the adoption of strategic management 
accounting practices among manufacturing firms in Kenya. International Journal of Advanced Research in Management and Social 
Sciences, 4(5), 16. 
13. Leite, A. A., Fernandes, P. O., &Leite, J. M. (2015). Contingent factors that influence the use of management accounting 
practices in the Portuguese textile and clothing sector. The International Journal of Management Science and Information 
Technology, Special Issue: 2015 Spanish-Portuguese Scientific Management Conference (59 - 78). 
14. Maelah, R., & Ibrahim, D. N. (2007). Factors influencing activity based costing (abc) adoption in manufacturing industry. 
Investment Management and Financial Innovations, Volume 4, Issue 2, 2007, 113-124. 
15. Pierce, B., & O’Dea, T. (1998). Management Accounting Practices in Ireland – The Preparers’ Perspective. Research paper 
series. Paper No. 34. October 1998. 
16. Pollanen, R. M., &Abdel-Maksoud, A. B. (2010). The deploymentofcontemporarymanagementaccountingpractices in 
Canadianfirms: a contingencyapproach. InternationalJournalofManagerialandFinancialAccounting, 2(2), 134-152. 
17. Shields, M. D. (1998). Management accounting practices in Europe: a perspective from the States. Management Accounting 
Research, 1998, 9, 50 1-5 13. 
18. Subasinghe, J., &Fonseka, A. T. (2009). Factors Affecting the Low Adoption of Management Accounting Practices in Sri 
Lankan Business Organizations. Sri Lankan Journal of Management. Volume 14, Number 2, 95-114. 
19. Sulaiman, M. b., Ahmad, N. N. N., &Alwi, N. (2004). Management accounting practices in selected Asian countries: A review 
of the literature. Managerial Auditing Journal, Vol. 19 Iss 4 pp. 493 - 508. doi: 10.1108/02686900410530501 
n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam 
 192 
20. Sulaiman, S., Ramli, A., &Zainuddin, Z. N. (2015). Factors Driving Change in Management Accounting Practices: Malaysian 
Survey Evidence. In R. Hashim& A. B. A. Majeed (Eds.), Proceedings of the Colloquium on Administrative Science and Technology: 
CoAST 2013: Springer Singapore. 
21. Sumkaew, N., Liu, L. Y. J., & McLaren, J. (2012). Management Accounting Practices in Thailand. Paper presented at the A 
Paper Presented at Asia-pacific Management Accounting Association Conference,, Xiamen University, China, November 2012. 
22. Szychta, A. (2002). "The scope of application of management accounting methods in Polish enterprises." Management 
Accounting Research13(4): 401-418. 
23. Wijewardena, H., &Zoysa, A. D. (1999). Comparative Analysis of Management Accounting Practices in Australia and Japan: 
An Empirical Investigation. The International Journal of Accounting, 34(1), 1999, 49-70. 
24. Yalcin, S. (2012). Adoption and Benefits of Management Accounting Practices: An Inter-country Comparison. Accounting in 
Europe, 9(1), 95-110. doi: 10.1080/17449480.2012.664394 
---------------------------------- 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_ap_dung_ke_toan_quan_tri_trong_cac_doanh_nghiep_viet.pdf