Những điều kiện tạo nên một sự hợp tác quốc tế có hiệu quả

TÓM TẮT

Thông qua việc nhìn lại lịch sử quá trình hợp tác giữa Đại học Joseph Fourier –

Cộng hòa Pháp với Việt Nam nói chung và với Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh nói riêng; bài viết này sẽ cố gắng làm rõ những điều kiện tạo nên một sự hợp tác

quốc tế có hiệu quả. Chúng tôi hi vọng kinh nghiệm có được qua chương trình hợp tác này

sẽ mang lại những yếu tố góp phần phát triển quan hệ hợp tác quốc tế của một trường đại

học trong mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và vị thế của Trường.

pdf 10 trang yennguyen 6480
Bạn đang xem tài liệu "Những điều kiện tạo nên một sự hợp tác quốc tế có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những điều kiện tạo nên một sự hợp tác quốc tế có hiệu quả

Những điều kiện tạo nên một sự hợp tác quốc tế có hiệu quả
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Claude Comiti và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
107 
NHỮNG ĐIỀU KIỆN 
 TẠO NÊN MỘT SỰ HỢP TÁC QUỐC TẾ CÓ HIỆU QUẢ 
CLAUDE COMITI*, 
LÊ THỊ HOÀI CHÂU ** 
TÓM TẮT 
Thông qua việc nhìn lại lịch sử quá trình hợp tác giữa Đại học Joseph Fourier – 
Cộng hòa Pháp với Việt Nam nói chung và với Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ 
Chí Minh nói riêng; bài viết này sẽ cố gắng làm rõ những điều kiện tạo nên một sự hợp tác 
quốc tế có hiệu quả. Chúng tôi hi vọng kinh nghiệm có được qua chương trình hợp tác này 
sẽ mang lại những yếu tố góp phần phát triển quan hệ hợp tác quốc tế của một trường đại 
học trong mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và vị thế của Trường. 
Từ khóa: hợp tác, điều kiện, hiệu quả, thành công. 
ABSTRACT 
Conditions for a successful international cooperation 
In reviewing the history of cooperation between the University Joseph Fourier - 
France and Vietnam, in general, and with Ho Chi Minh City University of Education, in 
particular; this article clarifies the conditions for an effective international cooperation. 
Hopefully, the experience gained through this cooperation will bring elements contributing 
to the development of international cooperation relations of a university, improving the 
training quality and status of the university. 
Keywords: cooperation, conditions, effective, successful. 
* PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: chaulth@hcmup.edu.vn 
** Laboratoire LIG, Université Joseph Fourier 
1. Mở đầu 
Quan hệ hợp tác giữa Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP 
TPHCM) và Đại học Josep Fourier (UJF) 
- nay là Đại học Grenoble Alpes (UGA) 
thuộc Cộng hòa Pháp, đã có từ hơn 20 
năm nay, góp phần không nhỏ vào thành 
tích đào tạo cũng như nghiên cứu khoa 
học của cả hai trường. 
Trong các mối quan hệ quốc tế của 
ĐHSP TPHCM, chương trình hợp tác với 
UJF được đánh giá như một ví dụ điển 
hình về sự thành công. Vài con số thống 
kê đầu tiên minh hoạ cho thành quả của 
sự hợp tác đó : 
- 11 tiến sĩ, trong đó có 7 giảng viên 
của ĐHSP TPHCM, đã bảo vệ luận án ở 
UJF; 
- 6 tiến sĩ đã bảo vệ luận án ở ĐHSP 
TPHCM dưới sự đồng hướng dẫn của các 
giảng viên Pháp và Việt Nam; 
- 15 khóa thạc sĩ ngành Lí luận và 
Phương pháp dạy học toán đã được đào 
tạo tại ĐHSP TPHCM, với chất lượng 
được đánh giá cao bởi đội ngũ giảng viên 
cũng như cộng đồng các nhà nghiên cứu; 
Ý kiến trao đổi Số 10(88) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
108 
- 5 hội thảo quốc tế đã được tổ chức 
nhờ sự tài trợ của nước bạn và của chính 
ĐHSP TPHCM, 5 dự án hợp tác nghiên 
cứu khoa học đã được thực hiện, 1 trang 
web viết bằng ba thứ tiếng Việt – Pháp – 
Anh được thiết lập, 1 cuốn sách song ngữ 
phục vụ cho đào tạo và nghiên cứu được 
xuất bản cùng với nhiều bài báo xuất hiện 
trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín ở 
trong và ngoài nước v.v. ... 
Lưu ý rằng quan hệ hợp tác trong 
nghiên cứu và đào tạo giáo viên giữa hai 
nước Pháp – Việt đã được chính thức 
khởi động từ năm 1987 ở miền Bắc và 
miền Trung, nhưng sau đó lại chỉ phát 
triển ở miền Nam, mà cụ thể là ở ĐHSP 
TPHCM. Nhờ đâu mà ĐHSP TPHCM 
đạt được thành công trong khi những 
trường đầu tiên tham gia chương trình 
hợp tác lại không tiếp tục phát triển được 
quan hệ với UJF? Qua bài viết này, 
chúng tôi sẽ chỉ ra một số yếu tố trả lời 
cho câu hỏi đó. Đặc biệt, từ việc nhìn lại 
lịch sử hình thành và phát triển quan hệ 
hợp tác giữa hai trường, chúng tôi sẽ chỉ 
ra những điều kiện để một chương trình 
hợp tác quốc tế được duy trì bền vững và 
đạt hiệu quả cao. 
2. Quá trình hình thành và phát 
triển quan hệ hợp tác 
 Giai đoạn 1. Hình thành quan hệ 
hợp tác 
Từ năm 1984, trong một dịp đến 
thăm Viện đào tạo giáo viên (Institution 
de Formation des Maîtres) của UJF, Viện 
trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt 
Nam thời ấy đã bày tỏ mong muốn có sự 
hợp tác nghiên cứu với Cộng hòa Pháp 
trong lĩnh vực dạy học và đào tạo giáo 
viên. Tuy nhiên, suốt 4 năm sau đó hầu 
như vẫn không có một chương trình hợp 
tác nào được thiết lập giữa các trường sư 
phạm của hai nước. Phải đợi đến 1989, 
khi vị Viện trưởng này giữ cương vị Bộ 
trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo, yêu cầu 
giúp đỡ cho công cuộc cải cách hệ thống 
giáo dục Việt Nam mà Ông đưa ra mới 
lôi cuốn được sự chú ý của Bộ Ngoại 
giao Pháp. Quan niệm rằng có thể tạo ra 
bước tiến mới cho cộng đồng Pháp ngữ, 
Bộ Ngoại giao Pháp đã xây dựng một kế 
hoạch hợp tác kéo dài nhiều năm (1990 – 
1995) với Việt Nam và hỗ trợ tài chính 
để thực hiện. 
Từ 1989 đến 1995, nhiều hoạt động 
được triển khai. Tất cả các hoạt động này 
đều liên quan đến việc nghiên cứu những 
hiện tượng nảy sinh từ thực tế dạy – học, 
mà về phía Pháp thì nơi chịu trách nhiệm 
là Viện đào tạo giáo viên của UJF. 
Trong những năm đầu, các chuyên 
gia của UJF sang Việt Nam, thực hiện 
một số đợt giảng dạy kéo dài 3 tuần, 
nhằm giới thiệu những kiến thức ban đầu 
về Didactic cho các nhà quản lí, nhà 
nghiên cứu, đặc biệt là cho đội ngũ giảng 
viên các Trường Đại học Sư phạm 
(ĐHSP) Hà nội, Vinh, Huế, Quy Nhơn, 
TPHCM. Chính hoạt động này là nguồn 
gốc cho việc kí kết một Thỏa ước giữa 
liên trường ĐHSP Việt Nam với UJF và 
Viện đại học đào tạo giáo viên (IUFM – 
Institution Universitaire de Formation des 
Maîtres) của Grenoble. 
Từ thỏa thuận đó đã hình thành một 
chương trình đào tạo tại Pháp dành cho 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Claude Comiti và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
109 
các trường ĐHSP của Việt Nam : qua 
những đợt giảng dạy kéo dài ba tuần, các 
chuyên gia của UJF chọn ra một số cán 
bộ đã tham gia học tập để giới thiệu với 
Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam. Nếu 
thành công trong kì thi tiếng do Đại sứ 
quán tổ chức, những cán bộ này sẽ nhận 
được học bổng 9 tháng của Bộ ngoại giao 
Pháp để sang Grenoble học tập. Tại 
Grenoble, họ theo học một số chuyên đề 
của IUFM và đồng thời hoàn thành khóa 
đào tạo DEA (Diplôme d’étude 
approfondie, loại bằng cấp tương đương 
với bằng thạc sĩ của Việt Nam) về 
Didactic các môn học. 
Khoảng hai chục giảng viên toán, 
tin, vật lí của các trường ĐHSP đã hoàn 
thành chương trình đào tạo này. Kết thúc 
giai đoạn đó, Hội thảo thứ nhất của các 
nước nói tiếng Pháp vùng Đông Nam Á 
về “Didactic các môn học và công tác 
đào tạo giáo viên” đã được tổ chức tại 
TPHCM vào năm 1995, với sự tham gia 
của trên 200 thành viên đến từ Lào, Căm-
pu-chia, Việt Nam, Pháp. Ba Đại sứ quán 
Pháp ở ba nước Đông Nam Á đã hỗ trợ 
tài chính cho hội thảo. 
Một trong những lí do để ĐHSP 
TPHCM được chọn làm đơn vị đăng cai 
tổ chức hội thảo là Hiệu trưởng nhà 
trường thời đó nhiệt thành bày tỏ ý muốn 
phát triển quan hệ hợp tác với UJF. 
Ở giai đoạn này ta có thể rút ra điều 
kiện thứ nhất của sự thành công: có 
chương trình hành động dài hạn được thể 
chế hóa, cho phép triển khai một pha tiên 
quyết theo mục đích hợp tác cùng được 
hai bên xác định. 
Trong trường hợp này, chương trình 
đó đã tạo nên sự thay đổi : quan hệ hợp 
tác không mang tính giúp đỡ một chiều 
mà là nhu cầu của cả hai bên đối tác. Cụ 
thể, chương trình nhắm đến sự tìm hiểu 
một mặt là của các nhà quản lí, nhà 
nghiên cứu Việt Nam về quy trình đào 
tạo giáo viên ở Pháp, về những công cụ lí 
thuyết cho phép xem xét hệ thống dạy 
học, mặt khác là của các chuyên gia 
didactic ở Grenoble về những điều kiện 
dạy học và đào tạo ở đất nước đối tác. 
Việc tìm hiểu song phương này đã tạo 
thuận lợi để cả yêu cầu lẫn hiệu quả giúp 
đỡ ngày càng được nâng cao. 
Một pha có tính quyết định như vậy 
đòi hỏi sự khiêm tốn ở cả hai phía : phía 
Việt Nam không ngại ngần bày tỏ những 
khiếm khuyết của hệ thống giáo dục, 
những nhu cầu, những khó khăn ; phía 
Pháp xác định rằng mục đích không phải 
là “xuất khẩu” những tri thức hoàn thiện 
mà là giúp đối tác tìm hiểu một số lí 
thuyết được hình thành qua các nghiên 
cứu ở nước ngoài, làm cho các lí thuyết 
đó thích nghi với hoàn cảnh của Việt 
Nam để chính đối tác có thể sử dụng nó 
vào nghiên cứu các vấn đề nảy sinh từ hệ 
thống giáo dục của họ. 
 Giai đoạn 2: Tiến tới xây dựng 
một êkip giảng viên đại học có trình độ 
cao trong Didactic Toán ở ĐHSP 
TPHCM 
Bối cảnh thay đổi và nhu cầu cũng 
nâng cao: Ngay từ những năm 1990, một 
số cuộc cải cách lớn đã làm nảy sinh nhu 
cầu về đội ngũ chuyên gia có khả năng 
phân tích, đánh giá hệ thống giáo dục 
Ý kiến trao đổi Số 10(88) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
110 
cũng như thiết kế các đồ án dạy học và 
đào tạo giáo viên. 
Yêu cầu hợp tác tiến lên một bước: 
vấn đề bây giờ là phải làm sao để giảng 
viên của các trường cao đẳng, ĐHSP đạt 
trình độ cao và được trang bị những công 
cụ không thể thiếu để đảm bảo trọng 
trách của họ trong lòng hệ thống giáo dục 
đất nước. 
Yêu cầu này liên quan đến nhiều 
nước đối tác của Việt Nam như Pháp, 
Canada, Australie, Singapour Nó 
không còn trực tiếp gắn liền với cộng 
đồng Pháp ngữ nữa. Trước tình hình đó, 
năm 1995 chính phủ Pháp quyết định 
ngừng tài trợ tài chính cho các chương 
trình hợp tác giáo dục để chuyển kinh phí 
sang cho AUPELF-UREF, tổ chức từ nay 
chịu trách nhiệm phát triển hệ song ngữ 
Pháp – Việt trong các trường đại học ở 
Đông Nam Á. Bối cảnh mới này đã làm 
cho chương trình hợp tác giữa các trường 
ĐHSP Việt Nam với UJF mất đi nguồn 
tài chính vốn được đặt trong kế hoạch 
của Bộ Ngoại giao Pháp. Tuy nhiên, một 
thành quả cần phải ghi nhận là phần lớn 
những cán bộ phụ trách hệ thống giảng 
dạy song ngữ Pháp – Việt tại các trường 
ĐHSP đều đã được đào tạo về Didactic ở 
UJF. 
Ý thức được sự cần thiết phải có 
một đội ngũ mạnh để đảm nhiệm trọng 
trách đào tạo nghề cho sinh viên, Trường 
ĐHSP TPHCM có chủ trương củng cố tổ 
phương pháp giảng dạy của các khoa. 
Nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa liên 
trường ĐHSP Việt Nam và UJF, trường 
đã chú ý đến việc xây dựng một êkip 
Didactic Toán. Chủ trương này được thể 
hiện qua việc tuyển dụng vị tiến sĩ đầu 
tiên về Didactic Toán được đào tạo ở 
Pháp, vốn là cán bộ giảng dạy của một 
trường ĐHSP khác, đồng thời đề nghị các 
chuyên gia của Viện Nghiên cứu Leibniz 
nhận làm đồng hướng dẫn khoa học cho 
hai giảng viên của trường đã có bằng 
DEA do UJF cấp: với sự tài trợ của UJF 
và vùng Rhône-Alpes, hai học bổng đã 
được dành cho họ làm luận án ở 
Grenoble. 
Điều kiện thứ hai đảm bảo cho sự 
thành công của quan hệ hợp tác quốc tế: 
thừa nhận và đánh giá đúng năng lực của 
đội ngũ cán bộ được đào tạo ở trình độ 
cao. 
 Giai đoạn 3. Cùng xây dựng dự án 
mới: mở tại Trường ĐHSP TPHCM một 
cơ sở đào tạo về Didactic Toán ở trình 
độ trên đại học 
Vào giai đoạn này quan hệ hợp tác 
được đặt trước hai nghịch thế. 
Trường ĐHSP TPHCM để hoàn 
thành trọng trách của trường sư phạm 
trọng điểm cần phải: đào tạo giáo viên 
cho các trường trung học phổ thông và 
một số trường cao đẳng, đại học; bồi 
dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên 
các tỉnh phía Nam; tham gia nghiên cứu 
những vấn đề nảy sinh từ thực tế trong 
bối cảnh thực hiện cuộc cải cách hệ thống 
giáo dục trên nhiều phương diện. 
UJF và Viện Nghiên cứu Leibniz 
thì lại bận tâm đến việc phát huy ảnh 
hưởng trên trường quốc tế, đồng thời 
cũng có nhiều tri thức, kĩ năng muốn 
được chia sẻ. Êkip Didactic Toán của 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Claude Comiti và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
111 
Leibniz đã tham gia vào chương trình 
hợp tác với Việt Nam ngay từ buổi khởi 
đầu, nay mong muốn tiến lên một bước 
mới nhằm mang lại những lợi ích mà 
theo họ là căn bản và quý giá, đồng thời 
kiểm chứng tính hữu hiệu của các công 
cụ lí thuyết ở một đất nước có nhiều sự 
lựa chọn khác với những gì đã được thực 
hiện trong lòng hệ thống giáo dục nước 
Pháp. 
Việc ba tiến sĩ đầu tiên về Didactic 
Toán do UJF đào tạo được nhóm lại 
thành một êkip làm việc tại ĐHSP 
TPHCM đã tạo điều kiện cho bước tiến 
quan trọng này của chương trình hợp tác. 
Thêm vào đó còn có sự trợ giúp nhiệt 
thành, bền bỉ của một số giảng viên công 
tác tại khoa Tiếng Pháp, đã bảo vệ luận 
án tiến sĩ ở Đại học Rouen và vẫn duy trì 
quan hệ hợp tác với trường đại học này. 
Kể từ đó một giai đoạn hợp tác mới 
bắt đầu : ĐHSP TPHCM xin phép Bộ mở 
mã số đào tạo thạc sĩ hai chuyên ngành 
Lí luận và Phương pháp dạy học Toán và 
tiếng Pháp. Trường trở thành cơ sở đào 
tạo thạc sĩ về các chuyên ngành này theo 
một chương trình hoàn toàn mới. Điều 
đáng nói là dù không còn bất cứ sự hỗ trợ 
tài chính nào của Bộ Ngoại giao Pháp, sự 
hợp tác vẫn được duy trì, dựa vào mong 
muốn kiên định của cả hai bên đối tác. 
Cụ thể là ĐHSP TPHCM trợ cấp tiền ở 
và phương tiện đi lại trong thành phố cho 
chuyên gia Pháp, còn Viện Nghiên cứu 
Leibniz thì tìm kinh phí từ mọi nguồn để 
có thể hỗ trợ tiền vé máy bay cho những 
chuyến công tác của các giảng viên Pháp 
– Việt. 
Dưới đây là những mốc quan trọng 
và một số kết quả chủ yếu của giai đoạn 
hợp tác này. 
 Tháng 9 năm 1999 : Hội thảo 
Didactic và Phương pháp giảng dạy với 
sự tham gia của Khoa Toán, Khoa Tiếng 
Pháp, Viện Nghiên cứu Leibniz, nhằm 
làm rõ những điểm chung cũng như sự 
khác biệt của hai trường phái khoa học, 
từ đó soạn thảo các chuyên đề thuộc phần 
chuyên ngành cho chương trình đào tạo 
thạc sĩ Lí luận và Phương pháp dạy học 
Toán tại ĐHSP TP HCM. Tính mới mẻ 
của chương trình nằm ở những lí thuyết 
được hình thành từ Pháp. Trong bài báo, 
để nói một cách ngắn gọn, chúng tôi đã 
và sẽ gọi Lí luận và Phương pháp dạy 
học theo trường phái hình thành từ Pháp 
là Didactic, đúng như cách gọi của cộng 
đồng nghiên cứu Pháp. Chương trình này 
được thừa nhận là tương đương với 
chương trình đào tạo thạc sĩ (trước đây là 
DEA, hiện nay là Master 2) của UJF về 
Didactic các môn khoa học. Điều đó cho 
phép những học viên biết tiếng Pháp và 
bảo vệ luận văn trước một hội đồng có sự 
tham gia của các chuyên gia Pháp có thể 
đăng kí làm luận án tại UJF (theo thỏa 
thuận kí kết giữa hai trường). 
 Tháng 9 năm 2000: tiếp nhận 
khóa thạc sĩ đầu tiên với 10 học viên, 
trong đó có 3 người biết tiếng Pháp. 
Trong hai năm đầu, 300 giờ dạy được các 
chuyên gia của Viện Nghiên cứu Leibniz 
đảm nhiệm, thực hiện qua 4 chuyến công 
tác, mỗi chuyến kéo dài 3 tuần. Giảng 
viên Việt Nam chịu trách nhiệm chuẩn bị 
tài liệu, dịch bài giảng cho những học 
Ý kiến trao đổi Số 10(88) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
112 
viên không biết tiếng Pháp, trợ giảng cho 
chuyên gia Pháp, đồng thời độc lập đảm 
nhiệm một số giờ dạy. Giữa các giảng 
viên Pháp và Việt thường xuyên có sự 
trao đổi về chuyên môn để hướng dẫn 
học viên làm luận văn tốt nghiệp. 
Sau khi hoàn thành khóa học, 3 học 
viên biết tiếng Pháp của khóa thạc sĩ đầu 
tiên đã nhận được học bổng sang UJF 
làm luận án tiến sĩ. 
Kể từ năm 2003, việc giảng dạy các 
chuyên đề thạc sĩ hoàn toàn do nhóm 
giảng viên Việt Nam được đào tạo ở UJF 
đảm nhiệm. 
 Tháng 6 năm 2005 : Hội thảo 
quốc tế lần thứ hai về Didactic và 
Phương pháp giảng dạy Toán đã được 
Khoa Toán - Tin Trường ĐHSP TPHCM 
tổ chức, với sự tham gia của hơn 100 nhà 
nghiên cứu, giảng viên các trường cao 
đẳng, đại học và giáo viên phổ thông. 
Nhiều nghiên cứu sinh theo học ở các cơ 
sở khác tỏ ra quan tâm đặc biệt đến 
những công cụ lí thuyết do Didactic cung 
cấp cho việc xem xét các vấn đề nảy sinh 
từ thực tiễn của hệ thống giáo dục. 
 Tháng 3 năm 2007 : Nhằm đáp 
ứng nhu cầu tìm hiểu Didactic của cộng 
đồng các nhà nghiên cứu Ngành Lí luận 
và Phương pháp dạy học toán, đồng thời 
phát huy ảnh hưởng của mình, ĐHSP 
TPHCM, thông qua Khoa Toán – Tin, đã 
tổ chức ở Đà Lạt Trường xuân Didactic 
Toán. Hơn bốn mươi nghiên cứu sinh và 
giảng viên trẻ đến từ khắp các miền Bắc, 
Trung, Nam đã tham dự. Êkip giảng viên 
Pháp – Việt chịu trách nhiệm về mặt 
khoa học trong chương trình đào tạo. 
Hơn thế, một trang web Didactic Toán 
viết bằng ba thứ tiếng Việt – Pháp – Anh 
được hình thành. 
 Đầu năm 2008 : ĐHSP TPHCM 
được Bộ Giáo dục - Đào tạo đồng ý cho 
mở mã số đào tạo Tiến sĩ chuyên Ngành 
Lí luận và Phương pháp dạy học Toán. 
Điều đó giúp cho những thạc sĩ không 
biết tiếng Pháp có thể tiếp tục nghiên cứu 
Didactic Toán ở cấp độ cao hơn. 
 Năm 2009 : Cuốn sách song ngữ 
Việt – Pháp Những yếu tố cơ sở của 
Didactic Toán (Eléments fondamentaux 
de didactique des mathématiques) được 
xuất bản và phổ biến trên toàn quốc. 
 Năm 2010, 2012 : Hội thảo quốc 
tế lần thứ ba, thứ tư về Didactic và 
Phương pháp giảng dạy Toán lại được 
Khoa Toán - Tin - ĐHSP TP HCM tổ 
chức. 
 Năm 2015 : Hội thảo lần thứ năm 
với quy mô tương tự được tổ chức ở Huế 
nhờ sự cộng tác giữa ĐHSP TPHCM, 
ĐHSP Huế và UJF. 
Các hội thảo là dịp để êkip giảng 
viên Pháp – Việt, nghiên cứu sinh, thạc sĩ 
báo cáo kết quả nghiên cứu được thực 
hiện trong khuôn khổ hợp tác. Uy tín và 
chất lượng đào tạo ngành Didactic Toán 
của ĐHSP TPHCM được nâng cao, lôi 
cuốn sự quan tâm của cộng đồng nghiên 
cứu lĩnh vực Lí luận và Phương pháp dạy 
học. 
 Tính đến tháng 7 năm 2016 : 11 
tiến sĩ đã bảo vệ luận án ở Pháp (với 10 
học bổng của bạn và 1 học bổng theo dự 
án 911 của Việt Nam). Bảy người trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Claude Comiti và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
113 
số đó là giảng viên của ĐHSP TPHCM. 
Những tiến sĩ còn lại, tuy không phải là 
giảng viên của Trường, nhưng cũng tham 
gia vào việc đào tạo sau đại học ngành Lí 
luận và Phương pháp dạy học Toán do 
Trường quản lí. 
Trong khuôn khổ đào tạo đó đã có 
15 khóa thạc sĩ với gần 200 học viên 
được cấp bằng. Hai tiến sĩ đã bảo vệ luận 
án dưới sự đồng hướng dẫn của các giảng 
viên Pháp – Việt. Bốn tiến sĩ còn lại đã 
làm việc với sự hướng dẫn của các giảng 
viên Việt Nam. Hiện nay êkip giảng viên 
Việt đang hướng dẫn thêm gần chục 
nghiên cứu sinh khác. 
Cần phải nói rằng, không chỉ phát 
huy ảnh hưởng ở miền Nam, chất lượng 
cũng như chương trình đào tạo của 
chuyên ngành Didactic Toán đã khiến 
không ít ứng viên ở miền Trung và miến 
Bắc bày tỏ ý muốn làm luận án tại ĐHSP 
TPHCM. Để đáp ứng nhu cầu thực tế 
ngày càng nhiều đó, ĐHSP TPHCM cần 
phải tăng cường hơn nữa lực lượng giảng 
viên có trình độ cao. 
 Một kết quả khác cũng cần phải 
được nêu lên: với mong muốn giúp 
ĐHSP TPHCM phát triển các tổ phương 
pháp giảng dạy khác, UJF nhận đào tạo 
một sinh viên tốt nghiệp hệ song ngữ của 
Khoa Vật lí. Nghiên cứu sinh này đã bảo 
vệ thành công luận án tiến sĩ Didactic Vật 
lí ở Grenoble. Vào tháng 10 năm 2006, 
một cán bộ trẻ của khoa Vật lí được sang 
Pháp học tập trong khuôn khổ hợp tác 
giữa hai trường. 
 Hợp tác nghiên cứu khoa học: 
10 học bổng cho các nghiên cứu sinh 
sang UJF học là do lãnh sự quán Pháp 
hoặc AUF cấp; ngoài ra, kinh phí của 5 
dự án nghiên cứu khoa học do phía bạn 
tài trợ đã tạo điều kiện cho 2 giảng viên 
của trường tiếp tục sang Pháp nghiên cứu 
sau khi đã bảo vệ luận án tiến sĩ. Hơn thế, 
nhờ vào đó mà đều đặn hàng năm các 
giảng viên Pháp có thể tiếp tục sang làm 
việc tại ĐHSP TPHCM. Đó là các dự án : 
- MIRA 2002-2004: Algorithmique 
et programmation dans l’enseignement 
des mathématiques à l’aide de la 
calculatrice : étude didactique pour la 
création d’un site Internet de formation 
des enseignants ; 
- DUO - France 2003 Integrating 
pocket calculators within mathematics 
teaching; 
- DUO - France 2005 Creation of an 
trilingual web site (french-vietnamese-
english) in didactics of mathematics; 
- MIRA 2008 Modélisation 
mathématique de phénomènes variables 
dans l'enseignement à l'aide de la 
géométrie dynamique ; 
- MIRA 2011-2012: L’enseignement 
des Statistiques et Probabilité dans la 
formation des médecins (có sự tham gia 
của Trường Đại học Y Dược TPHCM). 
Do về sau, phía bạn gặp khó khăn 
trong việc tìm nguồn tài trợ nên ĐHSP 
TPHCM đã đóng góp thêm một phần 
kinh phí để duy trì mối quan hệ hợp tác 
này. 
Nhìn lại giai đoạn này, có thể khẳng 
định điều kiện thứ ba của sự thành 
công: quan hệ hợp tác đạt nhiều thành 
quả như vậy là nhờ việc cùng nhau xây 
Ý kiến trao đổi Số 10(88) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
114 
dựng tuần tự các bước thực hiện sao cho 
phù hợp với bối cảnh, và nhờ sự kiên 
định duy trì mối quan hệ của cả hai bên. 
Đặc biệt, việc tự nhận trách nhiệm về 
một phần kinh phí của ĐHSP TPHCM đã 
giúp duy trì dài lâu mối quan hệ hợp tác. 
Trong khi đó, khi không còn sự tài 
trợ của Bộ Ngoại giao Pháp, các trường 
ĐHSP khác dần dần không còn trong 
chương trình hợp tác của UJF, dù trước 
đây họ từng là những đối tác có mặt 
trước so với ĐHSP TPHCM. 
Chủ trương kiên định của ĐHSP 
TPHCM được thực thi bởi các đơn vị cơ 
sở, ở đây Khoa Toán – Tin, Phòng Sau 
đại học đóng vai trò quan trọng. Lãnh 
đạo các đơn vị này luôn ủng hộ, tìm mọi 
cách để duy trì quan hệ một cách có hiệu 
quả. Đặc biệt, Khoa Toán – Tin đã đóng 
góp nhiều công sức vào các hoạt động 
hợp tác. Những cán bộ liên quan trực tiếp 
cũng đã làm việc với một tinh thần trách 
nhiệm cao. Đây là điều kiện thứ tư của 
sự thành công: những nhân tố đã được 
đào tạo tại Pháp cần tiếp tục hoạt động 
nghiên cứu khoa học tại Việt Nam và tình 
nguyện gánh những nhiệm vụ để duy trì 
và phát triển mối quan hệ hợp tác. 
3. Kết luận 
 Đánh giá chung về thành quả hợp 
tác 
Chương trình hợp tác với UJF (nay 
là UGA) ngày càng phát triển, góp phần 
quan trọng vào việc xây dựng đội ngũ 
cũng như phát huy ảnh hưởng của ĐHSP 
TPHCM. 
Thông qua chương trình đó, trong 
khoảng thời gian ngắn ĐHSP TPHCM đã 
có được một êkip mạnh, đáp ứng những 
điều kiện cho phép để mở mã số đào tạo 
thạc sĩ và sau đó là tiến sĩ chuyên ngành 
Lí luận và Phương pháp dạy học Toán. 
Đây là một nhân tố quan trọng đối với 
việc nâng cao chất lượng giáo dục đào 
tạo và vị thế của ĐHSP TPHCM. Nó đã 
thu hút được ngày càng nhiều giảng viên 
các trường đại học, cao đẳng sư phạm ; 
học viên; giáo viên phổ thông theo học 
chuyên ngành và đều thực sự cảm thấy 
bổ ích và say mê. Đó chính là động lực 
để một số giáo viên sau khi được đào tạo 
tại ĐHSP TPHCM đã chủ động nhóm lại 
với nhau, nhằm vận dụng những công cụ 
lí thuyết được trang bị vào nghiên cứu 
các vấn đề nảy sinh từ thực tiễn dạy học 
của chính bản thân cũng như của đồng 
nghiệp, hay tham gia vào những dự án 
lớn hơn do giảng viên ĐHSP TPHCM 
chủ trì. Như thế, thông qua đội ngũ thạc 
sĩ Lí luận và Phương pháp dạy học Toán 
do mình đào tạo, ĐHSP TPHCM đang 
góp phần tích cực vào công cuộc nâng 
cao chất lượng giáo dục. 
Việc chuyển giao công nghệ cho 
ĐHSP TPHCM đạt hiệu quả cao: Các 
giảng viên Việt Nam không chỉ làm chủ 
hoàn toàn chương trình đào tạo thạc sĩ 
mà còn chủ trì khá nhiều đề tài nghiên 
cứu cấp Bộ, là đồng hướng dẫn cho các 
nghiên cứu sinh được tiếp tục đào tạo tại 
UJF hoặc tại chính ĐHSP TPHCM; tham 
gia viết sách giáo khoa và được đánh giá 
cao trong đội ngũ tác giả Năng lực của 
họ được nuôi dưỡng, phát triển nhờ tiếp 
xúc thường xuyên với cộng đồng 
Didactic Pháp (qua những chuyến công 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Claude Comiti và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
115 
tác hàng năm ở Viện Nghiên cứu Leibniz 
và qua các trường hè Didactic Toán tổ 
chức ở Pháp). 
Sự hợp tác dài lâu này hoàn toàn 
không phải theo một chiều duy nhất. Nếu 
như quan hệ lúc khởi đầu là hỗ trợ của 
Pháp đối với Việt Nam, thì nay nó đã 
được chuyển thành sự cộng tác khoa học 
của hai êkip Pháp – Việt, bao gồm những 
nghiên cứu chung trên một số chủ đề 
đang được Việt Nam quan tâm, chẳng 
hạn như “khai thác công nghệ thông tin 
vào dạy học toán theo quan điểm tích 
hợp, liên môn, tích cực hóa hoạt động 
học tập của học sinh và gắn toán học với 
thực tiễn”. Hiện nay chủ đề nghiên cứu 
chung đang được phát triển theo một 
hướng còn ít được nghiên cứu ở Việt 
Nam, đó là dạy toán trong các trường đào 
tạo nghề, ví dụ như đại học y – dược, đại 
học kinh tế. 
Theo các chuyên gia Pháp, những 
năm tham gia giảng dạy và đồng hướng 
dẫn luận văn các khóa thạc sĩ cũng mang 
lại cho họ nhiều lợi ích: Việc đối chiếu sự 
lựa chọn của hai thể chế dạy học khác 
nhau (ở Việt Nam và Pháp) là cơ sở để 
các nhà nghiên cứu đặt ra một số câu hỏi 
về những kiến thức mới. Việc đồng 
hướng dẫn các luận án tiến sĩ đã dẫn họ 
đến chỗ triển khai một phương pháp luận 
nghiên cứu theo quan điểm so sánh. Điều 
đó giúp họ hiểu rõ hơn hệ thống giáo dục 
Việt Nam, đồng thời cũng bổ sung thêm 
kiến thức về hệ thống dạy học của Pháp. 
Những thành quả này góp phần làm 
phong phú thêm lí thuyết Didactic ra đời 
từ Pháp. 
Phía sau bao điều quý giá, tình bạn 
đã nảy sinh: Các chuyên gia Pháp xem 
Việt Nam như quê hương thứ hai của họ 
và lãnh đạo ĐHSP TPHCM cũng đã 
không ít lần phát biểu là Trường coi họ 
như giảng viên của Trường. 
 Triển vọng 
Nhiều yêu cầu mới đã phát sinh từ 
thực tế của giáo dục đại học Việt Nam 
những năm qua – một nền giáo dục khá 
phát triển về số lượng nhưng chưa đủ về 
chất lượng và còn có khoảng cách không 
nhỏ so với nhiều nước trong khu vực. 
Song song với cuộc cải cách đang thực 
hiện ở bậc phổ thông về quy trình đào 
tạo, nội dung, chương trình và phương 
pháp dạy học, không thể không cải tiến 
và hiện đại hóa nền giáo dục đại học. 
Các trường ĐHSP đứng trước 
những trọng trách nặng nề: Phải tự hoàn 
thiện mình để có thể đào tạo lớp lớp sinh 
viên đáp ứng được đòi hỏi của tương lai, 
đồng thời chịu trách nhiệm nâng cao trình 
độ cho đội ngũ giáo viên đang trực tiếp 
thực hiện công cuộc cải cách nền giáo 
dục phổ thông. Để làm được điều đó, 
trước hết những trường này phải có kế 
hoạch nâng cao trình độ giảng viên đại 
học, đặc biệt là đối với bộ môn Lí luận và 
Phương pháp dạy học. 
Ngoài những nhiệm vụ đó, ở vị trí 
một trường ĐHSP trọng điểm, Trường 
ĐHSP TPHCM còn phải giúp một số 
trường đại học, cao đẳng ở khu vực phía 
Nam nâng cao trình độ giảng viên. Ý 
thức được điều này, Khoa Toán-Tin 
Trường ĐHSP TPHCM đã và đang chú 
trọng củng cố tổ phương pháp dạy học 
Ý kiến trao đổi Số 10(88) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
116 
toán. Tổ còn giúp đỡ Trường ĐHSP Huế, 
Đại học Cần Thơ trong việc hướng dẫn 
luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, sau khi 
đã giảng dạy một số nội dung về Didactic 
Toán cho các lớp thạc sĩ của trường bạn, 
v.v. 
Cũng chính trong bối cảnh ấy mà 
Hội thảo Quốc tế lần thứ sáu về Didactic 
Toán đang được hai bên đối tác tích cực 
chuẩn bị để tổ chức vào năm 2017. Đồng 
thời, một dự án nghiên cứu mới về vấn đề 
dạy toán cho sinh viên các ngành y – 
dược và kinh tế đang được triển khai. 
Trong nội bộ ĐHSP TP HCM, mô hình 
hợp tác giữa Khoa Toán - Tin và UJF đã 
bắt đầu được mở rộng tại các Khoa Giáo 
dục Tiểu học, Công nghệ Thông tin. Hơn 
thế, những đề tài nghiên cứu đã thực hiện 
sẽ góp phần mang lại cơ sở lí luận và 
thực tiễn quan trọng cho lần thay đổi sách 
giáo khoa phổ thông sắp tới mà Việt Nam 
đang chuẩn bị. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bessot A., Comiti C. (2004) Some Comparative Studies between France and 
Vietnam curriculums, Mathematics Education in Different Cultural Traditions: A 
comparative study of East Asia and the West, Krugel Ed. 
2. Bessot A., Comiti, C. Lê Thị Hoài Châu, Lê Văn Tiến (2016), La tradiction 
didactique française dans une coopération entre la France et le Viet Nam, La 
tradiction didactique française au delà des frontières – Exemples de collaborations 
avec l’Afrique, l’Amérique latin et l’Asie, tr.125-139. 
3. Comiti C., Trần Văn Tấn., Birebent A., Bessot A. (2006) Comment créer les 
conditions d’une coopération réussie ? Une étude de cas. Actes électroniques du 
colloque international Espace Mathématique Francophone 2006, Sherbrooke, 
Canada. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 21-8-2016; ngày phản biện đánh giá: 12-9-2016; 
ngày chấp nhận đăng: 21-10-2016) 

File đính kèm:

  • pdfnhung_dieu_kien_tao_nen_mot_su_hop_tac_quoc_te_co_hieu_qua.pdf