Phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên trong dạy học kĩ thuật

Abstracts: The increasing development of science and technology requires people to constantly

learn by themselves and improve their knowledge. Therefore, equipping students with selflearning skills is very necessary. Also, developing the scientific research skills for students under

proper processes will train the skilled and qualified human resources that meet the requirements of

reality in current period. Based on general theoretical research, the paper proposes a framework

for scientific research skills of students and some measures to develop such skills in technical

instruction.

pdf 5 trang yennguyen 3760
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên trong dạy học kĩ thuật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên trong dạy học kĩ thuật

Phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên trong dạy học kĩ thuật
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 244-248 
244 
PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN 
TRONG DẠY HỌC KĨ THUẬT 
Nguyễn Thị Thu Hồng - Phạm Hồng Khoa 
Trường Đại học Hải Phòng 
Ngày nhận bài: 21/05/2018; ngày sửa chữa: 22/05/2018; ngày duyệt đăng: 25/05/2018. 
Abstracts: The increasing development of science and technology requires people to constantly 
learn by themselves and improve their knowledge. Therefore, equipping students with self-
learning skills is very necessary. Also, developing the scientific research skills for students under 
proper processes will train the skilled and qualified human resources that meet the requirements of 
reality in current period. Based on general theoretical research, the paper proposes a framework 
for scientific research skills of students and some measures to develop such skills in technical 
instruction. 
Keywords: Scientific research skills, technical instruction. 
1. Mở đầu 
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị 
Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD-
ĐT đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp 
dạy và học theo hướng khắc phục lối truyền thụ áp đặt 
một chiều, ghi nhớ máy móc; phát huy tính tích cực, chủ 
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người 
học, tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học, theo 
phương châm “giảng ít, học nhiều”. Chuyển quá trình 
đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Bồi dưỡng khát vọng 
học tập suốt đời” [1]. 
Trong xu thế hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa 
học kĩ thuật đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng nguồn 
nhân lực của xã hội. Điều đó dẫn đến sự cần thiết phải phát 
triển kĩ năng (KN) nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh 
viên (SV), giúp các em có thể độc lập nghiên cứu suốt đời. 
Hiện nay, đổi mới các tiếp cận trong giáo dục đại học, đổi 
mới nội dung và phương pháp dạy học, đổi mới hình thức 
dạy học và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả 
học tập là yêu cầu cần thiết và cấp thiết. Trong đó, phát 
triển KN NCKH của SV với những quy trình và biện pháp 
đúng đắn sẽ tạo ra được nguồn nhân lực có chất lượng, đáp 
ứng các yêu cầu nghề nghiệp. 
Đặc trưng cơ bản nhất của dạy học kĩ thuật là tính ứng 
dụng, nâng cao năng lực vận dụng, năng lực hành động 
độc lập, sáng tạo của người học tùy theo từng môn học, 
ngành học, cấp học; trong quá trình dạy học phải giúp cho 
người học liên kết các kiến thức đã học để giải quyết các 
tình huống kĩ thuật. Do đó, trong dạy học kĩ thuật việc phát 
triển KN NCKH cho SV lại càng cần thiết. 
Trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu lí 
luận như phân tích, tổng hợp, so sánh các tài liệu có liên 
quan, bài viết xác định một số các khái niệm, khung KN 
NCKH của SV và một số biện pháp phát triển KN 
NCKH của SV trong dạy học kĩ thuật. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Một số khái niệm cơ bản 
2.1.1. Kĩ năng 
Tùy vào cách tiếp cận, có nhiều cách định nghĩa khác 
nhau về KN. Theo chúng tôi, có thể hiểu KN là quá trình 
thực hiện thành thạo và có kết quả một hành động, một 
công việc nào đó để đạt mục đích đã xác định bằng cách 
vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có phù 
hợp với hoàn cảnh và điều kiện nhất định. Như vậy, KN 
là một quá trình tâm lí, được hình thành khi con người áp 
dụng kiến thức vào thực tiễn. KN có được do quá trình 
lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định 
nào đó. KN theo nghĩa hẹp để chỉ những thao tác, hành 
động của con người; KN hiểu theo nghĩa rộng hướng 
nhiều đến khả năng, đến năng lực của con người. 
2.1.2. Kĩ năng nghiên cứu khoa học 
Qua nghiên cứu, có thể hiểu KN NCKH là hành động 
được thực hiện thành thạo và có kết quả các thao tác, 
hành động NCKH trên cơ sở nắm vững các quan điểm 
phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp và 
kĩ thuật nghiên cứu, trong những điều kiện nhất định 
nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã định. 
Khái niệm này cho thấy KN NCKH thuộc nhóm KN 
chung, bao gồm một tổ hợp các thao tác nghiên cứu 
nhưng không chỉ đơn thuần về mặt kĩ thuật của hành 
động mà đặc biệt chú trọng tới kết quả của hoạt động 
nghiên cứu. KN NCKH là một KN tổng hợp, một hệ 
thống phức tạp, nhiều thành phần. Các KN là điều kiện 
thiết yếu để thực hiện thành công các công trình NCKH. 
KN NCKH có thể tác động được và đánh giá được. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 244-248 
245 
2.1.3. Phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh 
viên trong dạy học kĩ thuật 
Có quan niệm cho rằng, đào tạo chỉ là để hình thành 
KN, còn phát triển KN là giai đoạn sau đó, giúp người 
học nâng cao trình độ nghề nghiệp. Theo quan niệm này, 
đào tạo được hiểu là một quá trình, phát triển KN là một 
quá trình riêng biệt. Tuy nhiên, theo quan niệm triết học, 
phát triển KN nếu chỉ tính trong giai đoạn người học đã 
tham gia lao động sản xuất thì không đầy đủ, thiếu đi tính 
vận động, phát triển. 
Do vậy, có thể hiểu phát triển KN NCKH của SV 
trong dạy học kĩ thuật là quá trình hình thành, nâng cao 
khả năng thực hiện công việc NCKH của SV trong một 
thời gian thích hợp, với các điều kiện nhất định, trên cơ 
sở sự tích hợp nhuần nhuyễn các kiến thức, KN, thái độ. 
Phát triển KN NCKH trong dạy học kĩ thuật là phát 
triển cả hệ thống đào tạo nghề nghiệp thể hiện từ đường 
lối, quan điểm đến cơ sở vật chất của cơ sở đào tạo, đội 
ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình nhưng tập trung 
vào người học trong quá trình đào tạo. 
2.2. Ý nghĩa phát triển kĩ năng nghiên cứu khoa học 
của sinh viên trong dạy học kĩ thuật 
Thực hiện NCKH được đánh giá là phương pháp hiệu 
quả để SV mở rộng vốn kiến thức cũng như vốn KN mềm 
của bản thân; là cơ hội để SV áp dụng những kiến thức lí 
thuyết đã học vào việc giải quyết những vấn đề thực tiễn. 
Tuy nhiên, đa số SV hiện nay lại chưa nhận thức được tầm 
quan trọng của NCKH, do đó chưa thực sự có sự hứng thú, 
say mê, đầu tư đúng mức vào hoạt động này. 
Phát triển KN NCKH của SV có thể được thực hiện 
bằng nhiều hình thức khác nhau như: thực hiện qua dạy 
học các bộ môn, viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm khóa 
luận tốt nghiệp, hay thực hiện những NCKH ở cấp khoa, 
trường... Hoạt động NCKH của SV được thực hiện nhằm 
ba mục đích: góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; tiếp 
cận và vận dụng các phương pháp NCKH; giải quyết một 
số vấn đề khoa học và thực tiễn. 
Khi tiến hành phát triển KN NCKH, SV sẽ có điều 
kiện để tiếp cận với các đề tài ở quy mô nhỏ; cùng với sự 
hướng dẫn của GV, SV sẽ bắt đầu định hình được cách 
thức, quy trình để thực hiện một công trình NCKH chất 
lượng, hiệu quả. Không chỉ vậy, hoạt động NCKH còn 
góp phần phát huy tính năng động, sáng tạo; khả năng tư 
duy độc lập, tự học hỏi của SV. Đối với mỗi SV, những 
KN này không chỉ quan trọng trong thời gian học tập mà 
còn theo họ trong suốt thời gian làm việc sau này. Do đó, 
việc trau dồi và phát huy những KN này là yêu cầu được 
đặt ra hết sức cấp thiết với SV. 
NCKH thực sự cần thiết cho SV kĩ thuật. Lĩnh vực kĩ 
thuật là một hệ thống rộng lớn và có mối quan hệ tương 
quan với nhau. Việc giảng dạy kĩ thuật có hiệu quả không 
thể đặt cơ sở trên việc “ghi nhớ” hay “tính toán kĩ thuật” 
đơn thuần. Điều cốt yếu là ở chỗ SV kĩ thuật phải phát 
triển được các KN và tâm thế tư duy phản biện phổ quát 
cho việc lập luận chuyên nghiệp và hiệu quả xuyên suốt 
các vấn đề và các câu hỏi kĩ thuật phức hợp mà họ sẽ đối 
mặt với vai trò là các kĩ sư. 
2.3. Khung kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên 
trong dạy học kĩ thuật 
2.3.1. Cơ sở của việc xây dựng khung kĩ năng 
- Bản chất hoạt động học của SV 
+ Quá trình học tập, nhất là học tập của SV có khá 
nhiều điểm tương đồng với quá trình NCKH của nhà 
khoa học. Nhà khoa học nghiên cứu khi nảy sinh ý tưởng 
mới hoặc được giao nhiệm vụ, còn SV thường nghiên 
cứu khi được giao nhiệm vụ nhận thức. Hoạt động học 
tập hay NCKH thường được tiến hành qua các khâu phát 
hiện vấn đề hoặc nhận nhiệm vụ, xây dựng kế hoạch, tổ 
chức thực hiện và ứng dụng kết quả. 
+ Có thể coi nhiệm vụ nhận thức, nhiệm vụ học tập 
có nhiều nét tương đồng với một đề tài nghiên cứu mà 
người học phải thực hiện và sau khi hoàn thành, người 
học vừa có được tri thức mới vừa có được phương pháp 
nhận thức tri thức đó. Vì thế, khi tổ chức DH cho SV theo 
hướng NCKH sẽ mang lại nhiều ích lợi, nhất là trong bối 
cảnh khi mà người lao động cần phải “học tập suốt đời”. 
- Năng lực CDIO 
+ CDIO (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Conceive - 
Design - Implement - Operate) có nghĩa là hình thành ý 
tưởng, thiết kế, triển khai và vận hành. Đây là các năng 
lực cơ bản, tố chất mong muốn có được của SV tốt 
nghiệp các chương trình đào tạo kĩ thuật. 
+ CDIO là một hệ thống phương pháp phát triển 
chương trình đào tạo ngành kĩ sư, nhưng về bản chất đây 
là một quy trình xây dựng và phát triển CTĐT chuẩn, căn 
cứ đầu ra để thiết kế đầu vào. Quy trình này được xây 
dựng đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn hợp lí, chặt 
chẽ. Do đó, về tổng thể, phương pháp này mang tính tổng 
quát, có thể áp dụng để xây dựng quy trình chuẩn cho 
nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau ngoài ngành kĩ sư với 
những điều chỉnh bổ sung, cần thiết. 
+ Theo cách tiếp cận này thì việc thiết kế các khối 
kiến thức, KN đào tạo phải nhằm vào 4 năng lực cốt lõi 
cần thiết của SV tốt nghiệp, đó là: Hình thành ý tưởng - 
Thiết kế - Triển khai - Vận hành sản phẩm, hệ thống, quy 
trình đối với đối tượng nghề nghiệp; phù hợp với bối 
cảnh của xã hội, được tích hợp trong chương trình khóa 
học, chương trình môn học. 
- Đặc điểm NCKH của SV 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 244-248 
246 
NCKH của SV nằm ngay trong hoạt động đào tạo của 
các trường. Nó bắt nguồn từ những việc nhỏ như SV tự 
tìm đọc tài liệu, các công trình nghiên cứu trên các tạp 
chí khoa học, trao đổi với nhau (và với giảng viên) ở các 
diễn đàn chính thức và không chính thức đến việc thực 
hiện các đồ án môn học, luận văn tốt nghiệp hay cao hơn 
là các đề tài nghiên cứu độc lập. Để làm được những 
công việc đó, SV cần có kiến thức, KN cốt lõi về chuyên 
ngành; các kiến thức về phương pháp luận NCKH. 
2.3.2. Khung kĩ năng nghiên cứu khoa học của sinh viên 
Căn cứ vào đặc điểm của KN, bản chất hoạt động học 
tập của SV; căn cứ vào công việc nhiệm vụ của hoạt động 
NCKH, năng lực của SV kĩ thuật (theo CDIO), có thể 
xác định KN NCKH của SV ngành kĩ thuật bao gồm 9 
nhóm KN chính, chia thành 25 tiểu KN thành phần, thể 
hiện qua bảng 1: 
Bảng 1. Khung KN NCKH của SV 
STT 
Kĩ 
năng 
Các tiểu kĩ năng thành phần 
1 
Kĩ năng thu thập và xử lí thông tin 
1 
Tìm thư mục, chọn sách, đọc sách, ghi 
chép (tìm từ khóa liên quan đến đề tài) 
2 Đọc nhanh, tìm ý 
3 Lập danh mục tài liệu tham khảo. 
4 Phân tích, đánh giá nội dung 
5 Tổng quan tài liệu nghiên cứu 
2 
Kĩ năng hình thành ý tưởng nghiên cứu 
6 Phát hiện vấn đề KH cần nghiên cứu 
7 Hình thành ý tưởng khoa học 
3 
Kĩ năng xây dựng đề cương nghiên cứu 
8 Hình thành giả thuyết khoa học 
9 Lập kế hoạch NC 
10 Tự kiểm tra, điều chỉnh kế hoạch 
4 
Kĩ năng tư duy giải quyết vấn đề 
11 Áp dụng các phương pháp NC cụ thể 
12 Lựa chọn và thực thi giải pháp 
5 
Kĩ năng thiết kế mô hình sản phẩm ứng dụng 
13 Thiết kế sơ bộ 
14 Thiết kế chi tiết 
6 
Kĩ năng tổ chức thực nghiệm và xử lí kết quả thực 
nghiệm 
15 Lập quy trình thực nghiệm 
16 Thiết kế bộ công cụ thực nghiệm 
17 Chế tạo thử mô hình 
18 Vận hành thử sản phẩm 
7 
Kĩ năng làm việc nhóm 
19 Hình thành và phát triển nhóm 
20 Tổ chức công việc 
21 
Giao tiếp giữa các thành viên trong 
nhóm 
8 
Kĩ năng xây dựng báo cáo khoa học 
22 
Sắp xếp và thể hiện kết quả nghiên 
cứu 
23 Thuyết trình kết quả nghiên cứu 
9 
Kĩ năng kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu 
24 Thiết kế công cụ đánh giá kết quả NC 
25 
Tự đánh giá; đánh giá nhận xét của tập 
thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so 
sánh với mục tiêu đặt ra ban đầu 
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình rèn luyện kĩ 
năng nghiên cứu khoa học của sinh viên 
2.4.1. Chương trình đào tạo sinh viên kĩ thuật 
Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, 
khối lượng tri thức ngày càng lớn, trong khi đó, thời gian 
đào tạo không tăng, chương trình đào tạo còn đang thay 
đổi và hoàn thiện nên đòi hỏi người học phải tăng cường 
tự học, tự nghiên cứu. 
2.4.2. Năng lực của giảng viên 
- Năng lực của giảng viên (GV) gồm ba thành phần 
chính: 
+ Thành phần thứ nhất là kĩ năng giảng dạy của GV 
bao gồm kiến thức của GV về môn học, khả năng truyền 
đạt và mức độ đầu tư của GV cho môn học. 
+ Thành phần thứ hai thể hiện cách thức tổ chức môn 
học. Có nhiều cách thức để tổ chức giảng dạy môn học 
như dạy học theo lớp, dạy học theo nhóm, dạy học cá 
nhân, dạy học trải nghiệm,... Tùy vào trình độ của SV, 
KN NCKH định phát triển cho SV, điều kiện học tập mà 
GV sẽ lựa chọn cách thức cho phù hợp. 
+ Thành phần thứ ba phản ánh mức độ kích thích 
tương tác giữa GV với SV. 
Năng lực của GV đóng vai trò quan trọng trong giảng 
dạy và nghiên cứu giúp SV hiểu biết được giá trị và lợi ích 
của việc học tập, NCKH của họ. Từ đó sẽ làm gia tăng sự 
thích thú của SV trong quá trình học tập, nghiên cứu, nghĩa 
là gia tăng động cơ và kiến thức thu nhận của SV. 
GV có thể định hướng cho SV ngay trong quá trình 
giảng dạy. Bằng nội dung môn học, bằng việc sử dụng 
các phương pháp dạy học tích cực, bằng các hoạt động 
khoa học trong và ngoài trường..., GV có thể giúp SV 
tiếp cận với NCKH. Việc giảng dạy nêu vấn đề tạo cho 
SV ý muốn tìm tòi chân lí, hướng các em tới phân tích, 
phê phán, làm sáng tỏ một cách độc lập các nội dung 
khoa học. GV cần khuyến khích và tạo điều kiện để SV 
tiếp cận các nguồn thông tin nghiên cứu mới ở thư viện, 
Internet..., giao các bài tập có tính chất nghiên cứu cho 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 244-248 
247 
cá nhân cũng như cho nhóm SV; tổ chức cho SV tự tìm 
đọc tài liệu. Đó là những cách thức hiệu quả nhằm định 
hướng, góp phần hình thành lòng say mê, ham muốn 
NCKH trong SV. 
2.4.3. Nhận thức của sinh viên 
- Ý thức học tập và động cơ nhận thức của bản thân SV 
Ý thức học tập và động cơ nhận thức có ý nghĩa quyết 
định trong quá trình hình thành và phát triển năng lực 
nghiên cứu của SV. Vì xét cho cùng chất lượng học tập 
phải là kết quả trực tiếp của sự nỗ lực của chính bản thân 
người học. Nếu người học không xác định được vai trò 
quyết định của mình trong sự thành bại của sự học, thì 
không bao giờ tự nghiên cứu thành công. Chỉ khi đã xác 
định được mục đích và động cơ học tập đúng đắn SV mới 
có thể phát huy được “nội lực” trong học tập, từ đó kết 
hợp các yếu tố “ngoại lực” khác để tổ chức các hoạt động 
học tập diễn ra một cách hợp lí và thu được kết quả cao. 
- Vốn tri thức hiện có của bản thân SV 
Hầu hết các môn học đều được sắp xếp theo dạng 
phát triển, những tri thức sau được xây dựng trên những 
cơ sở của tri thức đã có trước. Để chiếm lĩnh các tri thức 
khoa học nói chung, người học cũng như người trèo 
thang không qua nấc thang thấp thì không thể tiến lên nấc 
cao hơn. Để nghiên cứu có hiệu quả thì người học phải 
tự trang bị cho mình vốn kiến thức tối thiểu để tự nghiên 
cứu vấn đề mình quan tâm. 
- Năng lực trí tuệ và phương pháp tư duy 
+ Năng lực trí tuệ: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
đến khả năng nắm bắt tri thức khoa học nhanh hay chậm 
của mỗi SV. 
+ Phương pháp tư duy: Khả năng vận dụng các thao 
tác tư duy cũng là một yếu tố có ảnh hưởng lớn đến KN 
NCKH của SV. 
Ngoài ra, trong quá trình học tập việc tiếp thu tri thức, 
kết quả học tập của SV tùy thuộc phần lớn vào tính chất 
và cơ cấu của tư duy tích cực của SV. Tri thức là kết quả 
của tư duy, đồng thời lại là những điều kiện, phương tiện 
của tư duy. Vì vậy, tăng cường khả năng tư duy là một 
yêu cầu để nâng cao chất lượng học tập và nghiên cứu. 
- Phương pháp học tập của SV 
Mỗi người có một phương pháp làm việc riêng, thói 
quen hoạt động trí óc riêng, không giống nhau. Vì vậy, 
trong quá trình dạy học, GV không nên ép buộc SV phải 
suy nghĩ theo thói quen suy nghĩ của mình. Mặt khác, 
GV cần chú ý bồi dưỡng phát triển các thói quen chưa có 
cũng như còn yếu của SV, từ đó cũng góp phần hình 
thành phương pháp học tập, kĩ năng nghiên cứu cho họ. 
2.4.4. Môi trường và điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho 
hoạt động nghiên cứu của sinh viên 
Trong quá trình dạy học, SV còn chịu ảnh hưởng của 
môi trường xung quanh, đó là các yếu tố về tâm lí, điều 
kiện dạy học, điều kiện văn hóa xã hội.... Các yếu tố này 
có ảnh hưởng rất lớn, vì nó tác động không những đến 
người học, mà cả người dạy học. 
Cơ sở vật chất cho hoạt động nghiên cứu là thư viện, 
Internet, môi trường nghiên cứu và kinh phí. Đây là 
những điều kiện không thể thiếu cho hoạt động nghiên 
cứu, là động lực khuyến khích SV hứng thú, say mê với 
hoạt động nghiên cứu hơn. 
2.5. Đề xuất các biện pháp phát triển kĩ năng nghiên 
cứu khoa học của sinh viên trong dạy học kĩ thuật 
Dưới góc độ là một giảng viên, tác giả đề xuất một số 
biện pháp có thể tác động trong quá trình dạy học nhằm 
phát triển KN NCKH của SV. Các biện pháp đề xuất 
chính là các phương pháp dạy học tích cực, có mối liên 
hệ với nhau và tác động đồng thời vào các kĩ năng/tiểu kĩ 
năng NCKH của SV trong dạy học các học phần trong 
chương trình đào tạo. 
- Biện pháp 1: Tăng cường vận dụng dạy học theo 
hình thức seminar 
Seminar là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở 
trường đại học, trong đó SV thảo luận các vấn đề khoa 
học đã tự tìm hiểu, dưới sự hướng dẫn của một GV am 
hiểu về lĩnh vực đó. Seminar là cơ hội tốt để rèn luyện 
cho SV một số KN: lập danh mục tài liệu tham khảo, 
phân tích tài liệu, áp dụng các phương pháp nghiên cứu... 
Trong seminar, tính tích cực của SV được phát huy, 
SV được nghiên cứu tài liệu một cách khoa học, biết phân 
tích phê phán những ý kiến khác nhau trước một chủ đề 
nêu ra, biết lập luận để bảo vệ ý kiến của mình trước tập 
thể, có thể suy nghĩ về một vấn đề dưới nhiều góc độ, 
làm nảy sinh các thắc mắc, kích thích sự tìm tòi sâu sắc. 
- Biện pháp 2: Vận dụng phương pháp dạy học giải 
quyết vấn đề dạy SV phương pháp giải quyết một vấn đề 
khoa học 
Nghiên cứu nội dung dạy học kĩ thuật, kết hợp thực 
tiễn để xây dựng các chủ đề, vấn đề (một kiểu đề tài nhỏ) 
giao cho SV tự đọc sách, tự nghiên cứu tìm hiểu kiến 
thức rồi vận dụng kiến thức để giải quyết chủ đề, vấn đề 
đó. Qua đó, giúp người học vừa nắm được nội dung dạy 
học vừa có năng lực nghiên cứu. 
- Biện pháp 3: Dạy học theo định hướng nghiên cứu 
khoa học 
Bản chất của dạy học theo định hướng NCKH là tổ 
chức quá trình người học lĩnh hội nội dung dạy học theo 
logic NCKH. Trong hướng dạy học này, dưới sự tổ chức, 
hướng dẫn và cố vấn của người dạy, người học tự mình 
phát hiện, biểu đạt vấn đề thuộc các lĩnh vực tri thức khác 
nhau, vạch hướng giải quyết, thiết kế các nghiên cứu lí 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 244-248 
248 
luận hay thực tiễn để giải quyết vấn đề; và trên cơ sở vấn 
đề được giải quyết, người học nêu hay phát hiện những 
vấn đề mới. 
- Biện pháp 4: Vận dụng phương pháp dạy học theo 
dự án để dạy SV phương pháp nghiên cứu triển khai 
Dạy học theo dự án (DHDA) là một phương pháp dạy 
học, trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập 
phức hợp, có sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, có 
tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ này được 
người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá 
trình học tập. Từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, 
đến việc thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá 
quá trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình 
thức cơ bản của DHDA. 
Đặc trưng cơ bản của DHDA: người học là “trung 
tâm” của quá trình dạy học; tập trung vào những mục tiêu 
học tập quan trọng gắn với các chuẩn; định hướng theo 
bộ câu hỏi khung chương trình; đòi hỏi các hình thức 
đánh giá đa dạng và thường xuyên; có tính liên hệ với 
thực tế; người học thể hiện sự hiểu biết của mình thông 
qua sản phẩm và quá trình thực hiện; công nghệ hiện đại 
hỗ trợ và thúc đẩy việc học của người học; KN tư duy là 
yếu tố không thể thiếu trong DHDA. 
- Biện pháp 5: Hướng dẫn SV làm bài tập lớn 
Nội dung chính của biện pháp này là GV hướng dẫn 
SV thực hiện các bài tập môn học, đề tài môn học, đồ án 
môn học, đề tài NCKH SV (do khoa, trường tổ chức), đồ 
án tốt nghiệp. 
Kiến thức của một môn học sẽ được SV nhận thức 
thông qua nhiều con đường khác nhau: đọc giáo trình 
được GV cung cấp, bài giảng lí thuyết, thực hành, tài liệu 
tham khảo và kiến thức trên Internet. Với mỗi phương 
pháp, SV thu nhận một mặt khác nhau của môn học, 
thậm chí khá rời rạc, thụ động. Do đó, các bài tập lớn là 
cơ hội tốt để SV luyện tập, củng cố KN, đào sâu suy nghĩ 
cũng như tiếp cận những kiến thức mới. 
- Biện pháp 6: Tổ chức các chuyên đề liên quan tới 
chuyên ngành kĩ thuật, liên hệ thực tiễn nghề nghiệp 
SV ngành kĩ thuật có đặc thù là phải có các KN nghề 
nghiệp để đáp ứng yêu cầu của người lao động nên cần 
tổ chức các chuyên đề liên quan tới chuyên ngành kĩ 
thuật; mời các doanh nghiệp tới nói chuyện để SV biết 
mình cần có những kiến thức và KN nào để đáp ứng yêu 
cầu của nghề nghiệp; đưa SV tìm hiểu thực tế tại các nhà 
máy, xí nghiệp sản xuất (thực tế có mục đích, có nội 
dung) để họ tập phát hiện những đề tài có thể nghiên cứu 
và một số cách giải quyết vấn đề trong thực tiễn. 
3. Kết luận 
KN NCKH là cách thức hoạt động của người học 
trong quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành KN, tìm tòi 
tri thức mới. Nếu SV rèn luyện được thói quen, phương 
pháp, KN NCKH thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi 
dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người, qua đó kết quả 
học tập được tăng lên, thích ứng quá trình học tập của trò 
và phương pháp dạy học của thầy. 
Có thể thấy mục tiêu quan trọng nhất của quá trình 
dạy và học là tư duy như lời của Cố Thủ tướng Phạm 
Văn Đồng: điều chủ yếu không phải là nhồi nhét một mớ 
kiến thức hỗn độn... mà là phương pháp suy nghĩ, 
phương pháp nghiên cứu, phương pháp học tập, phương 
pháp giải quyết vấn đề. Do đó, trong quá trình dạy học, 
giảng viên cần khéo léo sử dụng các phương pháp dạy 
học để phát triển KN NCKH cho SV, giúp các em có khả 
năng độc lập nghiên cứu suốt đời. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản 
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế. 
[2] Vũ Cao Đàm (2012). Giáo trình Phương pháp luận 
nghiên cứu khoa học. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[3] Trần Khánh Đức (2014). Giáo dục và phát triển 
nhân lực trong thế kỉ XXI. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[4] Trần Bá Hoành (2010). Đổi mới phương pháp dạy 
học, chương trình và sách giáo khoa. NXB Đại học 
Sư phạm. 
[5] Phạm Viết Vượng (2001). Phương pháp luận nghiên 
cứu khoa học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[6] Nguyễn Thị Thu Hồng (2017). Dạy học theo định 
hướng nghiên cứu khoa học cho sinh viên kĩ thuật. 
Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 7, tr 76-79. 
[7] Hồ Tiến Nhựt - Đoàn Thị Minh Trinh (2010). Cải 
cách và xây dựng chương trình đào tạo kĩ thuật theo 
phương pháp tiếp cận CDIO. NXB Đại học Quốc 
gia TP. Hồ Chí Minh. 
[8] Nguyễn Cảnh Toàn (2001). Tuyển tập tác phẩm tự 
giáo dục, tự học, tự nghiên cứu (tập 2). NXB Đại 
học Sư phạm. 
[9] Nguyễn Văn Tuấn (2012). Phương pháp dạy học 
chuyên ngành kĩ thuật. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[10] Thái Duy Tuyên (2001). Giáo dục học hiện đại. 
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[11] Richard Paul - Robert Niewoehner - Linda Elder 
(2016). Cẩm nang tư duy kĩ thuật. NXB Tổng hợp 
TP. Hồ Chí Minh.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_ki_nang_nghien_cuu_khoa_hoc_cua_sinh_vien_trong_d.pdf