Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh

Tóm tắt. Nội dung cơ bản của Đường hướng giao tiếp đối với dạy ngôn ngữ

(CLT) có thể cô đọng lại là: dạy ngôn ngữ không phải chỉ là để giao tiếp mà còn là

thông qua giao tiếp. Mặc dù mới chỉ là những phát hiện ban đầu nhưng công trình đã

cho 4 nhóm kết quả chủ yếu như sau: 1. Những từ/ ngữ phổ dụng nhưng căn cứ vào

tình huống ngữ dụng cụ thể mà mang nghĩa nhạy cảm. 2. Các kí hiệu bằng chữ cái

chỉ mức độ tính dục, khỏa thân, bạo hành, và ngôn ngữ tục tĩu trong các loại phim

hiện hành ở Hoa Kì. 3. Một danh sách từ tiếng Anh có nghĩa kép, trong đó có một

nghĩa nhạy cảm. 4. 6 loại phong cách được dùng để chỉ bộ phận cơ thể và chức năng

sinh lí người. Để tạo cho người học một khả năng giao tiếp hữu hiệu trong hoàn cảnh

thực thì việc mô tả ngôn ngữ trong chương trình đào tạo cần phải sát với đời sống

thực của ngôn ngữ. Bài viết lập luận ủng hộ cho việc đưa khu vực nhạy cảm này vào

chương trình đào tạo tiếng Anh ở Việt Nam nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách giữa

tiếng Anh trong nhà trường và tiếng Anh trong tình huống thực

pdf 18 trang yennguyen 5420
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh

Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh
108 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0012 
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 1, pp. 108-125 
This paper is available online at  
NGÔN NGỮ NHẠY CẢM VÀ ĐÀO TẠO TIẾNG ANH 
Trần Xuân Điệp 
Khoa Tiếng Anh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt. Nội dung cơ bản của Đường hướng giao tiếp đối với dạy ngôn ngữ 
(CLT) có thể cô đọng lại là: dạy ngôn ngữ không phải chỉ là để giao tiếp mà còn là 
thông qua giao tiếp. Mặc dù mới chỉ là những phát hiện ban đầu nhưng công trình đã 
cho 4 nhóm kết quả chủ yếu như sau: 1. Những từ/ ngữ phổ dụng nhưng căn cứ vào 
tình huống ngữ dụng cụ thể mà mang nghĩa nhạy cảm. 2. Các kí hiệu bằng chữ cái 
chỉ mức độ tính dục, khỏa thân, bạo hành, và ngôn ngữ tục tĩu trong các loại phim 
hiện hành ở Hoa Kì. 3. Một danh sách từ tiếng Anh có nghĩa kép, trong đó có một 
nghĩa nhạy cảm. 4. 6 loại phong cách được dùng để chỉ bộ phận cơ thể và chức năng 
sinh lí người. Để tạo cho người học một khả năng giao tiếp hữu hiệu trong hoàn cảnh 
thực thì việc mô tả ngôn ngữ trong chương trình đào tạo cần phải sát với đời sống 
thực của ngôn ngữ. Bài viết lập luận ủng hộ cho việc đưa khu vực nhạy cảm này vào 
chương trình đào tạo tiếng Anh ở Việt Nam nhằm rút ngắn hơn nữa khoảng cách giữa 
tiếng Anh trong nhà trường và tiếng Anh trong tình huống thực. 
Từ khóa: Tiếng Anh nhạy cảm, tiếng Anh cấm kị, đào tạo tiếng Anh. 
1. Mở đầu 
Trong mọi ngôn ngữ đều có một khu vực mà ở đó có những từ hoặc ngữ mang ý 
nghĩa nhạy cảm. Đó là những từ/ ngữ hay lối nói làm cho người nói lúng túng và làm cho 
người nghe cảm thấy bị xúc phạm, bực tức hay đánh giá xấu về người nói. Đó là những 
từ/ ngữ hay lối nói mang tính kì thị (derogatory) chỉ giới tính, dân tộc hay tôn giáo. Cũng 
có thể, nhất là trong ngôn ngữ thường tục, đó là những từ, ngữ hoặc lối nói chỉ các bộ 
phận cơ thể, hoạt động tình dục và hoạt động vệ sinh/ sinh lí của con người. 
Đứng trên bình diện ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ là một thực thể xã hội. Một vấn 
đề quan trọng của ngôn ngữ học xã hội là tính biến đổi (hay đa dạng) của ngôn ngữ 
(language variation). Trần Xuân Điệp (2005) cho rằng: một đặc trưng của ngôn ngữ là 
tính biến đổi. Những biến đổi này rất phức tạp, nhưng nhìn chung có thể nhóm lại thành 2 
khu vực chính: theo người sử dụng (dialectal) và theo lối sử dụng (diatypical). 
Theo người sử dụng ngôn ngữ biến đổi theo 5 nhóm chính: 
- Biến đổi theo vùng/ theo địa lí (regional/ geographical); 
- Biến đổi theo thời gian (temporal); 
Ngày nhận bài: 13/11/2018. Ngày sửa bài: 19/12/2018. Ngày nhận đăng: 1/1/2019. 
Tác giả liên hệ: Trần Xuân Điệp. Địa chỉ e-mail: dieptranxuan@gmail.com 
Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh 
109 
- Biến đổi theo giai tầng xã hội (social); 
- Biến đổi theo chuẩn và phi chuẩn (standard/ non-standard); 
- Biến đổi theo cá nhân (idiolectal). 
Hơn nữa, ngôn ngữ còn biến đổi theo lối sử dụng. Nói đến lối sử dụng là nói đến sự 
biến đổi của ngôn ngữ theo 3 biến tố của tình huống (Trần Xuân Điệp, sđd), trong đó liên hệ 
trực tiếp tới đề tài là không khí diễn ngôn – tenor of discourse. Nói đến không khí diễn ngôn 
là nói đến tính trang trọng của lời nói và quan hệ vai giao tiếp. Ở đây cũng cần phải nhấn 
mạnh rằng cho dù ngôn ngữ biến đổi theo giai tầng xã hội (theo người sử dụng) song ngay ở 
tầng lớp trên vẫn có thể có phong cách suồng sã (familiar) hay thậm chí tục tĩu (vulgar). 
Do sự chuyển trọng tâm nghiên cứu ngôn ngữ từ hình thức sang sử dụng ngôn ngữ 
trong giao tiếp (Trần Xuân Điệp, 2006) ngày nay nói nghiên cứu ngôn ngữ là nói nghiên 
cứu liên ngành, nói tới nghiên cứu ngôn ngữ trên nền tảng văn hóa. Ngôn ngữ nhạy cảm 
là một bộ phận sống của văn hóa! 
Tóm lại, không thể xem ngôn ngữ là một thực thể thống nhất và hoàn toàn phù hợp 
với mọi mục đích giáo dục, mang tính chủ quan của đường hướng định chuẩn 
(prescriptive). Do vậy, việc chưa nghiên cứu và chưa đề cập đến khu vực nhạy cảm trong 
ngôn ngữ là một khiếm khuyết rất lớn, không phải chỉ là để nghiên cứu ngôn ngữ với tư 
cách là một khoa học (khách quan) theo đường hướng mô tả (descriptive) mà còn là cung 
cấp tư liệu đầu vào cho nội dung chương trình đào tạo ngoại ngữ nhằm đạt được mục đích 
cuối cùng của đào tạo là năng lực giao tiếp trong đời sống thực của ngôn ngữ. 
Trên thế giới, cụ thể là trong thế giới nói tiếng Anh, đã có công trình về ngôn ngữ 
nhạy cảm (dangerous English), chẳng hạn như của Claire (1990). Taboo language (ngôn 
ngữ cấm kị) trong tiếng Anh, như đã trình bày, có thể bao hàm cả nội dung kì thị về giới 
tính, tôn giáo hay sắc tộc. Về những vấn đề này, chỉ tính riêng trong tiếng Anh, đã có 
nhiều công trình. Đó là các công trình về sự kì thị giới tính, kì thị tôn giáo, kì thị sắc tộc. 
Đây đó đã có những ý tưởng đưa ngôn ngữ nhạy cảm vào các chương trình TESOL (dạy 
tiếng Anh cho người nói các tiếng khác) , đặc biệt là TESL (dạy tiếng Anh với tư cách là 
tiếng thứ hai). Tuy vậy, một cách có hệ thống thì gần như chưa có công trình nào về loại 
ngôn ngữ này. Ở Việt Nam, là kết quả của xu hướng tự do hóa mà cụ thể là về tư duy 
nghiên cứu ngôn ngữ, vấn đề ngôn ngữ nhạy cảm đã được quan tâm, một số trong nhiều 
ví dụ có thể dẫn ra là Trương Thị Nhàn (2015), Mai Thị Hảo Yến (2015) vv. Thậm chí 
đã có cả một luận án tiến sĩ về chửi thề, một biểu hiện cụ thể của loại ngôn ngữ này trong 
tiếng Việt. 
Không thể nghiên cứu và tổng kết hết được những lối biểu đạt những nội dung nhạy 
cảm trong một ngôn ngữ, mà cụ thể ở đây là trong tiếng Anh. Do vậy, công trình này cũng 
chỉ dừng lại ở những phát hiện ban đầu trong tiếng Mỹ hiện đại, như thấy được sử dụng 
tại một số thành phố lớn của Hoa Kì mà thôi. 
Như trên đã nêu, một đặc trưng của ngôn ngữ là biến đổi. Theo lối sử dụng, một biến 
tố cơ bản của tình huống là không khí diễn ngôn (tenor of discourse). Theo biến tố này thì 
ngôn ngữ biến đổi theo 2 bình diện, đó là cá nhân (personal) và liên nhân (interpersonal). 
Trên bình diện cá nhân thì ngôn ngữ biến đổi theo một trục biến thiên liên tục 
(continuum), từ tục tĩu (vulgar) đến đông cứng (frozen). 
Trần Xuân Điệp 
110 
 Đông cứng 
 Trang trọng 
 Thân mật 
 Suồng sã 
 Tục tĩu 
Trục biến thiên liên tục chỉ độ trang trọng của lời nói 
Do phong cách của ngôn ngữ hàng ngày chủ yếu nằm trong khoảng từ tục tĩu đến 
trang trọng và để xem xét vấn đề đa dạng, phức tạp này một cách có hệ thống, chúng tôi 
sử dụng một khung 6 bậc về phong cách, từ trang trọng đến tục tĩu, như sau: 
1. Từ, ngữ trang trọng (formal). 
2. Từ, ngữ phổ dụng (general use) 
3. Uyển ngữ (euphemism). 
4. Ngôn ngữ của trẻ em (baby talk). 
5. Lóng (slang) 
6. Từ ngữ tục tĩu (vulgar) 
Tuy là một công trình chuyên biệt về từ ngữ nhạy cảm trong tiếng Anh Mỹ, nhưng 
như đã thấy rõ từ góc độ nhìn ngôn ngữ là một cơ chế biến đổi nói trên, thực tế khảo sát 
cũng chỉ rõ: không thể có một công trình nào, ngay cả rất lớn, cũng không thể thống kê 
hết mọi thuật ngữ y học, mọi từ lóng, mọi từ tục tĩu chỉ các hoạt động tình dục hay vệ 
sinh/ sinh lí từ ngôn ngữ hàng ngày. Phạm vi của công trình cũng chỉ cho phép dừng lại ở 
những từ thường tục nhưng được sử dụng với nghĩa lóng hoặc tục nhằm giúp giảm bớt 
những tình huống khó xử ngoài ý muốn của người Việt nói tiếng Anh. Hơn nữa số lượng 
từ/ ngữ trong khu vực nhạy cảm này quá lớn nên nó đã vượt quá giới hạn của một công 
trình khiêm tốn này. Ngay cả với những nghĩa thông thường, công trình cũng không chủ 
trương nhắc lại tất cẩ những nghĩa thông thường mà từ điển tiêu chuẩn đã đề cập đến. 
Về phương pháp chúng tôi chủ trương theo thiết kế SRD, với công cụ chủ yếu là bảng 
câu hỏi, kết hợp với phỏng vấn trực tiếp. Cách bước tiến hành cụ thể lần lượt như sau: 
- Nghiên cứu lí thuyết làm cơ sở, tham khảo các công trình đã có có liên hệ; Lên kế 
hoạch; Thiết kế công cụ điều tra; Tiến hành điều tra (phát bảng câu hỏi và tiến hành 
phỏng vấn); Thu lại dữ liệu điều tra; Phân tích thống kê dữ liệu điều tra; Phân tích định 
tính kết quả điều tra; Báo cáo kết quả và kết luận. 
2. Nội dung nghiên cứu 
Trên thực tế, đây là một khu vực sử dụng ngôn ngữ khá rộng đòi hỏi phải có những 
công trình lớn hơn nhiều về cả số lượng, tính đa dang về loại hình nghiên cứu lẫn nội 
dung nghiên cứu. Do vậy, phạm vi của công trình này chỉ cho phép dừng lại nội dung đầu 
tiên - từ/ ngữ hoặc lối nói chỉ các bộ phận sinh dục, hoạt động tình dục và hoạt động về 
sinh/ sinh lí của con người. Dưới đây là kết quả khảo sát ban đầu. 
Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh 
111 
2.1. Kết quả thứ nhất 
Những từ/ ngữ này không hẳn là những từ/ ngữ mới, mà chủ yếu là những từ/ ngữ 
phổ dụng nhưng căn cứ vào tình huống ngữ dụng (người nói, người nghe và cách nói) mà 
mang nghĩa nhạy cảm. Chẳng hạn, nghĩa của nhiều từ/ ngữ lóng và tục hoàn toàn phụ 
thuộc vào ngữ cảnh. 
Để biểu đạt một chức năng sinh lí hết sức cần thiết hàng ngày của con người là “đi 
đại tiện”, trong tiếng Anh cũng có một loạt cách biểu đạt như: defecate, have a bowel 
movement, use the bathroom, make ka ka, make number two, go, take a shit. Đồng thời, 
chất thải của người/ động vật cũng có những cách nói khác nhau: feces, stool, bowel 
movement, dirt, droppings, b.m., turds, shit. Tùy theo từng tình huống cụ thể, các từ/ ngữ 
này có thể được dùng như sau: 
Tình huống 1: Trang trọng (formal), chẳng hạn, bác sĩ nói với bệnh nhân tại phòng 
khám bệnh: 
We have to check a sample of your stool. When you defecate, use this special case to 
obtain a small stool sample. Bring it to the laboratory for testing. 
Hay được ghi trong biên bản của thanh tra về vệ sinh/ an toàn thực phẩm trong một 
tiệm ăn, chẳng hạn: 
We found mouse feces on the shelves in the kitchen. 
Tình huống 2: Phổ dụng (general use), chẳng hạn, 2 người phụ nữ thân nhau đều có 
con nhỏ trao đổi với nhau: 
The baby hasn’t had a bowel movement in 2 days. I wonder if I should give him a 
laxative? His b.m.’s have been very hard and dry. 
Tình huống 3: Sử dụng uyển ngữ (euphemism), chẳng hạn như trong giao tiếp giữa 
khách đến dự tiệc và chủ nhà: 
May I use your bathroom? 
Hay trong giao tiếp giữa 2 người cùng đi trên phố: 
Watch out! Don’t step in the dog dirt. 
Tình huống 4: Lối nói của trẻ em (baby talk), như: 
Mommy, I have to make ka ka. 
Hay: 
Guess what? The dog did number two in the living room. 
Tình huống 5: Lối nói lóng (slang), như được sử dụng trong giao tiếp gia đình: 
Can we stop at a gas station soon? I have to go. 
Lối nói lóng này còn được sử dụng trong giao tiếp với bạn bè: 
Watch out! Don’t step in the dog turds! 
Tình huống 6: Tục tĩu (vulgar), như giữa hai người rất thân (intimate), giữa sinh viên 
cùng ở kí túc xá, chẳng hạn: 
Excuse me, I have to go take a shit! 
Tình huống 7: Khó xử, do tính đa nghĩa hoặc hiện tượng đồng âm của một số từ, như 
trong các ví dụ sau: 
7.1. Trong hiệu bán đồ dùng thể thao: 
Trần Xuân Điệp 
112 
- Do you have red balls? 
Ball (phổ dụng) = quả bóng, Ball (tục) = tinh hoàn 
7.2. Giữa 2 nhân viên văn phòng, 2 bạn học: 
- I can’t find his letter. May I look in your drawers? 
Drawers (phổ dụng) = ngăn kéo bàn/ tủ; Drawers (phổ dụng) = quần lót 
2.2. Kết quả thứ 2 
Các kí hiệu về loại phim: ở Hoa Kì có một hệ thống kí hiệu bằng chữ cái xếp loại 
mức độ tính dục, khỏa thân, bạo hành, ngôn ngữ tục tĩu của các loại phim. Cụ thể, sau khi 
khảo sát chúng tôi thấy có các loại phim có kí hiệu như sau: 
G – viết tắt của general audiences – (cho) khán giả nói chung, là loại phim cho cho 
mọi đối tượng người xem, kể cả trẻ em nhỏ tuổi. Trong phim không có cảnh khỏa thân, 
gần như không có cảnh bạo lực và tuyệt nhiên không có ngôn ngữ tục tĩu. 
PG – viết tắt của Parental Guidance - (cần) có hướng dẫn của cha mẹ). là loại phim 
không phù hợp với trẻ em nhỏ tuổi nên cần có sự hướng dẫn của bố mẹ. Loại phim PG 
này có thể có những cảnh làm tình ngắn, các nhân vật trong phim có thể cởi trần trong 
thời gian rất ngắn. Tuy không nhiều nhưng phim PG cũng thường có đôi chút nội dung 
bạo lực và ngôn từ tục tĩu. 
R – viết tắt của Restricted - hạn chế/ cấm, là loại phim “hạn chế” nên trẻ em dưới 18 
tuổi phải có người lớn đi kèm. Phim loại R có nhiều cảnh khỏa thân, làm tình, và bạo lực. 
Đồng thời ngôn ngữ tục tĩu được sử dụng rất nhiều. 
X – là loại dành riêng cho người lớn (từ 18 tuổi trở lên). Nhìn chung đây là loại phim 
khiêu dâm, ít có cốt chuyện, đúng như tên gọi, nhằm mục đích kích dục. Phim X (có thể 
có kí hiệu là XX, XXX thể hiện mức độ kích dục) có nhiều cảnh quay hoạt động làm 
tình một cách chi tiết, nhiều cảnh khỏa thân và ngôn ngữ rất tục. 
Ngày nay, phim trên những đài truyền hình lớn thường thuộc loại PG. Đêm khuya có 
thể có phim R, nhưng ít. Các phim R và X có suốt ngày nhưng chỉ có trong truyền hình 
cáp. 
Trước đây ngôn ngữ tục trên TV đều bị kiểm duyệt và loại bỏ. Tuy vậy, người ta có 
khuynh hướng ngày một chấp nhận loại ngôn ngữ này trên TV. 
Trước thập kỷ 1960, ở Hoa Kì sách có ngôn ngữ làm tình tục tĩu bị cấm. Tuy vậy các 
tác giả ngày một có khuynh hướng tự do hơn trong việc đưa vào sách ngôn ngữ của đời 
thực (tục). 
2.3. Kết quả 3: Một số từ có nghĩa kép, trong đó có một nghĩa nhạy cảm 
STT Từ/ 
ngữ 
Đơn vị Phong 
cách 
Tương đương 
nghĩa đen/ trang 
trọng trong tiếng 
Việt 
Chú ý về cách dùng 
1 adult Danh, 
tính từ 
Trang 
trọng 
(formal) 
Dành cho người 
lớn (chứa đựng nội 
dung khiêu dâm) 
Tùy thuộc vào ngữ 
cảnh, khi dùng với 
“education” thì chỉ có 
Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh 
113 
hoặc phổ 
dụng 
(general 
use) 
nghĩa trang trọng (dành 
cho người lớn tuổi). Khi 
đi với “service” có 
nghĩa nhạy cảm (tình 
dục) 
2 affair Danh từ Trang 
trọng 
(formal) 
hoặc phổ 
dụng 
(general 
use) 
Quan hệ bất chính 
(quan hệ khác giới 
khi đã có vợ/ 
chồng, bao hàm cả 
quan hệ tình dục) 
3 bag Danh từ Lóng 
(slang) 
Bao tinh hoàn 
4 basket Danh từ Lóng 
(slang) 
1.Cơ quan sinh 
dục nam/ nữ. 
2.Hình nổi của cơ 
quan sinh dục nam 
khi mặc quần chật. 
5 basket 
days 
Ngữ Lóng 
(slang) 
Thời tiết ấm Ngày ấm trời nên đàn 
ông mặc quần thể thao 
hay quần bó chật làm 
nổi rõ bộ phận sinh dục 
6 beat off/ 
beat the 
meat 
Động 
ngữ 
Tục 
(vulgar) 
Thủ dâm 
7 beaver Danh từ Tục 
(vulgar) 
1.Cơ quan sinh 
dục nữ. 
2.Phần dưới bụng 
của phụ nữ 
8 behind Danh từ Uyển 
ngữ 
Mông 
9 blow Động 
từ 
Tục Mút/ liếm dương 
vật để kích thích 
10 bottom Danh từ Uyển 
ngữ 
Mông 
11 briefs Danh từ 
số 
nhiều 
Phổ dụng Quần lót nam 
(quần xịp) 
12 buns Danh từ Uyển Mông 
Trần Xuân Điệp 
114 
số 
nhiều 
ngữ 
13 Brush/ 
bush 
Danh từ Tục Lông ở bộ phận 
sinh dục nữ 
14 can Danh từ Lóng 1.Mông. 
2.Khu/ phòng vệ 
sinh 
Ví dụ: 1. He fell on his 
can. 
2. “Who is in the can? 
Hurry up. I have to go, 
too” 
15 cheap Tính từ Lóng và 
kì thị 
Kém đạo đức, ăn 
mặc rẻ tiền, dễ dãi 
với đàn ông 
Phụ nữ thường dùng để 
kì thị phụ nữ khác. 
16 cheat Ngoại 
động 
từ/ 
danh từ 
Lóng (Người) phản bội 
chồng/ vợ/ bạn 
tình 
Dùng như một động từ 
hoặc như một danh từ 
chỉ người 
17 cherry Danh từ Tục Màng trinh 1.To still have a cherry 
(tục): còn trinh 
2.To lose one’s cherry 
(tục): mất trin ...  biến đổi, một loại biến đổi theo người sử dụng là sự 
biến đổi theo thời gian. Ngôn ngữ hiện tại là kết quả của sự tương tác gữa thời gian, địa lí, 
giai tầng xã hội, cá nhân (lứa tuổi, giới tính). Do vậy, trước đây trong xã hội Hoa Kì, 
trong mọi tình huống có phụ nữ hoặc trẻ em thì đàn ông không bao giờ văng tục. Trong 
những tình huống đó, người ta thường nhắc nhở “Watch your language, there are ladies/ 
children present” (Nói năng cẩn thận, có phụ nữ/ trẻ em ở đây đấy). Nhưng ngày nay phụ 
nữ Mỹ không còn ngạc nhiên hay cảm thấy khó chịu khi nghe thấy ngôn từ tục tĩu ở các 
bữa tiệc hay cả khi ở nơi làm việc! Hơn nữa, nhiều phụ nữ Mỹ ngày nay cũng sử dụng 
ngôn từ loại này, tuy có ít hơn so với nam về số lượng và số lần. Nam giới tỏ ra luôn 
mong chờ nam giới sử dụng ngôn từ tục và thậm chí ngưỡng mộ người sử dụng những từ 
ngữ đó tuy họ không trông mong phụ nữ hành xử như vậy! 
Trần Xuân Điệp 
122 
Thanh niên mới lớn (teenagers) sử dụng ngôn từ tục để được bạn bè trong nhóm chấp 
nhận (để thỏa mãn nhu cầu hòa đồng) là thành viên. Khi được hỏi thì những thanh niên 
này cho rằng nói tục là một cách thể hiện chúng là người lớn. Do vậy những đối tượng 
này rất thích vẽ viết nội dung tục tĩu lên tường nhà vệ sinh hay những nơi công cộng khác. 
Những người có trình độ văn hóa thấp sử dụng từ, ngữ tục tĩu nhiều khi là do họ không 
biết những từ, ngữ trang trọng chỉ các bộ phận cơ thể hoặc các chức năng sinh lí người. Bên 
cạnh đó, nhiều người học cao, thuộc tầng lớp trên, đôi khi vẫn ưa dùng ngôn ngữ tục tĩu vì 
họ cảm thấy các từ ngữ trang trọng các lối nói uyển ngữ là cứng nhắc, khuôn mẫu, đạo 
đức giả và các từ ngữ tục tĩu thẳng thắn hơn và biểu đạt tình cảm của họ chính xác hơn. 
Bạn tình thường ưa dùng từ ngữ tục trong phòng ngủ để nói chuyện tình ái (love talk). 
Có vẻ như những từ, ngữ này được cảm nhận là tự nhiên, thật hơn so với những thuật ngữ 
khoa học chính xác hoặc các từ trang trọng, khách sáo! Đồng thời những từ ngữ đó, do 
vậy, mà được cảm nhận là có tác dụng kích thích hơn về mặt sinh lí. 
Ngoài ra, khảo sát còn cho thấy việc sử dụng ngôn ngữ như vậy có tác dụng giảm 
căng thẳng. Đó cũng là lí do tại sao nhiều người thường thì không văng tục nhưng vẫn 
văng tục hay chửi thề khi họ mắc một lỗi lầm nào đó, bực tức, thất vọng, ngạc nhiên hay 
tự làm đau mình dưới một hình thức nào đó như vấp ngã, đứt tay, đứt chân vv. 
2.5. Suy nghĩ về việc đào tạo tiếng Anh hiện nay 
Một trong những khu vực quan trọng, được đặc biệt quan tâm trong dạy ngôn ngữ là 
dạy ngoại ngữ. Về mặt phương pháp dạy ngoại ngữ, xu hướng phổ biến hiện nay là đường 
hướng giao tiếp. Đường hướng này có thể tóm gọn một cách cô đọng nhất là: ngôn ngữ 
không phải chỉ là để giao tiếp mà còn là chỉ có thể có được bằng cách thông qua giao tiếp 
(Richards, 1998). Đường hướng này chỉ rõ mục đích và con đường để đạt được mục đích 
đó của dạy ngoại ngữ ngày nay. Giao tiếp (Trần Xuân Điệp, 2012) được định nghĩa là một 
quá trình trao đổi tạo nghĩa. 2 mặt cơ bản của giao tiếp là thu nhận (reception) và tạo sản 
(production). 2 mặt cơ bản này luôn lồng ghép với nhau làm cho giao tiếp trở thành một 
quá trình diễn ra liên tục. Giao tiếp có thể là hữu ngôn (sử dụng ngôn ngữ) và cũng có thể 
là phi ngôn (không sử dụng ngôn ngữ). 2 hình thức giao tiếp này cũng đan xen với nhau, 
hỗ trợ cho nhau giúp con người thành công trên mọi bình diện tạo và thu nhận nghĩa. 
Trong giao tiếp hữu ngôn, các kĩ năng thu nhận (receptive skills) là nghe và đọc, các kĩ 
năng tạo sản (productive skills) là nói và viết. Trong đào tạo ngoại ngữ, để có thể có sản 
phẩm đầu ra, đó là năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ của người học, cẩn phải cung cấp 
ngữ liệu đầu vào. Về mặt lí luận, phương pháp luận dạy ngoại ngữ luôn được xây dựng 
trên 2 cơ sở là mô tả ngôn ngữ (language description) và phương pháp học (learning 
methods) (Richards, sdd). Sự mô tả ngôn ngữ càng sát với ngôn ngữ thực thì con đường 
từ ngôn ngữ trong lớp học đến ngôn ngữ đời thực càng ngắn. Tuy vậy, trên góc độ ngôn 
ngữ học, các tài liệu dạy ngoại ngữ hiện có vẫn có thiên hướng định chuẩn (prescriptive) 
chứ không phải là mô tả (descriptive). Nói một cách giản đơn, ngữ liệu hiện có chưa phản 
ánh hết những gì tồn tại trong đời thực của ngôn ngữ hàng ngày. Do vậy, một kết quả thực 
tế không thể phủ nhận là, người học vẫn chưa thể hòa nhập ngay vào thế giới hàng ngày 
của ngôn ngữ của người bản ngữ. Có thể do lí do giáo dục, văn hóa hay một quan niệm 
“đạo đức” nào đó mà các tác giả đã chủ trương không đưa ngôn ngữ nhạy cảm vào tài liệu 
dạy học. Một hệ lụy của quan niệm như vậy là ngôn ngữ đầu vào (trong giáo trình dạy 
ngoại ngữ) vẫn khác xa với ngôn ngữ đời thực! Khu vực nhạy cảm là một bộ phận không 
Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh 
123 
thể tách rời của một ngôn ngữ vì nó phản ánh mặt văn hóa của ngôn ngữ đó. Người viết 
bài này cũng như hàng loạt những người đã trải nghiệm giao tiếp ở các nước nói tiếng 
Anh đều ít nhiều lâm vào những tình huống giao tiếp “chớ trêu” như hoàn toàn không 
hiểu khi nghe thấy những từ, ngữ cấm kị được người bản ngữ sử dụng – liên quan đến kĩ 
năng tiếp nhận (receptive skills). Liên quan đến kĩ năng tạo sản (productive skills) thì phải 
kể ngay đến những hoàn cảnh tuy đặc biệt nhưng vẫn thường xảy ra như đi khám bệnh 
(không biết từ, ngữ phù hợp với tình huống để biểu đạt các bộ phận kín hay những hoạt 
động sinh lí hàng ngày của cơ thể), hay việc phải tránh dùng một số từ hay ngữ trong tình 
huống trang trọng. Nói tóm lại, để giao tiếp hữu hiệu thì không phải chỉ cần phải học cái 
nên nói mà còn cần phải học cả những cái không nên nói để đảm bảo tính phù hợp 
(appropriacy) trong giao tiếp (Corder, 1993) đồng thời cần phải học để hiểu hết từ ngữ 
được người khác sử dụng trong tình huống cụ thể. Tuy nhiên hầu hết mọi sản phẩm đầu 
vào trong hầu hết các chương trình đào tạo ngoại ngữ, mà cụ thể là đào tạo tiếng Anh hiện 
có đều chưa đề cập đến nội dung này. 
Như đã nêu, một trong 2 nền tảng của phương pháp luận dạy ngoại ngữ là sự mô tả 
ngôn ngữ. Ngày nay nói đến dạy ngoại ngữ người ta nói ngay đến đường hướng giao tiếp. 
Đường hướng này gần như mặc định vai trò tất yếu của đường hướng ngôn ngữ học mô tả. 
Như đã trình bày, việc mô tả ngôn ngữ càng sát với ngôn ngữ đời thực thì khoảng cách giữa 
ngôn ngữ trong lớp học và ngôn ngữ đời thực càng ngắn. Song, có thể do lí do đã trình bày, 
mà các tài liệu dạy ngày nay bỏ trống hẳn khu vực ngôn ngữ nhạy cảm! Điều cần bàn trước 
tiên là làm thế nào để đưa được những lối biểu đạt nhạy cảm vượt qua nhiều rào cản cố hữu 
vào trong chương trình đào tạo ngoại ngữ mà cụ thể ở đây là tiếng Anh ở Việt Nam. 
Đầu tiên là rào cản về quan niệm. Có lẽ đã đến lúc cần phải nâng cao ý thức về khu 
vực nhạy cảm của ngôn ngữ. Cần phải nâng cao nhận thức được một thực tế là mô tả ngôn 
ngữ theo đường hướng mô tả (descriptive) là 1 nền tảng cơ sở của đường hướng giao tiếp 
đối với dạy ngoại ngữ. Có nghĩa là để cho người học sớm có khả năng giao tiếp trong đời 
thực của ngôn ngữ thì phải cố gắng cung cấp ngôn ngữ đầu vào càng thực (authentic) 
càng tốt. Yếu tố thực này của tài liệu vừa giúp người học sớm đến gần với ngôn ngữ thực 
vừa có tác dụng gây hứng thú, động viên người học (intrinsic motivation). Trên bình diện 
giáo dục, có lẽ nhiều tác giả viết giáo trình, nhiều nhà phương pháp luận từ trước đến nay 
đều né tránh vấn đề này do quan niệm cố hữu về giáo dục: không nên đưa những gì tục tĩu 
vào trong trường học! Người viết bài này quan niệm rằng: đối tượng của giáo dục là con 
người, khác với máy móc, họ hoàn toàn làm chủ được việc giáo dục của chính họ, họ hoàn 
toàn có thể phân biệt được những gì nên học và những gì không nên học. Hơn nữa, từ “học” 
ngày nay không chỉ dừng ở học theo trường lớp mà đôi khi việc học ở ngoài đời còn tỏ ra 
hữu hiệu hơn! Nói một cách đơn giản, dù cho có cố ý để vấn đề ngôn ngữ nhạy cảm ngoài 
chương trình thì người học vẫn có thể học được nhưng theo một cách không có hệ thống! 
Một khu vực rất quan trọng trong đào tạo ngoại ngữ là dịch. Liên quan đến vấn đề 
ngôn ngữ tục tĩu, gần đây người ta nói nhiều về cái gọi là “dịch tục làm hỏng thuần phong 
mĩ tục”! Tác giả bài viết này xin mạn phép trình bày ý kiến của mình như sau: Ngay từ 
xa xưa, Hồ Thích (dẫn theo Cao Xuân Hạo, 2000), một học giả nổi tiếng Trung Quốc, đã 
đưa ra 3 tiêu chí để đánh giá một bản dịch, đó là tín (faithfulness) – đạt (grammaticality/ 
accuracy) – nhã (naturalness). Cho đến nay, cho dù lịch sử dịch thuật đã qua nhiều trang, 
nhiều chương, cho dù TQA (mô thức đánh gía chất lượng bản dịch) của Juliane House 
Trần Xuân Điệp 
124 
(1997) đang được sử dụng phổ biến, thì tiêu chí “tín” – độ trung thành – vẫn là vấn đề 
trung tâm của dịch thuật. Do đó nếu trong bản ngữ nguồn (source-language text) có sử 
dụng ngôn ngữ tục tĩu mà trong bản ngữ đích (target-language text) lại vì “đảm bảo thuần 
phong, mĩ tục” mà không dùng ngôn ngữ tục tĩu thì đã đến lúc cần phải xem lại định 
nghĩa của “tín” trong dịch thuật hiện đại. Còn nếu muốn đảm bảo được chữ “tín” trong 
dịch thuật mà trong chương trình đào tạo tiếng Anh không đề cập đến ngôn ngữ tục hay 
nhạy bén thì đó là một điều các bậc làm chuyên môn cần suy ngẫm! 
Chỉ khi ý thức được và dỡ bỏ được rào cản cơ bản này thì mới có điều kiện bàn đến 
các khâu khác nhau của cả quá trình đưa khu vực ngôn ngữ nhạy cảm vào trong đào tạo 
tiếng Anh nhằm mục đích cuối cùng của việc dạy ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp 
là sớm làm cho người học giao tiếp hữu hiệu trong tình huống thực. 
Có nhiều cách tiếp cận đối với việc đào tạo tiếng Anh. Một trong các cách đó là xem 
xét toàn bộ vấn đề theo 6 khâu (Trần Xuân Điệp, 2012) như sau: Phân tích nhu cầu 
(Needs Analysis); 2. Đường hướng (Approach); 3. Thiết kế chương trình (Curriculumn 
Design); 4. Học liệu (Materials); 5. Phương pháp trên lớp (Classroom Methods); 6. Kiểm 
tra/ đánh giá (Testing/ Assessment). 
Các khâu này liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một phức hợp thống nhất, các khâu 
phụ thuộc và quyết định lẫn nhau. Do đường hướng ngày nay chủ yếu là giao tiếp, đường 
hướng này có thể nói một cách vắn tắt lại là “Ngôn ngữ không phải chỉ là để giao tiếp mà 
còn có được là do giao tiếp” (Trần Xuân Điệp, 2012). Đường hướng này chắc chắn là xuất 
phát từ nhu cầu giao tiếp trong tình huống thực của người học, và cái mà người học cần là 
những hình thức ngôn ngữ để có thể sử dụng trong giao tiếp thực. Điều này khẳng định 
việc cần phải đưa vấn đề ngôn ngữ nhạy cảm vào chương trình đào tạo! Vấn đề học liệu, 
theo đánh giá của người viết, không phải là vấn đề quá khó, nhất là trong xu thế mở cửa 
hiện nay. Có lẽ, ngoài vấn đề rào cản về tư tưởng như đã nêu trên, thì vấn đề phương pháp 
trên lớp cũng là một vấn đề cần bàn kĩ. Theo quan niệm “học gì thi nấy” thì khâu cuối 
cùng – kiểm tra/ đánh giá – cũng cần được xem xét rất cụ thể. Theo thiển ý của người viết 
bài này, ý tưởng đưa ngôn ngữ nhạy cảm vào đào tạo tiếng Anh là một vấn đề hoàn toàn 
mới có thể gây “sốc” nên để thành công chắc chắn việc thực hiện ý tưởng đó phải là một 
quá trình bắt đầu bằng việc nâng cao ý thức về vấn đề. Việc nâng cao ý thức về vấn đề 
này cũng phải được xem xét qua các khâu nói trên của toàn bộ tiến trình dạy tiếng Anh. 
3. Kết luận 
Xuất phát từ ý tưởng về sự quán triệt tư tưởng mô tả (descriptive) trong việc cung cấp 
ngữ liệu đầu vào trong đào tạo tiếng Anh, tác giả đã báo cáo lại vắn tắt kết quả của một 
công trình nghiên cứu điều tra về việc sử dụng ngôn ngữ nhạy cảm trong tiếng Anh Mỹ. 
Tuy mới là bước đầu song đó là 3 nhận định có minh chứng cụ thể về việc người Mỹ biểu 
đạt những chức năng sinh lí, những hoạt động vệ sinh và những bộ phận cơ thể của con 
người. Thay lời kết, bài viết nêu ý kiến chủ quan về việc đưa ngôn ngữ nhạy cảm vào đào 
tạo tiếng Anh, bắt đầu bằng khẳng định sự cần thiết phải đưa vào chương trình, sau đó là 
phương hướng chung để đưa ngôn ngữ đặc biệt này vào chương trình, bắt đầu bằng việc 
dỡ bỏ rào cản về quan niệm và vấn đề quán triệt tư tưởng đó trong 6 khâu của cả quá trình 
đào tạo tiếng Anh ở Việt Nam. Tác giả công trình xin trân trọng mọi ý kiến đóng góp, xây 
dựng, bàn bạc và thảo luận. 
Ngôn ngữ nhạy cảm và đào tạo tiếng Anh 
125 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Cao Xuân Hạo, 2000. Về một cách dịch không đúng. Ngôn ngữ và Đời sống, Số 2 
(52), 24 – 5. 
[2] Claire, E., 1990. An Indispensible Guide to Dangerous English. USA: Delta Systems 
[3] Corder, S.P., 1993. Introducing Applied Linguistics. London: Penguin UK. 
[4] House, J., 1997. Translation Quality Assessment: A Model Revisited. Tubingen: 
Niemeyer. 
[5] Mai Thị Hảo Yến, 2015. Văn hóa giao tiếp của người Việt qua hành động ngôn ngữ 
chửi. Ngôn ngữ và Đời sống, Số 3 (233), 26 – 8. 
[6] Richards, J. C., 1998. Beyond training: Perspectives on language teacher education. 
New York: Cambridge University Press. 
[7] Trần Xuân Điệp, 2005. Tính đa dạng của ngôn ngữ và việc giảng dạy ngôn ngữ. 
Ngôn ngữ, 10 (197), tr.42-47. 
[8] Trần Xuân Điệp, 2006. Ảnh hưởng của sự chuyển trọng tâm nghiên cứu ngôn ngữ đối 
với việc dạy ngoại ngữ, Ngôn ngữ, 9 (208), tr.58-66. 
[9] Trần Xuân Điệp, 2006. Nguồn gốc của một số từ, ngữ kì thị chủng tộc trong tiếng 
Anh, Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, No 6, tr.116 – 120. 
[10] Trần Xuân Điệp, 2012. Bước đầu bàn về khái niệm “Giao tiếp” trong “Đường hướng 
giao tiếp đối với dạy ngôn ngữ”. Tạp chí khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 
Vol 57, No 2, tr.3-14. 
[11] Trương Thị Nhàn, 2015. Biểu tượng tính dục trong ca dao xứ Huế từ góc nhìn phân 
tích diễn ngôn. Ngôn ngữ và Đời sống, Số 3 (233), tr.8-13. 
ABSTRACT 
Dangerous Language and English Education 
Diep Tran Xuan 
Faculty of English, Hanoi National University of Education 
Keeping in mind the idea that language is not only for but also through 
communication as the gist of CLT, basing on theories of language variation, the article is 
a report on initial findings of an SRD project on a “dangerous” area of American English. 
The using area of this language presents in any languages. Thus, the exclusion of this 
area from language-education programs is a serious shortfall. The findings, though initial, 
can fall under the following 4 categories: 1. Words in general use but with dangerous 
meanings in specific pragmatics situations. 2. Alphabetical symbols showing levels of 
sexuality, nudity, violence, and vulgar language in current movies in the USA. 3. A list of 
English words with double meanings, one of which is dangerous. 4. 6 styles used to show 
human body parts and functions.In order to provide learners with an ability to effectively 
communicate in real-life situations, language should be described in such a way that the 
language input is as close as possible to the language in its own environment. The article 
also argues in favor of incorporating this special area of language use in English-
education programs in Vietnam with a view to further narrow the distance between 
English classroom and English in real-life situations. 
Key words: Dangerous English, taboo English, English education. 

File đính kèm:

  • pdfngon_ngu_nhay_cam_va_dao_tao_tieng_anh.pdf