Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”
TÓM TẮT:
Bài viết này phân tích so sánh ngữ pháp và
ngữ nghĩa của “thôi” và “ngừng” – hai vị từ biểu
hiện sự tình kết thúc của tiếng Việt. Trong đó,
vấn đề giá trị thể của hai vị từ sẽ được quan
tâm ở mức độ cần thiết. “Thôi” và “ngừng” có
nhiều thuộc tính cú pháp-ngữ nghĩa chung,
nhưng cũng có nhiều khác biệt. Cả hai cùng
diễn đạt sự “không tiếp tục” hoặc “không tái
diễn” một hoạt động/quá trình; nhưng không
giống như “thôi” – chỉ một sự kết thúc, “ngừng”
có thể hàm ý một sự tiếp diễn sự tình đang nói
đến. Cả hai tiền giả định một sự tình đang diễn
ra. Nhưng “thôi” cũng có thể nói về một sự tình
dự định, còn “ngừng” thì không thể. “Thôi” biểu
hiện một sự tình Hoạt động hay Trạng thái; còn
“ngừng” có thể biểu hiện một sự tình Hoạt
động, Trạng thái hoặc Đoạn tính hữu đích. Cả
hai đều có thể đi trước một bổ ngữ là ngữ vị từ.
Nhưng với “thôi” thành phần bổ ngữ đó có tính
[+động] [+chủ ý], trong khi với “ngừng” lại có
tính [+động] [±chủ ý]. “Thôi” và “ngừng” cho
thấy nhiều điểm tương đồng và khác biệt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng”
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 102 Ngữ pháp, ngữ nghĩa của “thôi”, “ngừng” Nguyễn Vân Phổ Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM TÓM TẮT: Bài viết này phân tích so sánh ngữ pháp và ngữ nghĩa của “thôi” và “ngừng” – hai vị từ biểu hiện sự tình kết thúc của tiếng Việt. Trong đó, vấn đề giá trị thể của hai vị từ sẽ được quan tâm ở mức độ cần thiết. “Thôi” và “ngừng” có nhiều thuộc tính cú pháp-ngữ nghĩa chung, nhưng cũng có nhiều khác biệt. Cả hai cùng diễn đạt sự “không tiếp tục” hoặc “không tái diễn” một hoạt động/quá trình; nhưng không giống như “thôi” – chỉ một sự kết thúc, “ngừng” có thể hàm ý một sự tiếp diễn sự tình đang nói đến. Cả hai tiền giả định một sự tình đang diễn ra. Nhưng “thôi” cũng có thể nói về một sự tình dự định, còn “ngừng” thì không thể. “Thôi” biểu hiện một sự tình Hoạt động hay Trạng thái; còn “ngừng” có thể biểu hiện một sự tình Hoạt động, Trạng thái hoặc Đoạn tính hữu đích. Cả hai đều có thể đi trước một bổ ngữ là ngữ vị từ. Nhưng với “thôi” thành phần bổ ngữ đó có tính [+động] [+chủ ý], trong khi với “ngừng” lại có tính [+động] [±chủ ý]. “Thôi” và “ngừng” cho thấy nhiều điểm tương đồng và khác biệt. Từ khóa: thôi, ngừng, thể kết thúc Trong kho từ vựng tiếng Việt có nhiều đơn vị diễn đạt nghĩa “không tiếp tục” hay “không tiếp diễn” một hành động, quá trình. Trong đó, thôi và ngừng là hai từ thường gây khó khăn và nhầm lẫn cho người nước ngoài học tiếng Việt. Đây cũng là hai từ hầu như chưa được các tài liệu ngôn ngữ học quan tâm giải thích, nếu không tính đến các quyển từ điển đơn ngữ – vốn rất cô đọng, khó sử dụng. Bàn về khái niệm “kết thúc”, “không tiếp tục”, “không tiếp diễn” một hành động, quá trình (và những khái niệm có liên quan), ngôn ngữ học thường khảo sát dưới góc độ thể (aspectual value). Do mục đích ứng dụng và do khuôn khổ có hạn của bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu phân tích ngữ pháp và ngữ nghĩa của hai từ trên, trong đó thể cũng sẽ được bàn đến ở một mức độ cần thiết. Trong bài viết, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát khả năng hoạt động của từng từ và tiến hành so sánh chúng với nhau ở những nội dung có liên quan. Ngoài ra, để rõ hơn vấn đề đang bàn, chúng tôi cũng sẽ xét qua một số vị từ gần gũi với chúng: hết, dừng, ngưng, nghỉ1. 1. Thôi 1.1. Thôi là một vị từ đa chiều kích (multidimentional) xét trên ý nghĩa từ vựng và từ loại. 1.1.1. Trước hết, nó là một vị từ hành động vô tác, có đặc điểm là thường đòi hỏi một bổ ngữ là ngữ vị từ theo sau. “Thôi + VP” nghĩa là thực hiện hành động (và cái hành động đó là) chấm dứt/không tiếp tục một hoạt động (= VP) đang có hoặc đang dự định nữa. Cách hiểu trên thể hiện ba đặc trưng cơ bản: (i) Thôi là một vị từ hành động có thuộc tính [+động] [+chủ ý]); (ii) Thôi một hoạt động hàm ý rằng hoạt 1 Trong danh sách 1000 từ tiếng Việt (Đặng Thái Minh 1995. Từ điển tần số tiếng Việt trên máy tính) có tần số sử dụng cao nhất, thôi có thứ hạng 112, ngừng: 369, ngưng: 821, dừng và nghỉ không có mặt. Riêng hết ở thứ hạng 85; nhưng vì về bản chất nó không thể hiện hành động kết thúc nên chúng tôi chỉ trình bày sơ lược (ở mục 3) nhằm mục đích đối chiếu với thôi và ngừng. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 103 động đang đề cập sẽ không tái diễn nữa; (iii) Có thể thôi một hoạt động đang diễn ra, và cũng có thể thôi (không thực hiện) một hoạt động còn trong dự định. Đặc điểm (i), thôi chia sẻ với ngừng; trong khi đặc điểm (ii) phân biệt với ngừng ở chỗ ngừng mang hàm ý rằng hoạt động có thể sẽ tái diễn sau một thời gian nhất định, và ở đặc điểm (iii) phân biệt với ngừng ở chỗ không thể dùng ngừng cho một dự định. Thông thường, sau thôi là một vị từ [+động], lý do là người ta chỉ có thể “thôi” một hoạt động khi nó bắt đầu, diễn tiến và kết thúc trên trục thời gian. Ví dụ: (1) Đến khi thằng bé khóc thét lên, họ mới thôi cãi nhau. (2) Cô quyết định thôi vẽ tranh. (3) ??Khi tôi vào phòng thì ông ấy đã thôi ngồi trên ghế.2 (4) ??Một lúc sau, thấy mỏi, nó thôi đứng. (5) *Tôi thấy quyển sách đã thôi nằm trên bàn. (6) *Bà ấy vẫn chưa thôi dữ/đẹp/mập. (7) *Quả xoài này thôi ngọt/chua rồi. Ở (1) và (2), “cãi” và “vẽ” là vị từ hành động, mang tính [+động] [+chủ ý]. Trong khi đó ở (3), (4), “ngồi”, “đứng” là vị từ tư thế [-động] [+chủ ý], nên không thể kết hợp với thôi. Những vị từ biểu thị thuộc tính hay trạng thái thường tồn [-động] [-chủ ý] ở các câu (5) – (7) tuyệt nhiên không làm bổ ngữ cho thôi. 1.1.2. Về cơ bản, những vị từ mang tính [-chủ ý] không theo sau thôi; vì thường người ta chỉ có thể “thôi” thực hiện một hoạt động khi hoạt động đó thuộc ý chí hoặc quyền kiểm soát của mình. Do vậy, hầu hết vị từ trạng thái và vị từ quá trình (đều [-chủ ý]) không làm bổ ngữ cho thôi hành động. Chẳng hạn, người ta không thể nói “Chiếc tàu thôi chìm”, “Xe buýt thôi cập bến”, “Bức tranh thôi treo 2 Kí hiệu ? đánh dấu một câu đáng ngờ hoặc không tự nhiên, ?? đánh dấu một câu rất đáng ngờ, * đánh dấu một câu không chấp nhận được. trên tường”, “Chỉ vài tháng sau khi kết hôn, họ thôi yêu nhau”3, “Họ vẫn chưa thôi hạnh phúc”, v.v.. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có một số vị từ [- chủ ý] có thể được dùng sau thôi, khi đó có sự chuyển đổi ngữ nghĩa. Xét các câu sau đây: (8) Cô ấy đã có chồng có con rồi. Anh nên thôi nghĩ đến cô ấy! (9) Em nói xem, anh phải làm gì để em thôi giận? (10) Thấy mọi người nhìn, cô gái thôi khóc. Tính cầu khiến (vd (8)) và tính mục đích (vd (9)) cho thấy hai phát ngôn trên có một sự chuyển nghĩa rõ rệt: người nói xem như chủ thể có thể chi phối hay can thiệp vào trạng thái hoặc quá trình hiện tồn; hay nói cách khác, người nói cho rằng chủ thể có thể thực hiện một hành động chấm dứt sự “nghĩ”, “giận”. Câu (10) là một cấu trúc trần thuật, nhưng quan hệ nhân quả giữa hai tiểu cú cho phép hiểu “cô gái” có chủ ý chấm dứt “hoạt động” “khóc”. Như vậy, ở các ví dụ trên, vị từ theo sau thôi đã mang thuộc tính [+chủ ý]. Cũng có khi, vị từ bổ ngữ [-chủ ý] được sử dụng sau thôi với màu sắc phong cách được đánh dấu rõ rệt. Chẳng hạn: (11) Mọi chuyện rồi cũng qua. Bây giờ cô ấy đã thôi buồn. (12) Mưa đã thôi rơi. (13) Hòa bình rồi! Máu đã thôi chảy! Ở (11), khác với (10), quan hệ giữa hai câu không làm thay đổi thuộc tính của “buồn” – nó vẫn là [-chủ ý]. Ở các câu sau cũng không có dấu hiệu nào cho thấy vị từ chuyển sang [+chủ ý]. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, đây là cách dùng được đánh dấu về mặt phong cách (phong cách viết hoặc văn chương); lý do là trong ngôn ngữ hằng ngày thôi không xuất hiện trong các bối cảnh tương tự, thay vào đó là những cách diễn đạt khác, tự nhiên hơn. Thử mở rộng ngữ cảnh: 3 Ở đây “yêu” là một tình cảm – trạng thái tâm lý – chứ không phải là “yêu” hành động. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 104 (14) ?Tôi rủ nó đi uống vài ly cho nó thôi buồn. (ss: ... nó hết buồn.) (15) ?Mưa đã thôi rơi rồi, chúng ta đi đi! (ss: Mưa đã tạnh...) (16) ?Băng lại đi để máu thôi chảy! (ss: ... để cầm máu/để máu không chảy nữa!) Và hầu như người ta cũng không nói “Trời thôi nắng rồi, đi chơi đi!”, “Bát cháo đã thôi nóng.”, “Đến nửa đêm, bếp lửa thôi cháy”, “Thằng bé thôi béo ra rồi”, v.v.. Rõ ràng, trong hoạt động nói năng bình thường, kết hợp thôi và vị từ [-chủ ý] là thiếu tự nhiên. Như vậy, ở chiều ngược lại, hoàn toàn có thể nói rằng thôi là một chỉ tố đánh dấu tính [+chủ ý] của vị từ theo sau. 1.1.3. Như trên đã nói, thôi đòi hỏi vị từ theo sau phải mang tính [+động] [+chủ ý]. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần để một vị từ có thể kết hợp với thôi. Nếu đi sâu vào đặc trưng thời gian thì có nhiều điều phải làm sáng tỏ hơn. Vị từ bổ ngữ theo sau thôi thường phải là vị từ có tính thời lượng (đoạn tính, durative), và/hoặc tính lặp (iterative). (17) Nó thôi học rồi. (18) Nó đã thôi làm ở nhà hàng đó. (19) Nó đã thôi viết thư cho nàng. (20) Sau lần nằm bệnh viện đó, ông ấy thôi uống bia. (21) Từ ngày vào đại học, nó thôi chơi với đám trẻ con hàng xóm. (22) Thằng bé thôi tắt đèn. (23) Ông ta thôi đập bàn! Ở các câu trên, “học”, “làm ở nhà hàng”, “viết thư cho nàng”, “uống bia”, “chơi với đám trẻ con” là những hoạt động kéo dài trên trục thời gian. Đó là những hoạt động thường tồn, diễn ra hằng ngày, hằng tuần... chứ không phải diễn ra một lần, trong một khoảnh khắc. Trong sự tình không có đích để hoạt động hướng đến; nếu không có sự tác động nào đó thì có vẻ như những hoạt động đó sẽ không kết thúc [-giới hạn] (không có giới hạn phải, right bound). “Thôi + VP” có nghĩa là không tiếp tục, không tái diễn V nữa; như vậy, có vẻ thôi đóng vai trò của một vị từ chuyển thái: chuyển từ trạng thái V sang không V. Ví dụ (17) có nghĩa là nó không tiếp tục việc học nữa mà sẽ đi làm, đi lính...; ví dụ (18) có nghĩa là nó sẽ làm việc ở một nơi khác; ví dụ (19): nó chuyển sang một việc khác thay vì viết thư hoặc nó từ bỏ hoàn toàn việc viết thư cho nàng; ví dụ (20) ông ấy từ bỏ hoàn toàn việc uống bia; ví dụ (21): nó có những quan hệ khác, chơi với những người khác. Riêng hai ví dụ (22) và (23): (22) và (23) sẽ đúng nếu “tắt đèn” là một trò chơi bật – tắt hoặc một loạt hành động của “thằng bé” và “đập bàn” là thói quen của “ông ta” khi nổi giận; nhưng sẽ bất khả chấp nếu hiểu “tắt” và “đập” là một vị từ điểm tính (punctual). Về mặt cấu trúc, thôi tác động đến cả phần vị ngữ phía sau chứ không riêng vị từ bổ ngữ (xem các ví dụ trên). Do vậy, nếu thay đổi chút ít cấu trúc tham tố của khung vị ngữ thì tình hình khác hẳn. So sánh những câu trên với các câu sau đây: (24) *Nó thôi học bài 3 rồi. (25) *Nó đã thôi làm câu hỏi đó. (26) *Nó đã thôi viết bức thư đó. (27) *Ông ấy thôi uống cốc bia anh vừa rót. (28) *Nghe bố gọi, nó thôi đi bộ trong công viên. Có thể thấy, về hình thức, cả bốn câu (24) – (27) cũng biểu hiện những sự tình đoạn tính (vì “học bài 3”, làm câu hỏi đó”, “viết bức thư”... đòi hỏi phải có một thời gian nhất định), nhưng lại không được chấp nhận. Vấn đề nằm ở chỗ những tham tố trong khung vị ngữ đã làm cho sự tình mang thuộc tính định lượng (quantized, thuật ngữ của Krifka)4, khác 4 Chú thích: Khái niệm lũy tích (cumulative) và định lượng (quantized) đã được Krifka [4] phân biệt tường minh. Có thể giải thích đơn giản như sau: Trong “Nam viết thư”, “thư” là một danh ngữ lũy tích, vì dù Nam viết năm bức thư hoặc nửa bức thư thì cũng là “Nam viết thư”. (Trong tiếng Anh danh ngữ lũy tích thường thể hiện bằng danh từ khối hoặc danh từ số nhiều không kèm lượng từ, mass noun hoặc bare plurals). Trong khi đó, ở “Nam viết ba bức thư”, “ba bức thư” là một danh ngữ định TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 105 với thuộc tính lũy tích ở các câu (17) – (21). Những tham tố này có thể là những danh ngữ biểu thị đối thể của vị từ bổ ngữ (“bài 3”, “câu hỏi đó”, “bức thư đó”, “cốc bia anh vừa rót”), cũng có thể là những ngữ đoạn trạng huống (“nghe bố gọi”: liên quan đến một thời điểm cụ thể, như vậy sự tình được biểu thị chỉ diễn ra và chấm dứt một lần, trong khi “đi bộ trong công viên” là một sự tình Hành động (action) hoặc Tập quán (habitual))5. Hay nói đơn giản hơn, người ta có thể “thôi viết thư” chứ không thể “thôi viết một bức thư” hoặc “thôi viết bức thư đó”. Như vậy, nếu thỏa điều kiện lũy tích như vừa nói thì một hoạt động dù được hiểu là không có hạn định thời gian tự nhiên (vốn được hiểu là thói quen hoặc có tính lặp, các câu (a) dưới đây) hoặc có hạn định thời gian tự nhiên (được hiểu là xảy ra một lần trong một thời gian xác định – các câu (b)) thì cũng có thể kết hợp với thôi. (29) a. (Hắn rất vũ phu. Mỗi lần có rượu vào là hắn lôi vợ con ra đánh. Cho đến một hôm, hắn bị Hội phụ nữ gọi đến cảnh cáo.) Từ đó, hắn thôi đánh vợ. b. (Thằng bé ngã xuống. Bọn chúng thi nhau đấm đá.) Thấy có người xuất hiện, bọn chúng mới thôi đánh. (30) a. Xưa nay bà ta vẫn oang oang về con trai mình, nào là nó giỏi, nào là nó thông minh. Đến khi nó bị đuổi học bà ta mới thôi nói. b. Hơn nửa tiếng rồi mà bà ấy vẫn chưa thôi nói. (31) a. Từ lần thoát chết đó, hắn đã thôi uống. lượng: nhận định này chỉ đúng khi Nam đã viết đúng ba bức thư; viết nửa bức hoặc hai bức không phải là “viết ba bức thư”. 5 Cũng cần nói thêm, theo Krifka, thuộc tính lũy tích hay định lượng được xác định trên danh ngữ và cả vị từ. Nhưng theo quan sát của chúng tôi, hai thuộc tính này cũng có thể hiểu ở cấp độ sự tình. Ở vd (28), chính ngữ đoạn trạng huống “nghe bố gọi” đòi hỏi hành động “đi” phải là hành động, đang diễn tiến, có thời lượng nhất định, diễn ra một lần rồi chấm dứt – nghĩa là một sự tình mang tính định lượng; nhưng “đi bộ trong công viên” có thể được hiểu là sự tình Hoạt động hoặc sự tình Tập quán (habitual) – một hoạt động thường xuyên, lặp lại – cả hai đều không có kết điểm (endpoint) nên không thể tương hợp với “nghe bố gọi”. b. Hắn cứ ngồi uống tì tì. Đến khi ông chủ quán ra đòi tiền, hắn mới thôi uống. Ở (29a) “đánh vợ” là một hoạt động thường xuyên, tái diễn nhiều lần trong một thời gian về lý thuyết là không giới hạn; ở (29b) hành động “đánh” thằng bé về lý thuyết là có giới hạn thời gian vật lý (nghĩa là không thể kéo dài đến hết đời như “đánh vợ”), nhưng vẫn có tính lặp (nhiều động tác “đánh”, nhiều người “đánh” – so sánh: *“Nó thôi đấm một cái”). Ở (30a), hành động “nói” tái diễn nhiều lần trên trục thời gian; trong khi ở (30b), “nói” là một hành động diễn ra một lần nhưng có độ dài thời gian nhất định (đoạn tính). Các trường hợp trên đều có vị ngữ lũy tích và đều có thể chấm dứt bằng thôi. Ở (31a), “uống” là một hoạt động lặp, kéo dài trong thời gian, gồm nhiều lần “uống” khác nhau; còn ở (31b), “uống” là hoạt động diễn ra một lần, nhưng kéo dài, với nhiều ly, nhiều chai. 1.1.4. Thôi có thể tác động đến hoạt động đã hoặc đang diễn ra như vừa đề cập bên trên; nó cũng có thể được dùng để diễn đạt sự không thực hiện một hoạt động đáng lý phải diễn ra như là kết quả tất yếu hoặc sự tiếp nối của một dự định trước đó. (32) Chị định hỏi gã về vết sẹo trên mặt. Nhưng nhìn thấy vẻ lầm lì của gã, chị lại thôi (không hỏi). (33) Tôi có mang theo tài liệu, nhưng không thấy anh hỏi nên tôi thôi (không đưa ra). Thường “định hỏi” thì sẽ “hỏi”, “mang theo” thì sẽ “đưa”; nhưng ở hai câu này chủ thể quyết định làm cái việc là “không hỏi”, “không đưa”. Theo quan điểm của chúng tôi, ở cách dùng này, có lẽ nên xử lý “không + V” như là một đồng vị ngữ của thôi; trên hình thức, có thể phân tách thôi và “không + V” bằng dấu phẩy (“... chị thôi, không nói”, “... tôi thôi, không đưa ra”)6. Ở trường hợp đang bàn, “không + V” có thể thay bằng “không + V + nữa”. Nhưng ngữ vị từ thứ 6 Trong sự tương quan giữa “thôi + V” và “thôi + không V”, thôi hành chức hoàn toàn giống như cấm (“cấm + V” và “cấm + không được V”), quên (“quên + V” và “quên + không V”), từ chối (“từ c ... chủ thể xem như được tỉnh lược). Tương tự, trong “Chiếc xe này sửa hết 2 triệu”, hoặc “Sửa chiếc xe này hết 2 triệu”, có thể xử lý “chiếc xe” là đối thể như trong khung tham tố cơ bản: “S sửa chiếc xe này hết 2 triệu” hoặc “Chiếc xe này, tôi sửa hết 2 triệu”. Có một điều thú vị về ý nghĩa: ở các ví dụ (121) – (124) ta có quan hệ có/còn – hết (hết tiền, tức là tiền = zero); trong khi đó ở trường hợp vừa nói, ta có quan hệ: có – hết – còn (sau khi hết 2 tiếng hoặc hết 2 triệu, có thể vẫn còn thời gian hoặc một số tiền nào đó). Về mặt hình thức. trường hợp này thường được biểu thị bằng “hết + số từ + NP”. Khả năng kết hợp rộng rãi với danh ngữ của hết là một đặc trưng quan trọng phân biệt với thôi và ngừng (ở ngừng danh ngữ sau nó là đối tượng chịu tác động). Cho nên, có thể nói hầu như không có khả năng thay thôi, ngừng cho hết, ít nhất là trong các ví dụ trên. Hết thường đi với các vị từ trạng thái [-động] [- chủ ý], quá trình [+động] [-chủ ý] để biểu thị sự tiêu biến hoặc không còn tồn tại thuộc tính, trạng thái, quá trình đó nữa. Đây là một đặc trưng khác của hết so với thôi và ngừng: thôi không đi với vị từ [-chủ ý] (trừ những trường hợp đã nói ở mục 1.1.2), ngừng chỉ có thể kết hợp với vị từ [-chủ ý] nếu đề là TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 115 một đối thể chuyển vị hoặc là một lực (cf. mục 2.1.4). Ví dụ: (126) Đến giờ nó vẫn chưa hết sợ/đau/buồn/đẹp/vui. (127) Máy hết chạy/kêu/rung rồi. (128) Trời hết mưa/nóng/nắng rồi. (129) Lau nãy giờ mà cái bàn vẫn chưa hết dơ. Ở (126), (129) hết tuyệt nhiên không thể thay bằng thôi, ngừng; ở (127) có thể thay bằng ngừng, ở (128) không thể thay bằng ngừng, nhưng có thể thay bằng thôi (có điều kiện, cf. 1.1.2). Hết không đi trước những vị từ thuộc tính [-chủ ý]; hay nói chính xác hơn, dưới tác dộng của hết, những vị từ thuộc tính có thể kết hợp với hết sẽ được tri nhận và xử lý như là những vị từ trạng thái. Lý do là hết luôn tiền giả định sự chuyển thái từ có/còn đến không còn (= hết), trong khi thuộc tính thì về bản chất là thường tồn. Ví dụ: (130) Cái cặp này da hết mềm rồi. (131) Da cô ấy sắp hết đen. Hết có thể đi với vị từ hành động, cho biết không còn/tiếp tục V nữa; có hai trường hợp: (i) Đi với một vị từ hành động biểu thị một hoạt động xảy ra một lần, có hạn định thời gian, thì hết chấm dứt một hành động, không hàm ý rằng hành động vừa nói có thể tiếp diễn hay không. Ở biểu hiện này, nếu thay bằng ngừng thì hàm ý tiếp diễn lộ rõ, trừ khi có những thông tin loại trừ đi kèm (thành phần trong ngoặc ở hai ví dụ sau đây). (132) Ông ấy hết nói rồi, (bây giờ đến một bà nào đó). (133) Họ hết ăn rồi, (dọn đi)! (134) Bố hết đọc báo rồi. (Bố sắp lên phòng đấy, ngủ đi!) Cách dùng (i) thường phụ thuộc nhiều vào ngữ cảnh. (Thông thường, khi chấm dứt một hoạt động thì đồng thời hoạt động đó cũng hoàn thành, cho nên xong sẽ được chọn lựa thay vì hết. Tuy nhiên, đây vẫn là hai vị từ có ngữ nghĩa và ngữ pháp khác nhau). (ii) Với vị từ hành động biểu thị một hoạt động thường xuyên, thói quen (lặp), không hạn định thời gian, thì hết cho biết sự chấm dứt một trạng thái. Khác với trường hợp (i) (có thể tái diễn hoặc không), một trạng thái chấm dứt thì không tái diễn nữa. Và cũng khác với thôi: người nói dùng thôi khi muốn cho biết chủ thể làm một hành động chấm dứt; trong khi với hết, người nói chỉ muốn miêu tả rằng trạng thái trước của chủ thể đã không còn nữa (và sau đó là trạng thái mới). (135) Ông ấy hết ăn chay rồi. (136) Từ hôm nay nó đã hết ăn đường ăn chợ. (137) Sau tai nạn đó, nó hết đi xe máy. (138) Nhà có máy giặt, từ giờ nó hết (phải) giặt quần áo. Có vẻ như cách dùng (ii) thường gặp hơn cách dùng (i). Thôi và ngừng đều biểu thị sự không tiếp tục một sự tình, riêng thôi còn có thể dùng cho một hành động chưa hiện thực (dự định). Trong khi đó, hết có thể dùng cho một quá trình hoặc một hành động với ý nghĩa rằng cái quá trình, hành động ấy “không còn cơ hội diễn ra nữa”, nghĩa là không còn cơ hội hiện thực. Ở đây, hết khác với thôi ở chỗ quá trình, hành động đang nói có thể là một dự định (chủ ý của chủ thể) mà cũng có thể là một sự tình diễn ra một cách tự nhiên nếu không có trở ngại nào đó. Chẳng hạn, một người có thói quen ngủ trưa, nhưng một hôm có khách đến bất ngờ, anh ta có thể nói: “Vậy là hết ngủ!”; hoặc một người có thói quen thức dậy sớm tập thể dục, một hôm ngủ quên, thức dậy trễ, anh ta có thể nói: “Đến giờ đi làm rồi! Hết tập được rồi!”; hoặc một đứa bé làm rơi chiếc bánh mới mua, có thể nói: “Hết ăn rồi!”. Ở đây “ngủ”, “tập” và “ăn” không phải là một dự định nên không thể dùng thôi (dĩ nhiên, “ngủ” không thể kết hợp với thôi còn vì một lý do ngữ pháp: “ngủ” là một vị từ quá trình chứ không phải hành động). Như vậy, có thể nói, ở đây hết có nét nghĩa là không có/còn cơ hội nữa. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 116 Sự khác biệt về ngữ nghĩa giữa thôi, hết và ngừng trên vị từ hành động rất tinh tế nhưng cũng rất hiển nhiên đối với người bản ngữ. Thử so sánh: (139) Nó thôi học rồi. (140) Nó hết học rồi. (141) Nó ngừng học rồi. Câu (139) cho biết nó từ bỏ việc học mãi mãi (và bây giờ nó nằm nhà hoặc đi làm kiếm tiền). Trong khi đó, nếu không có thông tin hoặc tình thái nào đi kèm, câu (140) có thể cho biết nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy ngữ cảnh hoặc bối cảnh giao tiếp mà người nghe sẽ nhận biết được nội dung người nói muốn truyền đạt: - nó đã kết thúc một chương trình, một môn học, một khóa học, một năm học hoặc một buổi học; sau đó nó có thể học lại hoặc tiếp tục học; - có thể hiểu tương tự (139) Ở câu (141), ngừng cho biết (trước đó nó học và bây giờ) nó không học nữa; tình trạng “ngừng học” sẽ kết thúc, nghĩa là sau một thời gian nào đó hành động đọc sẽ tiếp tục; cũng có hiểu như (139) (xem phân tích ở vd (91) – (93)). 3.2. Dừng Về ngữ nghĩa, dừng biểu thị ý nghĩa không hoặc làm cho không tiếp tục vận động (chứ không phải hoạt động, nghĩa hẹp hơn ngừng); và kết quả là đối tượng đang nói sẽ ở hoặc chuyển sang trạng thái đứng yên (không chuyển động)(13). Như vậy, dừng có thể thay cho ngừng ở một số bối cảnh nhất định; ngược lại, ngừng có thể thay cho dừng trong mọi trường hợp. Về ngữ pháp, dừng là một vị từ hành động (nếu đề là tác thể) hoặc quá trình (nếu đề là đối thể). (142) Ông ta dừng xe/ngựa trên lưng đèo. (143) Xe lửa sẽ không dừng ở ga này. (144) Quả bóng lăn tròn, đến giữa sân thì dừng lại. 13 Cf. - Hoàng Phê (CB) 1995. Từ điển tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học. HN-ĐN; và Hoàng Văn Hành (et al.) 2002. Sổ tay dùng từ tiếng Việt. Tái bản lần thứ 1. Nxb KHXH. HN. Ở (142) đề là tác thể, ở (143) là đối thể (xe lửa di chuyển thường được hiểu là do chịu tác động của người điều khiển), ở (144) là đối thể (quả bóng có thể chịu tác động của người đá hoặc của lực tự nhiên, gió chẳng hạn). Dừng thường kết hợp sau với một danh ngữ đối thể – vốn là cái thực thể được tri nhận là đang vận động dưới tác động của một tác thể: dừng xe, dừng ngựa, dừng máy, dừng chèo, dừng bánh, dừng tay, dừng tay, dừng chân, dừng bút, dừng đũa, dừng lời (danh sách hữu hạn). Nếu danh ngữ đối thể được chuyển vị trái làm đề thì sau dừng cần phó từ lại và/hoặc một từ tình thái đi trước và/hoặc một ngữ đoạn trạng ngữ biểu thị vị trí để phát ngôn hoàn chỉnh (các ngữ đoạn này hành chức như một complement). Ví dụ: (145) Xe buýt (sắp) dừng lại thì nó nhảy xuống. (146) Cỗ xe ngựa dừng (lại) trước một quá rượu tồi tàn. (147) Câu chuyện dừng ở đây/nửa chừng. Về cơ bản, dừng khó kết hợp trực tiếp với các loại vị từ, kể cả vị từ hành động; có lẽ do nội hàm của dừng hẹp: chỉ liên quan đến sự vận động chuyển vị. Vì vậy, hầu như không thể nói dừng mập, dừng đẹp, dừng lo, dừng ngồi, dừng nằm, dừng đứng, v.v., cũng không tự nhiên khi nói dừng đi, dừng chạy, dừng nhảy, dừng bắn, dừng nói, dừng cãi, dừng cháy, dừng nổ, dừng đá, dừng đập, v.v.. Nếu muốn diễn đạt những hành động và quá trình liên quan, người nói phải xử lý nó như là một sự vật/sự việc, bằng cách (i) dùng một danh ngữ biểu thị một thực thể gắn với hành động, quá trình (dùng dừng chân, dừng tay, dừng chèo, dừng bánh, dừng lời, dừng đũa), (ii) nếu không thì phải đặt một danh từ như việc, chuyện, cuộc, quá trình, hành động, hoạt động, v.v. làm trung tâm cho một danh ngữ biểu thị sự việc, ví dụ: dừng việc đọc, dừng việc học, dừng chuyện cãi cọ, dừng câu chuyện, dừng cuộc chiến, dừng hành động chém giết, v.v. (các vị từ Hán Việt tỏ ra có khả năng xuất hiện lớn hơn: dừng kinh doanh, dừng thanh tra, dừng xây dựng, TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 117 dừng thi công, dừng dấu tranh,v.v.). Dĩ nhiên, ngừng là khả năng thay thế hữu ích cho dừng trong một phạm vi rất rộng rãi. 3.3. Ngưng Ngưng là một vị từ thường được các từ điển chú giải là ngừng, có thể hiểu là một biến âm của ngừng. Nghĩa là ngưng có thể thay cho ngừng trong mọi bối cảnh. Thật ra, khả năng xuất hiện của ngưng hạn hẹp hơn ngừng một cách rõ rệt khi đứng trước một danh ngữ. Chẳng hạn, ngưng không thể đi trước những danh ngữ biểu thị đối thể (chịu tác động) hoặc những thực thể có liên quan đến hành động, quá trình đang nói đến. Ví dụ: không nói ngưng xe, ngưng ngựa, ngưng tàu, ngưng máy, ngưng tay, ngưng chân, ngưng bút, v.v.. Hiện nay, trong tiếng Việt, đặc biệt là trên các phương tiện thông tin đại chúng, ngưng thường kết hợp với một vài danh từ: ngưng việc, ngưng công tác, và đặc biệt là ngưng chức. Chúng tôi cho rằng đây là hiện tượng cho thấy ngưng bắt đầu được cấp cho một nghĩa mới, phái sinh từ nghĩa ngừng có thời hạn: ngưng chức thì không phải là cách chức, từ chức; ngưng việc không phải là ngừng việc, thôi việc, nghỉ việc, đuổi việc; ngưng công tác không phải là ngừng công tác, thôi công tác, nghỉ công tác. Cả ba hiện có nghĩa là (bị) buộc tạm rời khỏi chức vụ, công việc một thời gian do sai phạm gì đó (trong khi ngừng được hiểu là chủ ý của chủ thể). 3.4. Nghỉ Nghỉ là một vị từ có nghĩa “bình thường” nhất là tạm không hoạt động trong một thời gian để phục hồi sức lực hoặc để làm một việc khác – chính tính mục đích này phân biệt nghĩa từ vựng giữa nghỉ và ngừng (ngừng không có tính mục đích trừ khi được hiển ngôn). Cái thực thể được “nghỉ” có thể là chủ thể, công cụ/phương tiện hoặc một bộ phận có liên quan đến hoạt động. (148) Tôi được nghỉ ba ngày. (149) Cho xe/tàu/máy/ngựa nghỉ đi! (150) Đi xem phim để cái đầu nghỉ một chút. (151) Các bạn nghỉ tay/chân uống nước! Nghỉ là một hành động vô tác (khác với ngừng) nên sau nghỉ không có danh ngữ biểu thị đối thể chịu tác động (trừ trường hợp tay và chân là bộ phận thân thể). Cho nên không thể nói: nghỉ xe, nghỉ tàu, nghỉ máy, nghỉ bút, nghỉ ngựa (có thể nói nghỉ tay, nghỉ chân). Nghỉ có thể kết hợp với một số vị từ hành động: nghỉ làm, nghỉ học, nghỉ chơi (đàn), nghỉ vẽ (tranh), nghỉ lái (xe), nghỉ nấu ăn, v.v.. Trong trường hợp này, nếu không có các thành phần trạng ngữ hiển ngôn hoặc không có ngữ cảnh, “nghỉ + V” được hiểu tương tự như thôi, nghĩa là không tiếp tục (mãi mãi) hoạt động đang đề cập. Điều này cũng đúng khi sau nghỉ là danh ngữ việc, công tác (đóng vai trò như một tham tố cương vực, range) hoặc một danh ngữ biểu thị chức vụ: nghỉ chức giám đốc, nghỉ chức trưởng phòng (màu sắc khẩu ngữ, theo Từ điển Hoàng Phê). * * * Những phân tích trên cho thấy thôi và ngừng là hai từ có những đặc điểm có thể chia sẻ với nhau, và trong nhiều tình huống có thể thay thế cho nhau. Đó là lý do giải thích tại sao học viên nước ngoài thường lúng túng và nhầm lẫn khi học những từ này. Thật ra, mỗi đơn vị trong kho từ vựng, trước hết là các vị từ, đều có những đặc trưng nhất định về ngữ nghĩa và ngữ pháp; trong sử dụng, sự biến đổi ngữ pháp và chuyển nghĩa là một khả năng không phải là cá biệt. Chính những điều đó làm cho diện mạo của mỗi đơn vị trở nên mơ hồ, khó nắm bắt. Thiết nghĩ, đi sâu vào bản chất ngữ nghĩa và ngữ pháp của mỗi từ, mỗi cấu trúc là một trong những cách có hiệu quả để lập thức ngữ pháp tiếng Việt. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 118 Syntax and semantics of “thôi” and “ngừng” Nguyen Van Pho University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: The paper gives a comparative analysis of the syntax and semantic features of “thôi” and “ngừng” – two Vietnamese egressive verbs where their aspectual value will moderately be focused. Accordingly, “thôi” and “ngừng” have several syntac-semantic properties in common, but also several differences. Both “thôi” and “ngừng” denote “not continue” or “not recur”; but unlike “thôi” which implies a termination, “ngừng” implies a possible resumption of the event in question. They both presuppose the event which has been in progress. However, “”thôi” can refer to an intention, but “ngừng” can’t. “Thôi” manifests the event of Activity or State (eventual types), but “ngừng” manifests the event of Activity or State or Accomplishment. They both can be followed in complement clause. In case of “thôi”, the complement clause refers to events [+dynamic] [+control] while “ngừng” requires events [+dynamic] [±control]. Both “thôi” and “ngừng” show some similarities but also differences. That is why foreigners have trouble learning Vietnamese. Keywords: egressive, terminative, cessation, aspectual value, phasal verb, aspects of verb TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Cao Xuân Hạo (1991). Tiếng Việt, sơ thảo ngữ pháp chức năng - Q1. Nxb KHXH, Tp.HCM. [2]. Dahl O. (1994). Aspect. Trong: Asher R.E. (ed.), The Encyclopedia of Language and Linguistics, Pergamon Press. [3]. Huỳnh Văn Thông (2000). Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 8&10, H.. [4]. Krifka M. (1989). Nominal reference, temporal constitution, and quantification in event semantics. Trong: R. Bartsch, J. van Benthem, and P. van Emde Boas (eds.). Semantics and contextual expressions. pp 75-- 115, Foris, Dordrecht. [5]. Lehman C. (1994). Predicates: Aspectual Types. Trong: Asher R.E. (ed.). The Encyclopedia of Language and Linguistics, Pergamon Press. [6]. Nguyễn Đức Dân (1996). Biểu hiện và nhận diện thời gian trong tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 3, H.. [7]. Nguyễn Hoàng Trung (2006). Thể trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Pháp và tiếng Anh). Luận án tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Tp.HCM. [8]. Nguyễn Vân Phổ (2011). “Bắt đầu” và thể khởi phát tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 2, H.. [9]. Smith Carlota S. (1997). The Parameter of Aspect. 2nd Edition. Kluwer Academic Publishers, Dordrecht. [10]. Tunde Nagy (2006). On the Semantics of Aspectualizers in English. www.nytud.hu/cescl/proceedings/Tunde_Nagy _CESCL.pdf [11]. Vendler Zeno (1957). Verbs and Times. The Philosophical Review. Vol.66. No.2. Cornell University.
File đính kèm:
- ngu_phap_ngu_nghia_cua_thoi_ngung.pdf