Nâng cao năng lực sư phạm cho sinh viên khoa Tiểu học trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
Abstract: In the current period, before the requirements of educational innovation, the
organization of pedagogical practice requires each student to be active, confident and independent
to affirm his personal ability on the basis of what has been equipped in the college. The article
mentions the current situation and propose some measures to improve pedagogical competency
for Primary Education students at Ha Tay Teacher Training College.
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực sư phạm cho sinh viên khoa Tiểu học trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực sư phạm cho sinh viên khoa Tiểu học trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 165-169 165 Email: thuan.vnu@gmail.com NÂNG CAO NĂNG LỰC SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN KHOA TIỂU HỌC TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM HÀ TÂY NHẰM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Nguyễn Thị Bích Thuận - Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Ngày nhận bài: 22/4/2019; ngày chỉnh sửa: 02/5/2019; ngày duyệt đăng: 09/5/2019. Abstract: In the current period, before the requirements of educational innovation, the organization of pedagogical practice requires each student to be active, confident and independent to affirm his personal ability on the basis of what has been equipped in the college. The article mentions the current situation and propose some measures to improve pedagogical competency for Primary Education students at Ha Tay Teacher Training College. Keywords: Pedagogical competency, Primary Education, current situation, measure. 1. Mở đầu Quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm là một quá trình tổ chức có kế hoạch, theo một mục đích nhất định, trong một thời gian liên tục và có hệ thống. Thực hành sư phạm là giai đoạn quan trọng nhằm kiểm tra sự chuẩn bị về mặt lí luận và thực tiễn của sinh viên (SV), hình thành những kĩ năng quan trọng trong việc sáng tạo, giải quyết những nhiệm vụ của người giáo viên tương lai. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với những yêu cầu của đổi mới giáo dục, việc tổ chức thực hành sư phạm đòi hỏi mỗi SV phải năng động, tự tin và độc lập khẳng định năng lực (NL) cá nhân trên cơ sở những gì đã được trang bị trong nhà trường. Vậy, làm như thế nào để phát huy được những NL của bản thân, đồng thời, giúp SV trang bị những kĩ năng cơ bản để làm hành trang trong công tác giảng dạy là một yêu cầu quan trọng của quá trình đào tạo trong các trường sư phạm. Bài viết đề cập thực trạng và đề xuất một số biện pháp nâng cao NL sư phạm cho sinh viên Khoa Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Mô hình năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm Mục tiêu đào tạo SV sư phạm trong các trường cao đẳng, đại học sư phạm là đào tạo đội ngũ giáo viên phổ thông tương lai đáp ứng yêu cầu đổi mới của chương trình dạy học phổ thông theo định hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc đào tạo SV sư phạm chuyển hướng từ dạy học thiên về chuyển tải, cung cấp kiến thức (học để biết) sang đào tạo người giáo viên có năng lực (học để làm). Theo đó, phương pháp dạy học ở các trường sư phạm được định hướng dạy học giúp hình thành và phát triển kiến thức, kĩ năng và NL sư phạm, hình thành phẩm chất, nhân cách của SV theo nguyên lí hoạt động thông qua nghiên cứu và giải quyết các tình huống sư phạm, NL nghề của SV với cấu trúc hai nhóm lớn: NL chuyên ngành và NL sư phạm. NL sư phạm được cấu trúc thành năm nhóm: - NL dạy học; - NL giáo dục; - NL định hướng sự phát triển của HS; - NL phát triển cộng đồng; - NL phát triển cá nhân. VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 165-169 166 Trong các NL sư phạm của người giáo viên, NL dạy học là một trong những NL cơ bản. NL dạy học thể hiện ở các yếu tố: - Phân tích chương trình và học liệu; - Thiết kế kế hoạch dạy học; - Sử dụng thành thạo các phương tiện dạy học; - Tổ chức hiệu quả các hoạt động học tập; - Tổ chức và quản lí lớp học; - Tổ chức đánh giá hiệu quả quá trình dạy học. NL dạy học được trang bị chủ yếu trong các học phần Giáo dục học, phương pháp dạy học (PPDH) các bộ môn. Các học phần này trang bị cho SV kiến thức, kĩ năng cơ bản của môn khoa học, đồng thời, trang bị các PPDH đặc thù cho từng bộ môn. 2.2. Thực trạng hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên Khoa Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (RLNVSP) là một hoạt động quan trọng trong các trường sư phạm nói chung và Trường CĐSP Hà Tây nói riêng. Nhận thấy được vai trò và tầm quan trọng của những kĩ năng sư phạm, nhà trường luôn quan tâm đến các hoạt động RLNVSP cho SV thông qua các nội dung như: hội thi nghiệp vụ sư phạm; thực tập sư phạm; thực hành RLNVSP tích hợp các môn học. Hàng năm, Khoa Tiểu học Trường CĐSP Hà Tây tổ chức các hoạt động (HĐ) RLNVSP cho khoảng 600 SV của Khoa từ năm thứ nhất tới năm thứ ba với các HĐ khác nhau như: thực hành song song trong các môn học, tổ chức hội thi nghiệp vụ sư phạm, kiến tập sư phạm và thực tập sư phạm. Để nắm được thực trạng RLNVSP của SV Khoa Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, năm học 2018-2019, chúng tôi đã thực hiện khảo sát trên 110 SV của Khoa từ năm thứ nhất tới năm thứ ba. Thông qua hình thức quan sát, phỏng vấn và phát phiếu điều tra, chúng tôi đã thu được kết quả như sau: 2.2.1. Về nhận thức của sinh viên với vai trò của hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (xem bảng 1) Bảng 1. Nhận thức của SV với vai trò của hoạt động RLNVSP Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết Số lượng 97 13 0 Tỉ lệ 88,2% 11,8% 0% SV đã có nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của hoạt động RLNVSP đối với giảng viên (GV), đồng thời, SV cũng có ý thức tốt về việc rèn luyện các kĩ năng sư phạm. Thông qua quá trình giảng dạy trên lớp, chúng tôi cũng nhận thấy, phần lớn các SV đã có tinh thần và ý thức học tập, rèn luyện tốt. SV tích cực trong các HĐ rèn luyện thực hành sư phạm trên lớp cũng như tự thực hành luyện tập ngoài giờ lên lớp. Với ý thức và tinh thần tự học tập, rèn luyện ngoài giờ học, SV đã tập hợp thành các nhóm nhỏ từ 8 đến 10 người thực hành giảng dạy tại các phòng tự học. SV tập giảng và quay lại các video bài giảng, sau đó ngồi lại cùng phân tích và nhận xét, đánh giá, qua đó rút kinh nghiệm cho mỗi giờ giảng của mình. Thông qua những giờ tự học đó, NL sư phạm của SV cũng đã được nâng lên và cải thiện nhiều so với những buổi học đầu tiên khi các em tiếp cận với các học phần PPDH. 2.2.2. Về nội dung các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (xem bảng 2) Bảng 2. Đánh giá của SV về nội dung các hoạt động RLNVSP Mức độ Rất phù hợp Phù hợp Chưa phù hợp Số lượng 16 70 34 Tỉ lệ 13,3% 58,4% 28,3% Về nội dung chương trình đào tạo: đã tập trung vào các nội dung về nghề dạy học cho SV, song, bên cạnh đó vẫn còn nhiều nội dung mang tính hàn lâm, lí thuyết, thiếu cập nhật đối với sự đổi mới của các trường tiểu học. Nhiều SV có đề xuất đưa thêm các nội dung về tâm lí HS, cách giải quyết các tình huống sư phạm, cập nhật các nội dung đổi mới trong dạy học hiện nay, các nội dung cần có tính thực hành và ứng dụng cao trong thực tiễn. Với sự thay đổi và phát triển liên tục của xã hội, những đổi mới trong giáo dục cần được thường xuyên cập nhật và trao đổi tại các giờ học hay các hoạt động RLNVSP. Chính những nội dung đó sẽ khiến SV tiếp cận gần hơn với thực tiễn giáo dục, rút ngắn khoảng cách từ quá trình đào tạo tới thực tiễn. Điều này giúp SV ngay sau khi ra trường có thể đáp ứng được yêu cầu của trường phổ thông. 2.2.3. Về phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (xem bảng 3) Bảng 3. Các phương pháp được thực hành trong hoạt động RLNVSP Thứ tự Các phương pháp Số lượng Tỉ lệ 1 Thuyết trình 103 93,7% 2 Vấn đáp 97 88,2% 3 Giải quyết vấn đề 54 48,2% 4 Tự học 27 24,5% 5 Làm việc nhóm 74 67,3% 6 Giảng giải, minh họa 89 80,9% 7 Trực quan 92 83,6% 8 Kiến tạo 35 31,8% 9 Phương pháp khác 8 7,2% VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 165-169 167 Về phương pháp và cách thức tổ chức triển khai RLNVSP: vẫn nặng về lí thuyết, thời lượng thực hành còn hạn chế, SV còn thiếu tính chủ động, ít áp dụng các PPDH đổi mới như dạy học giải quyết vấn đề (48,2%), dạy học kiến tạo (31,8%), dạy học tự học (24,5%). Phương pháp chủ yếu SV được học và thực hành là phương pháp thuyết trình (93,7%), phương pháp vấn đáp (88,2%), phương pháp giảng giải, minh họa (80,9%). Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Do đó, để phát huy hiệu quả của giờ dạy, mỗi GV cần áp dụng đa dạng và linh hoạt các PPDH, đặc biệt, cần phải được tăng cường thực hành giảng dạy những PPDH đặc thù như phương pháp trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp Điều này sẽ giúp SV từ làm quen đến thành thạo các PPDH và áp dụng linh hoạt vào các bài dạy, các đối tượng khác nhau một cách phù hợp. Bảng 4. Mức độ tìm hiểu về các PPDH đổi mới tại trường tiểu học Rất thường xuyên Thường xuyên Đôi khi Số lượng 15 50 45 Tỉ lệ 13,6% 45.5% 40.9% Trong quá trình giảng dạy, SV cũng đã tiếp xúc với những yêu cầu và những đổi mới của giáo dục phổ thông. Ngoài giờ học chính khóa, SV trong Khoa cũng có những hoạt động sinh hoạt chuyên đề giúp SV tiếp cận và cập nhật những đổi mới trong giáo dục phổ thông. Điều này giúp SV có những hành trang cơ bản về thực tiễn giáo dục phổ thông, không còn bỡ ngỡ và đứng ngoài công cuộc đổi mới của giáo dục. Vấn đề này luôn được SV trong khoa hiểu rõ, bởi SV cũng ý thức được rằng, người trực tiếp thực hiện công tác đổi mới trong tương lai của giáo dục chính là SV sư phạm - những thầy, cô giáo trong tương lai. Qua thực trạng điều tra về hoạt động RLNVSP của SV Khoa Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, tác giả nhận thấy, SV phần lớn đã có ý thức về việc rèn luyện nâng cao NL sư phạm của bản thân. Ngoài thời gian học, SV đã chủ động rèn luyện và thực hành nhằm nâng cao NL sư phạm của bản thân. Song bên cạnh đó, cũng còn có những SV chưa thực sự quan tâm các hoạt động RLNVSP, chưa chủ động tìm hiểu những đổi mới trong giáo dục phổ thông hiện nay. Điều này khiến cho SV gặp phải những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giảng dạy tại các trường phổ thông. 2.3. Một số biện pháp nâng cao năng lực sư phạm cho sinh viên Khoa Tiểu học, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây 2.3.1. Giảng dạy các học phần cơ bản có liên hệ chặt chẽ với các học phần phương pháp dạy học Đặc thù của giáo viên tiểu học khác biệt với các giáo viên trung học cơ sở ở số môn mà giáo viên tiểu học cần phải phụ trách giảng dạy với các lớp học. Nếu một giáo viên trung học cơ sở chỉ chuyên sâu vào một môn học như: Toán, Vật lí, Hóa học, Ngữ văn, thì một giáo viên tiểu học cần phải có các NL giảng dạy ở nhiều chuyên môn như: Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên - Xã hội, Thủ công - Kĩ thuật... Do đó, trong quá trình giảng dạy các môn khoa học cơ bản, mỗi GV cần định hướng cho SV những nội dung khoa học cơ bản để giúp HS có thể liên hệ - kết nối với các kiến thức ở các lớp tiểu học mà sau này SV sẽ giảng dạy. Cụ thể, trong kế hoạch đào tạo các khóa 37, 38, 39 của Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, SV Khoa Tiểu học cần học 5 học phần bắt buộc, 1 học phần tự chọn về môn Toán gồm các môn học: 1. Cơ sở lí thuyết tập hợp & logic Toán; 2. Các tập hợp số; 3. Xác suất thống kê; 4. PPDH toán; 5. Thực hành giải toán; 6. PPDH các chuyên đề nâng cao. Trong các học phần trên, có 4 học phần cung cấp kiến thức, kĩ năng của khoa học chuyên ngành của môn Toán học nói chung và môn Toán tiểu học nói riêng; có hai học phần là học phần PPDH toán và PPDH các chuyên đề nâng cao là hai học phần tập trung vào phương pháp và các kĩ thuật dạy học môn Toán cho SV. Trong quá trình giảng dạy học phần cơ sở lí thuyết tập hợp và logic toán, GV cần giúp SV hiểu ý nghĩa của môn học và liên hệ nội dung học tập trong môn học với kiến thức giảng dạy của giáo viên tiểu học sau này. Ví dụ, trong học phần có một chủ đề là Tập hợp và các phép toán trên tập hợp. Khi tìm hiểu nội dung trên, GV có thể liên hệ tới nội dung khi giáo viên tiểu học dạy HS có nội dung đó là tiếp cận với khái niệm các số 1, 2, 3... Đó chính là quá trình HS xác định bản số của một tập hợp. Còn khi HS cộng hai số tự nhiên đó chính là xác định bản số của hợp hai tập hợp. Đương nhiên, khi dạy HS tiểu học, giáo viên sẽ không nói với các em các ngôn ngữ chuyên ngành như bản số, tập hợp, hợp của hai tập hợp... nhưng SV vẫn cần hiểu nội dung mình giảng dạy có cơ sở khoa học như vậy. Với học phần mang tính đặc thù về toán học như học phần Xác suất thống kê, GV cần kết hợp các kiến thức kĩ năng đặc thù của môn Toán với các kiến thức thực tiễn. Có thể GV sẽ lấy các tình huống, các ví dụ thực tiễn và yêu cầu SV sử dụng các kiến thức của môn học để giải quyết. Đồng thời, với HS tiểu học cũng có mạch kiến thức về Thống kê, GV cần giúp SV nhận thấy sự liên hệ giữa nội dung học tập của SV và nội dung giảng dạy cho HS tiểu học. Khi giảng dạy các nội dung khoa học cơ bản, GV liên hệ với các nội dung trong toán tiểu học sẽ giúp SV nhận thấy ý nghĩa của học phần mà mình đang học tập, từ đó, nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập. 2.3.2. Vận dụng phù hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học PPDH của mỗi học phần có những đặc thù riêng. Để giúp SV hiểu và thực hành thành thạo được các PPDH, trong mỗi giờ dạy, GV cần minh họa cho SV các hình VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 165-169 168 thức tổ chức dạy học một cách cụ thể. Trong quá trình giảng dạy, GV cần phối hợp đa dạng các hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp SV hiểu rõ và vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học trong các giờ học. Học phần PPDH toán tiểu học trang bị cho SV những kiến thức cơ bản về: - Mục tiêu, chương trình môn Toán ở tiểu học; - Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học; - Đánh giá kết quả học tập trong dạy học toán ở tiểu học; - Lập kế hoạch dạy học và dạy học các nội dung kiến thức toán và rèn kĩ năng dạy học môn Toán ở tiểu học. Để giúp SV hiểu rõ về các PPDH, GV có thể vận dụng chính những PPDH đó vào quá trình giảng dạy của bản thân, thông qua đó cũng giúp SV nhận thấy mặt tích cực và mặt hạn chế của mỗi phương pháp. Từ đó, có thể vận dụng các PPDH một cách chủ động và phối hợp được các PPDH trong một bài dạy hiệu quả. Ví dụ, trong nội dung chương 2 của học phần PPDH toán, SV được tìm hiểu về các PPDH thường dùng trong dạy học toán tiểu học, trong đó, có các phương pháp: trực quan, gợi mở vấn đáp, thực hành luyện tập, giảng giải, minh họa. GV có thể chia lớp thành các nhóm và yêu cầu SV vận dụng các PPDH trên trong một giờ dạy ở môn Toán tiểu học. GV và SV có thể cùng phân tích tìm ra những ưu điểm, hạn chế của mỗi phương pháp và những dạng bài dạy có thể áp dụng đa dạng PPDH phù hợp với các dạng bài dạy. 2.3.3. Ứng dụng Công nghệ thông tin trong quá trình dạy học Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, công nghệ thông tin đã được sử dụng thường xuyên trong công tác giảng dạy tại các trường tiểu học. Một bộ phận SV trong Khoa có thể tiếp cận và sử dụng các công nghệ một cách nhanh chóng, song cơ hội để vận dụng trong học tập cũng như giảng dạy chưa nhiều. Do đó, để tạo điều kiện cho SV có cơ hội vận dụng được công nghệ trong giảng dạy, GV có thể giao nhiệm vụ, trong đó, đòi hỏi SV vận dụng công nghệ để hoàn thành các nhiệm vụ. GV có thể yêu cầu SV thiết kế các bài giảng và thực hành giảng dạy kết hợp với các phần mềm như PowerPoint hoặc Violet hoặc ActivInspire... Đồng thời, thông qua các phần thực hành giảng của SV, GV có thể điều chỉnh để giúp SV kết hợp giữa bài giảng và công nghệ trong dạy học. Hơn nữa, từ năm học 2016-2017, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây đang trang bị những phòng học chất lượng cao với các trang thiết bị hiện đại. Với các tiết học về PPDH, GV có thể linh hoạt sử dụng trang thiết bị hiện đại trong quá trình giảng dạy, đồng thời, hướng dẫn SV sử dụng và thực hành sử dụng các trang thiết bị trong phòng, qua đó, trang bị cho các SV kĩ năng tương tác và khai thác tốt các thiết bị hiện đại phục vụ trong quá trình giảng dạy; giúp SV tự tin hơn trong quá trình thực hành sư phạm cũng như quá trình công tác của bản thân. 2.3.4. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá Kiểm tra, đánh giá là một yếu tố quan trọng trong quá trình đào tạo, bởi hình thức kiểm tra, đánh giá có vai trò định hướng cách học của người học. Nếu các hình thức kiểm tra, đánh giá chỉ có yêu cầu tái hiện kiến thức, người học cũng chỉ học để tái hiện lại, nhắc lại những kiến thức đã có. Nếu các hình thức kiểm tra, đánh giá yêu cầu người học phải hiểu rõ kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế thì người học sẽ tìm cách tiếp cận tri thức theo cách đánh giá đó. Do vậy, cần điều chỉnh cách kiểm tra, đánh giá, định hướng quá trình vận dụng kiến thức vào thực tiễn của người học. Trong quá trình giảng dạy các học phần toán, GV có thể đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá kiến thức của SV, từ đó, khuyến khích SV tích cực và chủ động hơn trong học tập. Hình thức kiểm tra, đánh giá có thể thông qua các bài tập lớn, bài tập nhóm, bài tập cá nhân. GV tổ chức các buổi seminar, trong đó, SV báo cáo sản phẩm tiểu luận, trình bày một dạng toán điển hình ở tiểu học, một tiết giảng minh họa một PPDH hoặc hình thức tổ chức dạy học mới... Thông qua những hoạt động đó, SV có thể phát huy NL của bản thân, đồng thời, rèn luyện khả năng thuyết trình của người học. Trong môn PPDH toán, GV cần yêu cầu SV chuẩn bị hồ sơ môn học, trong đó sẽ là tập hợp các sản phẩm từ các chủ đề, các chương, các kế hoạch bài giảng của các dạng bài điển hình. Đồng thời, hình thức kiểm tra, đánh giá với các môn PPDH toán nên sử dụng là hình thức thi vấn đáp - thực hành. Thông qua quá trình SV thực hành, GV sẽ phát hiện và điều chỉnh những thiếu sót cho SV, đồng thời, SV cũng phải chuẩn bị một cách chu đáo và nghiêm túc hơn với bài dạy. 2.3.5. Cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường sư phạm với trường thực hành sư phạm Trường sư phạm cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với các trường phổ thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho SV đến các trường thực hành, kiến tập, thường xuyên tiếp xúc với các công việc của giáo viên ở trường phổ thông và tiếp xúc với HS. Hiệu quả đào tạo ở các trường sư phạm sẽ cao hơn nhiều nếu các trường sư phạm xây dựng được hệ thống các trường thực hành. Các trường sư phạm có cơ hội mở rộng thêm thực tế ở các địa phương để bổ sung vào quá trình đào tạo về lí thuyết nghiệp vụ sư phạm, so sánh kết quả việc thực hiện các nội dung đã giảng dạy ở các trường khác nhau so với yêu cầu đã đề ra. Các trường thực hành sư phạm điều chỉnh lại các hoạt động giảng dạy, sinh hoạt của mình theo đúng quy định; cần có thêm lực lượng SV hỗ trợ các hoạt động phong trào của trường; tạo điều kiện tiếp cận nhanh và vận dụng các nghiên cứu sư phạm của các trường sư phạm vào hoạt động giảng dạy; cung cấp các thông tin hướng nghiệp cho HS phổ thông. Trường thực hành sư phạm cũng phải có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với trường sư phạm tổ chức, hướng dẫn, VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 165-169 169 nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm các hoạt động thực hành của SV. Đánh giá giữa thực tế giảng dạy của trường phổ thông (nơi SV thực tập) và chuyên môn của trường sư phạm sẽ tạo ra cách đánh giá khách quan và hiệu quả cho quá trình thực tập của SV sư phạm tại các trường phổ thông. Hiện nay, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây đang xây dựng hệ thống trường thực hành liên cấp “Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Thăng Long” trực thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây - ngôi trường với sự tâm huyết của các GV sư phạm, nhằm tạo ra một môi trường sư phạm giúp mỗi HS phát huy tối đa tiềm năng của bản thân mình. Đó cũng là cơ hội giúp SV rèn luyện kĩ năng sư phạm của bản thân trong môi trường thực tế. 3. Kết luận NL sư phạm là NL thiết yếu của mỗi GV, NL sư phạm được tích lũy và phát triển trong nhà trường là yếu tố căn bản giúp mỗi SV ra trường có thể tự tin trong công tác giảng dạy. Đứng trước thách thức của đổi mới giáo dục, đặt ra yêu cầu cho mỗi SV không ngừng rèn luyện bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu về người giáo viên trong giai đoạn mới. Để có được kết quả đó, trường sư phạm - nơi đào tạo giáo viên phổ thông tương lai cần có những giải pháp hữu hiệu kết nối chương trình đào tạo tương hợp với những yêu cầu đầu ra của SV là dạy học nội dung giáo dục phổ thông được thể hiện qua chương trình và sách giáo khoa cấp học, bậc học phổ thông. Theo tinh thần đó, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây đang có những đổi mới theo bước đi và lộ trình thích hợp, góp phần nâng cao NL sư phạm cho SV trong thời gian tới và trong tương lai. Tài liệu tham khảo [1] Quốc hội. Luật Giáo dục (2009). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. [2] Ban Chấp hành Trung ương. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [3] Đặng Vũ Hoạt - Hà Thị Đức (2013). Lí luận dạy học đại học. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. [4] Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (1987). Giáo dục học (tập 1, tập 2). NXB Đại học Sư phạm. [5] Nguyễn Hữu Châu (2005). Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục. [6] Nguyễn Văn Cường - Bernd Meier (2014). Lí luận dạy học hiện đại - Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học. NXB Đại học Sư phạm. [7] Phạm Trung Thanh (2005). Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên. NXB Đại học Sư phạm. [8] Nguyễn Văn Đệ - Vũ Văn Đức (2012). Bàn về mô hình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở các trường đào tạo giáo viên. Tạp chí Giáo dục, số 79, tr 42-43. [9] Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây (2018). Kế hoạch đào tạo ngành cao đẳng sư phạm Giáo dục Tiểu học. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA.. (Tiếp theo trang 207) 3. Kết luận HĐNK được tiến hành ngoài giờ học nhưng nội dung và chủ đề phải bám sát với bài nội khóa. Do đó, GV phải đảm bảo công tác ngoại khóa vẫn có tác dụng bồi dưỡng kiến thức, giáo dục và phát triển HS. Khi tổ chức HĐNK, GV nên biết phát huy năng khiếu, sở trường của HS, tạo điều kiện để những cá tính, phẩm chất, ý thức, khuynh hướng được bộc lộ rõ rệt. Thực tế cho thấy, HĐNK trong DHLS cần có sự giúp đỡ của xã hội, gia đình, nhà trường. Vì vậy, tùy điều kiện của nhà trường, GV nên tăng cường tổ chức HĐNK để hỗ trợ đắc lực cho hoạt động học tập của HS trong nhà trường, từ đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng DHLS ở trường phổ thông. Tài liệu tham khảo [1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. [2] Hoàng Phê (chủ biên) - Hoàng Thị Tuyền Linh - Vũ Xuân Lương - Phạm Thị Thủy - Đào Thị Minh Thu - Đặng Thanh Hòa (2007). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. [3] Phan Ngọc Liên (chủ biên) - Nguyễn Thị Côi - Trịnh Đình Tùng (2009). Phương pháp dạy học lịch sử, tập II. NXB Đại học Sư phạm. [4] Lê Thị Thu Hương (2018). Một số biện pháp tạo hứng thú học tập lịch sử cho học sinh theo hướng nâng cao hiệu quả bài học ở trường phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt, kì 1 tháng 5, tr 181-184. [5] Nguyễn Thị Côi (2008). Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông. NXB Đại học Sư phạm. [6] Kiều Thế Hưng (1999). Hệ thống thao tác sư phạm trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [7] Vũ Ánh Tuyết (2017). Rèn luyện kĩ năng thực hành ngoại khóa môn Lịch sử cho học sinh trung học phổ thông. Tạp chí Giáo dục, số 403, tr 30-32. [8] Nguyễn Thu Nga (2012). Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông làm bài tập thực hành ngoại khóa môn Lịch sử qua khai thác tài liệu trên Internet. Tạp chí Giáo dục, số 299, tr 50-52.
File đính kèm:
- nang_cao_nang_luc_su_pham_cho_sinh_vien_khoa_tieu_hoc_truong.pdf