Nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

TÓM TẮT: Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, tất yếu, chứa đựng trong nó tính chất

hai mặt, Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ mạnh mẽ trong các lĩnh vực giáo dục, tài

chính, công nghệ mà toàn cầu hóa đang diễn ra khá sôi động trong lĩnh vực văn hóa, giáo

dục vừa khẳng định tính đa dạng của các nền văn hóa dân tộc, vừa khẳng định xu hướng

hội nhập văn hóa. Bài viết đề cập đến một vài suy nghĩ về việc nâng cao năng lực và đào

tạo cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết nhấn

mạnh đến vai trò của các cơ sở đào tạo và các cơ quan sử dụng cán bộ quản lý giáo dục

để có một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, giỏi về trình độ và năng lực

chuyên môn đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập

pdf 7 trang yennguyen 8240
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Nâng cao năng lực cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thanh Bình 
55 
NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC 
TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 
INCREASE THE CAPACITY OF EDUCATIONAL MANAGERS 
IN THE CONTEXT OF GLOBALIZATION AND INTEGRATION 
PHẠM THANH BÌNH 
 TS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, binhpsy@gmail.com 
Mã số: TCKH13-20-2019 
TÓM TẮT: Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, tất yếu, chứa đựng trong nó tính chất 
hai mặt, Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ mạnh mẽ trong các lĩnh vực giáo dục, tài 
chính, công nghệ mà toàn cầu hóa đang diễn ra khá sôi động trong lĩnh vực văn hóa, giáo 
dục vừa khẳng định tính đa dạng của các nền văn hóa dân tộc, vừa khẳng định xu hướng 
hội nhập văn hóa. Bài viết đề cập đến một vài suy nghĩ về việc nâng cao năng lực và đào 
tạo cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Bài viết nhấn 
mạnh đến vai trò của các cơ sở đào tạo và các cơ quan sử dụng cán bộ quản lý giáo dục 
để có một đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, giỏi về trình độ và năng lực 
chuyên môn đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập. 
Từ khóa: năng lực của cán bộ quản lý giáo dục; toàn cầu hóa; hội nhập quốc tế. 
ABSTRACT: Globalization is an objective and indispensable trend, containing 
duality,... Globalization takes place strongly not only in the fields of education, 
finance, technology but also vibrantly influences in the field of culture and education, 
affirming the diversity of culture as well as the trend of cultural integration. The article 
mentions a few thoughts on capacity building and education management staff in the 
trend of globalization and international integration. The article emphasizes the role of 
training institutions and agencies to have a team of high-qualified staffs to meet the 
requirements of the integration period. 
Key words: capacity of education managers; globalization; international integration. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Toàn cầu hóa không phải là một hiện 
tượng hoàn toàn mới mẻ. Xu hướng toàn 
cầu hóa đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XVI và 
thể hiện rõ vào những năm 1870-1913 trở 
lại đây: Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, đại 
công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới 
thay cho tình trạng cô lập của các quốc gia. 
Theo UNDP (1991), những năm cuối 
thế kỷ XX làn sóng mới của toàn cầu hóa 
có nhiều nét đặc trưng mới: 
Xuất hiện các thị trường mới có tính chất 
toàn cầu (chứng khoán, ngân hàng, giao thông, 
bảo hiểm, lao động, dịch vụ, thông tin,). 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
56 
Các công cụ mới: máy fax, điện thoại 
di động, mạng Internet về thông tin điện tử 
kết nối nhiều điểm trên thế giới, 
Các thể chế mới (các tập đoàn đa quốc gia, 
các tổ chức liên kết quốc tế về nhiều lĩnh vực). 
Các quy tắc và chuẩn mực mới trong 
ứng xử, trong việc thỏa mãn các nhu cầu 
mới, các giá trị mới. 
Chủ tịch Ngân hàng thế giới Janes 
Wolfensohn (2000) đã nhận định: Chúng ta 
không thể ngăn cản được tiến trình toàn cầu 
hóa, Phương châm của chúng ta là “toàn 
cầu hóa với gương mặt nhân văn”. Một quá 
trình toàn cầu hóa cho mọi người và thúc đẩy 
sự công bằng xã hội. Tuy nhiên, Ngân hàng 
thế giới cũng dự đoán: Toàn cầu hóa và địa 
phương hóa là hai động lực song hành. Đặc 
biệt trong 25 năm đầu của thế kỷ XXI. Đây là 
hai thế lực chi phối tình hình thế giới: Toàn 
cầu hóa và khu vực hóa vừa bảo đảm tính 
độc lập dân tộc, vừa thúc đẩy hội nhập quốc 
tế. Trong đó có sản phẩm mang tính toàn cầu 
là nền giáo dục tri thức của nhân loại. 
Như vậy, toàn cầu hóa là một xu thế 
khách quan và diễn ra như một xu hướng 
tất yếu, chứa đựng trong nó tính chất hai 
mặt: vừa có tác dụng dương tính, lớn lao, 
vừa có tác dụng âm tính cần khắc phục. 
Đại hội Đảng IX, Đảng Cộng sản Việt 
Nam nhận định: Toàn cầu hóa là một xu 
hướng khách quan ngày càng có nhiều nước 
tham gia, Toàn cầu hóa chứa đựng nhiều 
mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt 
tiêu cực, vừa mang tính hợp tác, vừa mang 
tính cạnh tranh. Tuyên bố năm 2000 của 
nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã nêu: 
Chúng ta cần tìm ra các biện pháp nhằm tối 
đa hóa các mặt tích cực và tối thiểu hóa các 
mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, đặc 
biệt là ngăn chặn sự đói nghèo tại các nước 
đang phát triển. Vì các nước này tham gia 
vào quá trình toàn cầu hóa nhằm đạt được 
sự phát triển ổn định và bền vững. 
2. TOÀN CẤU HÓA VỚI VẤN ĐỀ ĐA DẠNG 
VĂN HÓA VÀ HỘI NHẬP VĂN HÓA 
Toàn cầu hóa diễn ra không chỉ mạnh 
mẽ trong các lĩnh vực giáo dục, tài chính, 
công nghệ mà toàn cầu hóa đang diễn ra 
khá sôi động trong lĩnh vực văn hóa, giáo 
dục vừa khẳng định tính đa dạng của các 
nền văn hóa dân tộc, vừa khẳng định xu 
hướng hội nhập văn hóa. 
Trước hết, xu hướng toàn cầu hóa thừa 
nhận tính đa dạng của các nền văn hóa dân 
tộc. Xu hướng toàn cầu hóa một mặt chấp 
nhận sự khác biệt, bản sắc dân tộc của mỗi 
nền văn hóa, công nhận sự đa dạng của các 
nền văn hóa cùng tồn tại trong hệ thống các 
giá trị toàn cầu, mặt khác mong muốn có sự 
hợp tác giữa các nền văn hóa, tạo nên một 
thế giới văn hóa phát triển theo hướng hoà 
bình, hợp tác và nhân văn. Chính vì thế, Bản 
tuyên bố toàn cầu và đa dạng văn hóa của 
UNESCO được thông qua ngày 3-11-2003 
đã được nhiệt liệt hoan nghênh. Nhân loại đã 
trải qua “Thập kỷ văn hóa và phát triển” từ 
năm 1987-1997. Tổng kết thập kỷ này, bản 
báo cáo “Sự đa dạng và sáng tạo của chúng 
ta” (1998) đã khẳng định: Nhân loại mong 
muốn có sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị 
chung của văn hóa nhân loại, các giá trị 
chung của đạo lý toàn cầu. Đó là tính người, 
tình người và lòng khoan dung, tinh thần hòa 
bình, hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. 
Hội nhập văn hóa trong toàn cầu hóa là 
vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Cùng với hội 
nhập về giáo dục, chúng ta không thể không 
nói tới hội nhập về văn hóa. Hội nhập văn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thanh Bình 
57 
hóa đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp 
trong sự phát triển như vũ bão của công 
nghệ thông tin, đưa đến sự tăng cường trao 
đổi văn hóa xuyên quốc gia, liên quốc gia. 
Điều 11, Bản tuyên bố toàn cầu của 
UNESCO về đa dạng văn hóa đã nêu: “Đa 
dạng văn hóa là chìa khóa cho sự phát triển 
con người có tính bền vững. Đa dạng văn 
hóa là di sản chung của nhân loại, vì lợi ích 
chung của các thế hệ hôm nay và mai sau”. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc 
biệt quan tâm tới sự đa dạng và hội nhập 
văn hóa giữa các dân tộc có nền văn hóa 
khác nhau, Trong cuốn“Những câu chuyện 
về cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh” của Trần Dân Tiên (Trích từ cuốn “Hồ 
Chí Minh truyện” của Nhà xuất bản Tam Liên 
- Thượng Hải - Trung Quốc, năm 1949), có 
đoạn viết về các câu nói nổi tiếng của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh về các nhà văn hóa đi trước như 
sau: “ Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là 
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu 
có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả, chủ nghĩa 
Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng, 
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là có 
chính sách phù hợp với điều kiện nước ta, 
Tôi tin rằng các vị ấy còn sống, họ có thể gặp 
nhau một cách hài hoà, tôi cố gắng làm người 
học trò nhỏ của các vị ấy,”. Quan điểm nói 
trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng 
định tư tưởng tôn trọng sự đa dạng và sự 
gặp gỡ nhau một cách hài hòa giữa các nhà 
văn hóa nổi tiếng đi trước, trong lịch sử của 
nền văn minh nhân loại. Nghị quyết Trung 
ương 5, khóa VIII của Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam 
(tháng 7/1998) đã khẳng định: “Nền văn 
hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất và đa 
dạng trong đời sống các dân tộc Việt Nam. 
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước đều có 
những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các 
giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau làm 
phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố 
sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững, 
bảo tồn và phát huy tính đa dạng văn hóa của 
các dân tộc anh em” [5]. Theo tinh thần của 
“Thập kỷ văn hóa” (1987-1997), từ những 
năm 1991 đến nay, ở Việt Nam văn hóa được 
coi là mục tiêu, động lực của phát triển giáo 
dục - xã hội, lấy giáo dục là quốc sách hàng 
đầu. Đầu tư cho giáo dục và khoa học là đầu tư 
cho sự phát triển bền vững, trong đó lấy phát 
triển con người bền vững là động lực có tính 
quyết định. 
Sự tác động qua lại và chuyển giao văn 
hóa trong quá trình hội nhập sẽ ảnh hưởng 
tới phong cách sống của con người. Con 
người không chỉ chịu sự chi phối của di sản 
văn hóa dân tộc, văn hóa quốc gia, mà còn 
tiếp thu các luồng văn hóa, văn minh nhân 
loại theo cách riêng của mỗi người, làm 
phong phú thêm văn hóa cá nhân. Trong sự 
toàn cầu hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc 
tế có vấn đề toàn cầu hóa, quốc tế hóa và 
hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tâm lý học. 
3. NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA CÁN 
BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC TRONG XU 
THẾ TOÀN CẦU HÓA VÀ HỘI NHẬP 
QUỐC TẾ 
Nghị quyết 29-NQ/TW đã phân tích 
thực trạng yếu kém của giáo dục đào tạo thời 
gian qua: “Quản lý giáo dục và đào tạo còn 
nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ 
quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số 
lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp 
yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu 
tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề 
nghiệp”. Đồng thời phân tích nguyên nhân là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
58 
do: “Việc phân định giữa quản lý nhà nước 
với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo 
dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất 
lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa 
được coi trọng đúng mức”. Nghị quyết đã 
định hướng đổi mới công tác quản lý giáo 
dục trong thời gian tới: “Xác định rõ trách 
nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về 
giáo dục, đào tạo và trách nhiệm quản lý 
theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa 
phương. Phân định công tác quản lý nhà 
nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào 
tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách 
nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng 
tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo”. Như 
vậy, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ 
quản lý giáo dục là nhằm góp phần nâng cao 
chất lượng đào tạo, tăng sức cạnh tranh của 
nguồn nhân lực trên thị trường lao động trong 
nước, hội nhập khu vực và quốc tế. 
3.1. Tiêu chuẩn năng lực của cán bộ 
quản lý giáo dục 
Tiêu chuẩn năng lực là đặc trưng của 
năng lực cần thiết để thực hiện hiệu quả 
công việc tại vị trí làm việc. Căn cứ vào 
tiêu chuẩn năng lực để: Tuyển dụng, sử 
dụng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý 
giáo dục. 
Hình 1. Sơ đồ tiêu chuẩn năng lực của con người trong thời kỳ hội nhập 
3.2. Một vài suy nghĩ về việc nâng cao 
năng lực và đào tạo cán bộ quản lý giáo 
dục trong xu thế toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế 
Trước hết, ngoài những năng lực cơ 
bản, trong xu thế toàn cầu hóa và bối cảnh 
hội nhập quốc tế, cán bộ quản lý giáo dục 
cần có kiến thức, kỹ năng thành thạo về 
ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Những 
năng lực cơ bản nêu trên được hình thành 
và phát triển trong quá trình hoạt động sống 
và hoạt động của mỗi con người trong môi 
trường xã hội hay cộng đồng. Đó cũng 
chính là quá trình phát triển và hoàn thiện 
nhân cách diễn ra trong suốt cuộc đời. Cán 
bộ quản lý giáo dục ở các cấp độ quản lý 
NĂNG LỰC CƠ 
BẢN CỦA CON 
NGƯỜI TRONG 
THỜI KỲ HỘI 
NHẬP 
1. Năng lực tự hoàn thiện 
2. Năng lực giao tiếp trong môi trường đa văn hóa 
3. Năng lực thích ứng 
4. Năng lực tổ chức, quản lý 
5. Năng lực hoạt động chính trị, xã hội 
7. Năng lực lao động nghề nghiệp chuyên biệt 
6. Năng lực hợp tác, cạnh tranh 
8. Năng lực nghiên cứu khoa học 
9. Năng lực làm việc theo nhóm 
10. Năng lực Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thanh Bình 
59 
khác nhau là người chịu trách nhiệm trước 
cấp trên về toàn bộ hoạt động của một lĩnh 
vực, một địa phương. Trong việc thực hiện 
chức năng quản lý giáo dục của mình cùng 
với những phẩm chất và tấm lòng, cán bộ 
quản lý hơn ai hết phải là người có được 
các năng lực nói trên. Đó là cơ sở cho việc 
hình thành tài năng của người quản lý, góp 
phần làm cho sự nghiệp đổi mới toàn diện 
giáo dục - đào tạo sớm trở thành hiện thực. 
Thứ hai, từ phía cơ quan sử dụng cán 
bộ quản lý giáo dục: Các cơ quan, đơn vị 
sử dụng cán bộ quản lý giáo dục cần hiểu 
rõ trách nhiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
quản lý giáo dục không chỉ là của các cơ sở 
đào tạo mà nó còn là trách nhiệm của bản 
thân các cơ quan đó, đặc biệt là đối với các 
nhà quản lý cấp cao trong cơ quan, đơn vị. 
Họ phải tích cực tham gia vào các quá trình 
đào tạo, hỗ trợ và can thiệp vào các quá 
trình đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ. 
Hơn thế họ còn phải là những người thực 
hiện công tác tuyên truyền về những chính 
sách chú trọng đến việc giáo dục đào tạo 
của Đảng và Nhà Nước và tầm quan trọng 
của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
quản lý giáo dục xứng tầm với quá trình hội 
nhập và toàn cầu hóa. Các cơ quan sử dụng 
cán bộ quản lý giáo dục cũng cần tiến hành 
xây dựng các chiến lược phát triển đội ngũ 
cán bộ quản lý giáo dục sao cho phù hợp 
với chức năng và nhiệm vụ của từng vị trí 
công tác. Các cơ quan sử dụng cán bộ quản 
lý giáo dục còn phải có các kế hoạch sử 
dụng hợp lý đối với các cán bộ đã được đào 
tạo và bồi dưỡng kiến thức về quản lý giáo 
dục, tránh tình trạng lãng phí các nguồn lực 
do chi phí cho công tác đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục là rất lớn. 
Các cán bộ sau khi đi học về cần được đưa 
vào những vị trí công tác phù hợp tương 
ứng với năng lực làm việc của họ; có thể đề 
bạt họ, đưa họ lên nắm giữ một vị trí công 
tác cao hơn vị trí công tác trước đây của họ. 
Nhờ vậy mà họ có thể làm việc có hiệu quả 
nhất, đồng thời cũng khuyến khích họ 
không ngừng học tập, nâng cao kiến thức 
về cả chuyên môn và kỹ năng làm việc. 
Song song với việc đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục, các cơ quan chức 
năng cũng cần phải xây dựng hệ thống kiểm 
tra và đánh giá công tác đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục làm việc thực sự có 
hiệu quả. Hệ thống này phải ngày càng được 
hoàn thiện bằng việc bổ sung và hoàn thiện 
các văn bản pháp quy làm cơ sở cho nó hoạt 
động như: các quy chế về việc đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục, nghiên cứu 
để sửa đổi hay bổ sung thêm các văn bản quy 
định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức công 
tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo 
dục, các tiêu chí để đánh giá công tác đào 
tạo, Qua đó cũng làm cho công tác đào tạo 
và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục phù 
hợp hơn với tình hình hiện nay của nước ta. 
Thứ ba, từ phía các cơ sở tổ chức đào 
tạo bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ 
quản lý giáo dục: Các cơ sở đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục cần tăng 
cường và phát triển đội ngũ giảng viên của 
mình về cả số lượng và chất lượng để nâng 
cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
quản lý giáo dục. Các cơ sở đào tạo phải tổ 
chức xây dựng một đội ngũ giảng viên 
nhiệt tình, say mê nghề nghiệp. Thường 
xuyên bồi dưỡng cho họ một cách toàn diện 
về cả chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. 
Các cơ sở đó cũng phải thường xuyên cung 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 13, Tháng 01 - 2019 
60 
cấp thông tin, tạo điều kiện cho đội ngũ 
giáo viên có cơ hội đi tham quan, khảo sát 
ở nước ngoài, tham gia vào các hội nghị 
quốc tế bàn về quản lý giáo dục ở trong và 
ngoài nước, xâm nhập vào thực tế hoạt 
động của các cơ sở giáo dục ở trong 
nước,... Điều đó không chỉ làm nâng cao 
năng lực của họ trong công tác giảng dạy, 
nâng cao hiệu quả giảng dạy chung mà còn 
tác động tới tầm nhìn và nét văn hóa của 
họ. Trong công tác đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục, vấn đề hợp tác 
quốc tế là rất cần thiết. Các cơ sở đào tạo 
và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục cũng 
cần có những phương hướng và biện pháp 
cụ thể để tăng cường hợp tác quốc tế về 
mọi mặt trong việc đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục. Tăng cường hợp 
tác quốc tế nhằm tiếp thu những kinh 
nghiệm về quản lý giáo dục, mở rộng tầm 
nhìn và nâng cao năng lực quản lý giáo dục 
cho các cán bộ quản lý giáo dục phù hợp 
với điều kiện thực tiễn của Việt Nam và 
đào tạo được những chuyên gia giỏi trong 
lĩnh vực quản lý giáo dục. 
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo phải 
tiến hành đổi mới nội dung và phương pháp 
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục. 
Đây là một giải pháp rất quan trọng để 
nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục. Việc tiến hành đổi 
mới phải dựa trên cơ sở chuyển trọng tâm 
từ đào tạo, bồi dưỡng nặng về lý thuyết 
sang nâng cao năng lực thực hiện công tác 
quản lý trong thực tế, gắn lý luận với thực 
tiễn, học đi đôi với hành, bảo đảm hiệu quả 
và thiết thực. Nội dung đào tạo phải có sự 
kết hợp giữa cung cấp kiến thức toàn diện 
về công tác quản lý giáo dục và có trọng 
điểm đối với từng vị trí công tác của cán bộ 
quản lý giáo dục; tập trung đào tạo những 
kiến thức cơ bản về quản lý giáo dục vĩ mô, 
quản lý thị trường,... và những kiến thức bổ 
trợ quan trọng như tin học, ngoại ngữ,... 
Thứ tư, từ phía Nhà nước: Trong việc 
nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng 
cán bộ quản lý giáo dục thì vai trò định 
hướng của Nhà nước cũng rất quan trọng. Để 
có thể đóng góp vào việc nâng cao chất 
lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý 
giáo dục, trước tiên Nhà nước phải định 
hướng và xây dựng kế hoạch tổ chức sắp xếp, 
bố trí lại các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng cán 
bộ quản lý giáo dục sao cho giữa các cơ sở 
này có sự phối hợp với nhau một cách nhịp 
nhàng trong việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
quản lý giáo dục; đồng thời cũng phải bảo 
đảm sự cân đối giữa các vùng, miền. Từ đó 
sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp phục vụ cho 
công tác đào tạo và bồi dưỡng. Việc sắp xếp 
các cơ sở này phải được thực hiện theo 
hướng gọn nhẹ, tập trung, có sự quản lý chặt 
chẽ từ cơ sở tới Trung ương. Nhà nước và 
các bộ ngành có liên quan phải thực hiện việc 
thu gọn các đầu mối đào tạo của các cơ quan, 
đơn vị có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng và sử 
dụng cán bộ quản lý giáo dục để dễ cho việc 
quản lý và xây dựng kế hoạch sắp xếp các cơ 
sở đào tạo và bồi dưỡng. 
4. KẾT LUẬN 
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò 
rất quan trọng của đội ngũ cán bộ, công 
chức ở nước ta nói chung và của đội ngũ 
cán bộ quản lý giáo dục nói riêng trong sự 
nghiệp phát triển kinh tế đất nước với xu 
thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Vì 
vậy, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ 
quản lý giáo dục hiện nay vẫn cần được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phạm Thanh Bình 
61 
Đảng, Nhà nước và các cấp lãnh đạo quan 
tâm hơn nữa để chất lượng đào tạo và bồi 
dưỡng được nâng cao. Để có một đội ngũ 
cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, 
giỏi về trình độ và năng lực chuyên môn 
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập thì 
trách nhiệm là của cả hai phía: các cơ sở 
đào tạo và các cơ quan sử dụng cán bộ 
quản lý giáo dục. Giữa các cơ sở đào tạo và 
các cơ quan có nhu cầu sử dụng cán bộ 
quản lý kinh tế phải có sự phối hợp chặt 
chẽ với nhau trong việc tổ chức thực hiện 
đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo 
dục, cả hai đều phải đưa ra những giải pháp 
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và bồi 
dưỡng. Các cơ sở đào tạo cần đưa ra các 
chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa đầu tư 
về mọi mặt cho công tác đào tạo và bồi 
dưỡng cán bộ quản lý giáo dục. Các cơ 
quan đơn vị sử dụng cán bộ quản lý giáo 
dục cũng cần đưa ra các chính sách nhằm 
khuyến khích các cán bộ quản lý giáo dục 
tích cực hơn nữa trong việc học tập, trau 
dồi kiến thức về quản lý giáo dục. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bách khoa thư Côlômbia (2002). 
[2] Bách khoa Toàn thư Mỹ (Mục: “Tâm lí học hiện đại” mạng Yahoo 2003). 
[3] Tô Tử Hạ (1998), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, 
Nxb Chính trị Quốc gia. 
[4] Hà Quang Ngọc (2000), Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức 
nhà nước hiện nay, Nxb Chính trị Quốc Gia. 
[5] Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 
[6] Rober. S. Feldman (2003), Essentials of understanting Psychology, Nxb Thống kê Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 29-12-2018. Ngày biên tập xong: 08-01-2019. Duyệt đăng: 21-01-2019 

File đính kèm:

  • pdfnang_cao_nang_luc_can_bo_quan_ly_giao_duc_trong_xu_the_toan.pdf