Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)
TÓM TẮT:
Chúng tôi vận dụng lý thuyết sinh thái văn
hóa (cultural ecology) để tìm hiểu sự thích nghi
của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi
trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ.
Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là quá trình
thích ứng giữa môi trường xã hội của một tộc
người với môi trường tự nhiên xung quanh.
Thông qua sự nhận thức hợp lý về môi trường
sinh thái tự nhiên, con người quyết định
phương thức sản xuất và lựa chọn hình thức
cư trú, hành vi ứng xử nhất định với thế giới tự
nhiên. Nhà nhân học Mỹ Julian H. Steward
dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành vi
văn hoá của con người đối với môi trường tự
nhiên. Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi
khảo sát những loại hình kinh tế biển, đảo và
tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt
Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 146 Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology) Phan Thị Yến Tuyết Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM TÓM TẮT: Chúng tôi vận dụng lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology) để tìm hiểu sự thích nghi của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ. Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là quá trình thích ứng giữa môi trường xã hội của một tộc người với môi trường tự nhiên xung quanh. Thông qua sự nhận thức hợp lý về môi trường sinh thái tự nhiên, con người quyết định phương thức sản xuất và lựa chọn hình thức cư trú, hành vi ứng xử nhất định với thế giới tự nhiên. Nhà nhân học Mỹ Julian H. Steward dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành vi văn hoá của con người đối với môi trường tự nhiên. Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi khảo sát những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam. Về những loại hình kinh tế biển, đảo chúng tôi đề cập đến các vần đề như: - Phương tiện đánh bắt và hoạt động khai thác thủy hải sản ở vùng biển, đảo Nam Bộ - Nuôi trồng thủy hải sản ỏ vùng biển, đảo Nam Bộ - Nghề sản xuất muối (diêm nghiệp) - Nghề tiểu thủ công vùng biển, đảo Nam Bộ - Du lịch biển, đảo Nam Bộ Đối với ngành nhân học biển (maritime anthropology) cần tìm hiểu mối quan hệ giữa môi trường biển và hoạt động sinh tồn của các cư dân, từ đó mới có cơ sở tìm kiếm những chính sách hướng đến sự phát triển bền vững cho ngư dân và cư dân địa phương. Khái niệm không gian về biển liên quan mật thiết đến khái niệm tiềm năng biển và sở hữu nguồn tài nguyên biển. Đối với ngư dân, biển tồn tại là nguồn sở hữu chung. Do vậy, khi nghiên cứu về các cư dân biển, có nhiều quan niệm cho là chính do nhận thức này nên các cư dân biển chỉ chú trọng đến kinh tế khai thác và không có khái niệm trách nhiệm với môi trường. Sự phát triển bền vững của nghề biển đó là vấn đề môi trường cần được xem như một nguyên tắc phát triển. Theo đó, về mặt quản lý cần có những chính sách quản lý và biện pháp thực hiện quản lý tài nguyên biển để đảm bảo cho sự tái tạo của môi trường, đảm bảo cho một môi trường sinh sống bền vững cho con người. Từ khóa: sinh thái văn hóa, kinh tế biển, nhân học biển, môi trường biển, tài nguyên biển TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 147 Điểm cốt lõi về đối tượng nghiên cứu của nhân học biển là việc khảo sát kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng ngư dân và cư dân ven biển, nghiên cứu vấn đề con người thích nghi với môi trường biển cả, chính sách kiểm soát quản lý chiến lược về tài nguyên biển (Asahitaro Nishimura, 1973)[21]. Điều đó có nghĩa là các vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng biển Nam Bộ luôn gắn với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên biển, là nội dung quan trọng, đầy thách thức của phát triển bền vững. Vận dụng lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology) và nhân học sinh thái (ecological anthropology) để tìm hiểu sự thích nghi của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ. Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là quá trình thích nghi giữa môi trường xã hội của một tộc người với môi trường tự nhiên xung quanh. Nhà nhân học Mỹ Julian H. Steward dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành vi văn hoá của con người đối với môi trường tự nhiên. Người nào cũng phải sinh sống trong một môi trường tự nhiên, thế giới họ có thể trải nghiệm thông qua các giác quan nhưng họ sẽ nhận thức nó theo nhu cầu thích nghi và bối cảnh văn hóa của họ [23]. Còn nhân học sinh thái (ecological anthropology) để chỉ việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của mỗi tộc người đều liên quan chặt chẽ với đặc điểm địa lý từng vùng. Con người đã biết dựa vào điều kiện tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Môi trường sinh thái dù có tốt hay xấu đều cũng tác động đến khả năng thích ứng của con người, tạo nên một đặc trưng văn hoá vùng, miền. Với khả năng thích ứng của hệ sinh thái, con người có thể làm thay đổi hệ sinh thái tự nhiên. Trong công trình “Tính thích ứng của con người – Dẫn luận nhân học sinh thái” (Human Adaptability: An introduction to ecological Anthropology), 2000, nhà nhân học Mỹ Emilio F. Moran cho rằng nhân học sinh thái giải quyết vấn đề con người với môi trường tự nhiên trên phạm vi rộng, định chế xã hội và cách thức giải quyết vấn đề môi trường, không chỉ nghiên cứu cơ chế thích ứng của con người với môi trường, mà còn dùng những nghiên cứu định tính để trả lời những vấn đề: Con người làm thế nào để điều tiết bản thân thích ứng với sự biến đổi môi trường ?[6]. Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi khảo sát những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam. Chúng tôi tìm hiểu những cộng đồng ngư dân mưu sinh bằng cách khai thác các nguồn tài nguyên của biển; họ gắn bó với nghề đánh cá và luôn đối mặt với sự thay đổi cực kỳ nhanh chóng về lối sống do sự tiến hóa trong công nghệ và môi trường [22]. Nội dung bài này dựa vào nguồn thông tin và số liệu thuộc đề tài của chúng tôi (2008-2010) [10]. Ngoài tài liệu của nghiên cứu định tính khảo sát toàn bộ các điểm chọn mẫu của 9 tỉnh thành có biển của Nam Bộ, còn có số liệu của nghiên cứu định lượng ở 3 điểm chọn mẫu của 3 tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang (căn cứ vào các điều kiện phát triển, sản lượng, vị trí địa lý). Tổng cộng mẫu điều tra các hộ gia đình được chọn phỏng vấn theo bản hỏi định lượng là 600 hộ (mỗi nơi khảo sát 200 hộ gia đình, căn cứ trên danh sách của khóm hoặc của ấp), chọn theo mẫu phân tầng và mẫu ngẫu nhiên hệ thống... Vùng biển Nam Bộ bao gồm những cộng đồng cư dân và ngư dân chủ yếu người Việt, ngoài ra có vài nhóm nhỏ cư dân người Khmer, Hoa sinh sống trong những làng chài hoặc những khu vực thị tứ ven biển. Theo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thủy Sản, chỉ riêng diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế ở Đồng bằng sông Cửu Long của Nam Bộ đã rộng khoảng 360.000 km2, chiếm 37% tổng diện tích vùng đặc quyền kinh tế của cả nước và hàng trăm đảo lớn nhỏ thuộc hai ngư trường trọng điểm ở Đông và Tây Nam Bộ. Trữ lượng cá biển ở ngư trường này trên 2,5 triệu tấn, chiếm 62% của cả nước, khả năng cho phép khai thác tối đa trên 1 triệu tấn. Tính theo đầu người, khả năng cá biển có thể khai thác ở ĐBSCL là 61kg/năm, trong khi cả nước chỉ có 21kg/năm [13]. Tất nhiên, vùng biển, SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 148 đảo tại Nam Bộ cũng còn tồn tại hoặc nảy sinh những điều bất cập nếu muốn phát triển bền vững. 1. Phương tiện và hoạt động đánh bắt hải sản của ngư dân vùng biển, đảo Nam Bộ Việc tìm hiểu các phương tiện đánh bắt, ngư cụ của ngư dân các địa phương ở Nam Bộ không phải dễ dàng vì nhiều lý do như đặc tính của biển, đảo, thủy triều, thủy lưu, tính chất bãi biển, ngư trường, chủng loại thủy hải sản không đồng nhất, đó là chưa kể các công đồng đa tộc người là ngư dân, cư dân tại vùng biển đảo cũng khác nhau về địa phương gốc, tâm lý, kỹ năng, trình độ khai thác hải sản. Có thể tạm chia hệ thông ngư cụ phổ biến và chủ yếu ở vùng biển, đảo Nam Bộ ra 3 loại, đó là lưới, câu và đáy 1. 1. Lưới: Lưới gồm nhiều họ như họ lưới kéo, họ lưới vây, họ lưới rê, họ lưới vó 1.1.1. Họ lưới kéo (có nơi gọi là nghề giã/ giã cào/ cào) [2 tr.41] Lưới kéo dùng để kéo bắt cá, tôm Họ lưới kéo gồm: lưới giã, lưới chồng, cào xuồng, lưới quàng, lưới năm, lưới ba thưa, lưới giựt bắt cá, te, xịp - Lưới giã gồm giã một và giã đôi. Giã một là một thuyền kéo một lưới, giã đôi là hai thuyền kéo một lưới. Thuyền giã thường có trọng tải từ 6 đến 7 tấn, ra khơi đánh cá khoảng một tuần đến hai tuần. Mỗi thuyền giã có từ 8 –12 ngư dân. - Lưới chồng: Người ta chồng hai tấm lưới thành một, thường đánh cá khi biển lặng. - Cào xuồng là phương tiện đánh bắt ven biển, đi bằng ghe xuồng với chiếc cào gồm mảnh lưới dài chừng 2 – 3m, ngang chừng 1,5 – 2 được tra vào gọng dài khoảng 2 – 3m, tùy theo chừng mực nước sâu hay cạn. - Cào tôm sử dụng tàu ghe gắn máy công suất lớn, có túi cào cột vào sau lái tàu bằng những sợi dây chão, thân tàu có hai cây ngáng vươn ra để căng cho rộng miệng cào. Mỗi lần kéo cào lên người ta gọi là “một giã cào”, thường mỗi đêm đánh bắt chỉ có khoảng hai giã cào. - Lưới quàng là lưới lớn, thưa mặt, dùng khi đánh bắt xa bờ lâu hàng tháng [2 tr.42-45]. 1.1.2. Họ lưới vây dùng bắt cá bằng cách vây, gom cá lại tập trung vào một điểm để bắt, gồm nhiều loại như lưới quây, lưới bao, lưới rút, lưới rùng 1.1.3. Họ lưới rê, loại lưới đánh bắt gần bờ, phương thức đánh bắt là dùng tàu, thuyền kéo rà sát đáy biển. Khi đánh cá, hai mảnh lưới kéo rê dưới nước [2 tr.51-59]. 1.1.4. Họ lưới vó: Khác với các loại trên, lưới vó đánh bắt cố định, gồm có rọ, lú, rập bắt cua, đăngLưới vó là cách xúc hoặc hứng cá theo dòng nước, có thể bắt trọn đàn cá đang di chuyển (vó gọng, vó trắm, vó cân, xịp, te, chài). Như vậy các họ lưới ở vùng biển, đảo Nam Bộ rất đa dạng, thể hiện yếu tố sinh thái văn hoá vì nó thích nghi với môi trường nước biển gồm nhiều dòng chảy với độ mạnh, yếu khác nhau. Ngày trước ngư dân còn dệt lưới bủa bằng chỉ nhuộm màu đen của vỏ cây vừng để cá thấy bóng đen không tung vào làm rách lưới. Khi đàn cá nổi lên mặt nước bơi xoay vòng, người ta giảm tốc độ ghe rồi thả lưới bủa phía dưới hướng nước chảy rồi kéo lưới ngược dòng, vì cá thường ăn mồi trôi theo dòng nước. Hiện nay ngư dân chủ yếu sử dụng giã cào là hình thức đánh bắt khi ghe đã dùng động cơ di chuyển. Giã cào có loại đơn (một chiếc ghe) hoặc đôi, có nguồn gốc từ Nam Trung Bộ. Người ta dùng ghe kéo lưới để “cào” thu gom cá vào lưới. Với hình thức này, ghe, tàu có thể đánh bắt xa bờ, sản lượng nhiều hơn, nhưng mức độ xâm hại tài nguyên, môi trường cũng cao hơn. 1.2. Câu: Vùng biển Nam Bộ có những dạng ngư cụ để câu độc đáo như câu giàn gồm nhiều lưỡi câu gắn kết thả cùng lúc (câu kiều), dạng câu đơn, chỉ dùng một lưới câu (như thẻ mực), dạng câu giăng, câu chùm (như ốc mực)Ngoài ra còn có những loại ngư cụ độc đáo như thẻ mực, ốc mực TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 149 - Câu kiều: Ngư cụ này thuộc loại giàn câu quy mô lớn, chỉ những hộ ngư dân có khả năng tài chính cao và có ghe, tàu đánh cá lớn mới thực hiện được. Giàn câu có độ dài khoảng 1000 m, giây câu là loại giây gai xe kỹ thành sợi rất chắc chắn. Mỗi giàn câu kiều gồm nhiều gắp câu, mỗi gấp 80 lưỡi câu, được thả sâu gần chạm sát đáy biển. Đầu mỗi giây câu gắn lưỡi câu uốn bằng sắt, câu không cần mồi, các con cá da trơn chỉ cần bị móc một lưỡi câu thì ba bốn lưỡi câu bên cạnh sẽ móc thêm vào mình cá, vô phương thoát khỏi. Mỗi lần giăng giàn câu kiều người ta có thể gỡ được cả trăm con cá đuối, cá chét, cá thu, cá cào, cá nhám, cá hàng xanh, cá hàng nóc. Buổi chiều tối người ta đi bủa câu vì cá thường đi ăn đêm, do vậy mà có thành ngữ địa phương: “Ban đêm đi chìm, sáng đi nổi” để chỉ về công việc lao động của nghề câu này. - Ốc mực là dạng “câu mực” khá đặc biệt vì khi thả những chùm vỏ ốc to khoan lỗ xâu dính nhau xuống biển, mực sẽ vào vỏ ốc đẻ trứng, ngư dân chỉ cần kéo chùm vỏ ốc lên là tìm thấy mực. - Thẻ mực là loại câu chỉ cần một người lên thuyền ra biển vào ban đêm với một cây vợt và cây đèn manchon. Sau khi neo câu người đi thẻ cứ ngồi trên ghe cầm một đoạn dây dài chừng 4m, đầu kia cột một cục chì nhỏ và mấy mảnh vải trắng bằng ngón tay. Lúc con mực trồi lên đớp vào những mảnh vải trắng cột ở sợi dây thì họ nhanh tay vớt ngay [2 tr.79]. - Câu cá theo kiểu câu chạy, dựa theo thời tiết của biển, sắc trời xám hay sáng mà ngư dân câu chạy. Người ta dùng lông gà nhỏ, mềm, dài từ 6 -7 phân gắn vào lưỡi câu, buộc chì và phao cho hơi nặng, thả cách ghe chừng 50 – 60 thước. Khi ghe chạy, lông gà nổi trên mặt nước, cá thu, cá bò tưởng cá nhỏ nên chạy theo đớp và dính câu Với vài hình thức “câu” ở biển Nam Bộ từ đơn giản đến phức tạp như trên cho thấy ngư dân đã thích nghi với môi trường sinh thái biển và sáng tạo theo điều kiện tự nhiên. 1.3. Đáy: Đặc điểm biển Nam Bộ sâu, thuỷ triều đa dạng, dòng chảy mạnh, chính vì thế ngư dân sử dụng đáy vì phù hợp với môi trường sinh thái biển nơi đây. Ngư dân Nam Bộ tuỳ đặc điểm địa hình, độ sâu, dòng chảy của biển mà vận dụng phù hợp các loại đáy khác nhau như đáy hàng rạo, đáy song cầu, đáy sáu, đáy hàng khơiTính chất của đáy là cố định1, phải đóng cọc sâu dưới đáy biển, ở mực nước biển sâu 15- 40m. Một số dạng đáy phổ biến tại Nam Bộ như: 1.3.1. Đáy song cầu: Đáy song cầu thường được sử dụng khá phổ biến ở vùng biển Bà Rịa- Vũng Tàu, Cần Giờ (TP. HCM), Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang Đáy này cắm nọc đáy dàn hàng ngang ngoài biển khơi, nơi giòng chảy cực mạnh. Người ta căn cứ vào hai con nước ròng và nước lớn để chằng sao cho nọc đáy được vững và tuỳ thuộc vào hướng dòng chảy của con nước mà cá sẽ theo vào miệng đáy. Về kỹ thuật, đáy song cầu có hai bộ phận chính là lưới và nọc. Chiều dài đáy song cầu đến 40m, chiều rộng chừng 7- 8m, hàm của khẩu đáy khoảng 5 – 6m. Chiều dài nọc đáy tuỳ theo độ sâu của biển. Nếu xét về góc độ sinh thái văn hoá, đáy song cầu thích nghi theo tình hình thủy triều (con nước), phương thức đánh bắt có hiệu quả cao, thu nhập lớn, việc sử dụng loại đáy này phần lớn thuộc về những người đã trải nghiệm nghề đáy lâu, có vốn đầu tư khá lớn. 1.3.2. Đáy rạo là loại ngư cụ gần giống như đáy song cầu, nhưng kích thước nhỏ hơn. Cấu tạo của đáy rạo gồm 2 phần chính: lưới hàng rạo mở ra 1 Riêng biển Gò Công Đông (Tiền Giang) có loại đáy chạy, thực chất đó chỉ là loại ngư cụ lưới di động chứ không phải cố định như đặc điểm của đáy. Những loại đáy cố định Đáy SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 150 trước miệng đáy và lưới đáy. Hàng rạo làm bằng những loại cây cứng để có thể khua vào hàng rạo và sẽ bật ra những tiếng động làm cho tôm cá chạy vào miệng đáy. 1.3.3. Đáy sáu đóng ở gần bờ nên không cần làm chòi như các loại đáy song cầu, đáy hàng khơi. 1.3.4. Đáy neo còn gọi là đáy thùng, hay đáy phao, cố định ở một chỗ được là nhờ có dây neo. Mỗi đáy thường có hai neo: một neo cột vào phao trên miệng đáy và một neo cột vào giếng đáy để hứng tôm cá. 1.3.5. Đáy hàng khơi được sử dụng dựa theo dòng chảy của nước ở ngoài khơi theo mức lên xuống của thủy triều, như khu vực gần Hòn Khoai (xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau). Xét về khía cạnh thích nghi với môi trường sinh thái, theo sự sáng tạo của ngư dân Đất Mũi, đáy hàng khơi được phân bố khoảng 4 km một hàng đáy, như vậy dòng chảy của vòng cánh cung vùng biển khơi này có 10 hàng đáy. Chiều sâu của đáy đóng từ khoảng 20- 30m, thậm chí có nơi sâu đến 40- 50m. Kỹ thuật đóng nọc đáy là kỹ năng độc đáo của ngư dân vùng ... ô, tôm khô, ruốc khôCó những địa danh nổi tiếng đi liền với các sản phẩm hải sản Nam Bộ như tôm khô Cà Mau, Rạch Gốc, Rạch Giá, Gò Công; cá khô Bạc Liêu, Bến Tre, Kiên Giang; ruốc khô Gành Hào (Bạc Liêu), Kiên Giang Riêng Bến Tre có 2 làng nghề cá khô nổi tiếng là Bình Thắng (huyện Bình Đại) và An Thủy (huyện Ba Tri) nằm trong số 31 làng nghề thủ công truyền thống được Sở Công Thương Tỉnh công nhận tính đến đầu năm 2010. Tóm lại khả năng của cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ trong nghề thủ công truyền thống đã khẳng định sự lao động đầy nỗ lực và nhọc nhằn cũng như không ít thách thức dành cho họ. Tất nhiên những hệ lụy gây ra ô nhiễm môi trường thì cũng chính vùng biển và con người vùng biển phải nhận chịu, đó chính là một bài toán rất khó giải quyết, chừng nào những ngành chức năng chưa thực sự bắt tay vào một cách có kế hoạch và hiệu quả. 5. Du lịch biển, đảo Nam Bộ Vùng biển, đảo Nam Bộ gần cả ngàn km bờ biển với hàng trăm hòn đảo đẹp lớn nhỏ là những điều kiện thuân lợi cho con người đầu tư về du lịch biển. Tại Nam Bộ chủ yếu chỉ có các tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh có khả năng hoạt động du lịch biển. Qua quá trình khảo sát chúng tôi nhận thấy tuỳ theo môi trường vùng biển của từng địa phương như thế nào thì nên có những hoạt động du lịch biển phù hợp. Như tại vùng biển TP. Hồ chí Minh và các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau phần lớn là những bãi bùn, bãi bồi, nước biển đen, đục, sóng biển mạnh, bãi biển dốcdo đó khu vực biển này chỉ cần đáp ứng nhu cầu đơn giản của cư dân địa phương là “ra biển gần nhà” để hóng gió, thưởng thức hải sản tươi sống, thư giãn ra về trong ngày, người ta không có nhu cầu vào resort sang trọng. Điều này cho thấy cần xem lại quan điểm máy móc là phải đầu tư kinh phí cao, hiện đại, tiện nghi cao cấp ở vùng biển mới là hướng đi đúng. Còn vùng biển Bà Rịa Vũng Tàu và Kiên Giang nếu đầu tư tăng cường theo chất lượng tốt và tốc độ nhanh thì chắc chắn sẽ có khả năng thu hút nhiều khách du lịch tầng lớp khá giả ở các địa phương lân cận. Đã từng có xu hướng chia vùng biển Nam Bộ thành 2 cụm du lịch: Cụm du lịch Hà Tiên- Phú Quốc (phạm vi tỉnh Kiên Giang) và Cụm Vũng Tàu- Côn Đảo- Cần Giờ (phạm vi tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh) Nếu phát huy mặt mạnh về du lịch đảo thì huyện Kiên Lương, Kiên Hải và Phú Quốc, Côn Đảo sẽ khai thác được tiềm năng kinh tế. Các nhà nhân học ứng dụng nghiên cứu về du lịch biển cho rằng một môi trường sinh thái trong sạch và tình trạng an ninh tốt để bảo đảm an toàn cho du khách là những điều kiện hết sức quan trọng, mang tính quyết định cho hoạt động du lịch biển dài lâu. Thời gian qua nhiều vùng biển, đảo đẹp đã bị du lịch thiếu quy hoạch, thiếu kiến thức và quản lý thiếu chuyên nghiệp đã góp phần tạo sự tàn phá, ô nhiễm môi trường cảnh quan thiên nhiên nhưng không có cơ quan hay cá nhân nào chịu trách nhiệm. Đã đến lúc giữa con người và biển cả cần thể hiện sự tương tác bền vững với nhau chứ không thể mãi ứng xử với biển một cách thiếu công bằng như bấy lâu nay. Khi nói đến mối quan hệ giữa môi trường và con người theo Ngô Phương Lan [4] “tuy không thể đồng ý hoàn toàn theo quan điểm của của các nhà quyết định luận địa lý- geographical determinism- (như Ellen Churchil Semple, Ellsworth Huntington, Thomas Griffith Taylor) khi họ cho là môi trường quyết định dạng thức của các nền văn hóa, nhưng chúng ta cũng không thể không quan tâm đến vai trò của môi trường trong việc chi phối tác động đến TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 157 văn hóa, kinh tế, vì xét cho cùng sự thích nghi của con người đối với môi trường tự nhiên cấu thành nên một bộ phận quan trọng của văn hóa, đảm bảo cho sự sinh tồn của con người trong thế giới tự nhiên. Mối quan hệ giữa ngư dân và cư dân ven biển với môi trường biển là mối quan hệ hai chiều, vừa mang tính chủ động vừa mang tính phụ thuộc. Về hình thức, đánh bắt hải sản thuộc loại hình kinh tế tự nhiên, là phương thức tìm kiếm lương thực cổ xưa nhất của con người. Tuy nhiên, hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hình thức này đã có nhiều thay đổi. Về kỹ thuật khai thác, tùy theo khả năng kinh tế, các cư dân ở đây đã trang bị những thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho việc đánh bắt, giúp cho ngư dân gia tăng năng suất đánh bắt và giảm thiểu rủi ro thiên nhiên. Về hình thức đánh bắt, với sự hỗ trợ của máy móc, ngư dân có thể đánh bắt xa bờ, khai thác ngày càng nhiều và đa dạng các loài hải sản. Tuy nhiên, những phát minh khoa học hiện đại này cũng không giúp con người có được sự tự tin, lạc quan về việc chinh phục thiên nhiên. Khái niệm không gian về biển liên quan mật thiết đến khái niệm sở hữu nguồn tài nguyên biển, về tiềm năng kinh tế biển... Đối với ngư dân, biển tồn tại là nguồn sở hữu chung. Do vậy, khi nghiên cứu về các cư dân biển, có nhiều quan niệm cho là các cư dân biển chỉ chú trọng đến kinh tế khai thác mà không có trách nhiệm với môi trường, cụ thể là vấn đề tái tạo và bảo tồn nguồn tài nguyên, giống như những cư dân trồng trọt và chăn nuôi. Như vây, vấn đề môi trường cần được xem như một nguyên tắc phát triển bền vững, theo đó, cần có những chính sách quản lý và biện pháp thực hiện quản lý tài nguyên biển để đảm bảo cho sự tái tạo của môi trường, đảm bảo môi trường sinh sống bền vững cho con người” [4]. Kết luận 1. Nói đến Nam Bộ người ta quen nghĩ đến một vùng trọng điểm nông nghiệp, ít quan tâm đến hoạt động nghề biển của một bộ phận cư dân không nhỏ đang ngày đêm nhọc nhằn miệt mài lao động để làm giàu cho Tổ quốc. Như vậy vùng biển, đảo Nam Bộ cần được đánh giá, xác định vị trí và vai trò của nó về kinh tế và tiềm năng kinh tế trong cả hai thế mạnh cả về nông nghiệp lẫn ngư nghiệp cho những chiến lược lâu dài hàng trăm năm sau chứ không chỉ vài mươi năm, nhất là khi vùng biển Nam Bộ đang cần phải được quan tâm bởi vấn đề biến đổi khí hậu (climate change) đã, đang và sẽ diễn ra. Đời sống kinh tế đánh bắt thủy sản của cư dân vùng biển Nam Bộ ngày càng phát triển qua số lượng tàu đánh bắt xa bờ tăng rất nhanh hàng năm. Ngư dân vùng biển, đảo Nam Bộ đã thật sự làm chủ được các ngư trường đánh bắt và có khả năng “bám biển khơi dài ngày”, có khả năng đương đầu với rất nhiều thách thức từ phía thiên nhiên lẫn con người. Ngư dân Nam Bộ đủ sức để khẳng định “đẳng cấp” nghề biển của mình không hề thua kém với thành tích về nông nghiệp của nông dân cùng địa bàn. 2. Đối với ngành nhân học biển, vận dụng lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology) và nhân học sinh thái (ecological anthropology) để giải thích sự thích nghi của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ, đồng thời đó là tìm hiểu mối quan hệ giữa môi trường biển và hoạt động sinh tồn của các cộng đồng ngư dân và cư dân để có cơ sở tìm kiếm những chính sách hướng đến sự phát triển bền vững. Một chiến lược biển để thành công, hiêu quả cần được toàn thể công dân, các cấp chính quyền, đoàn thể, tổ chức nhiều thế hệ tiếp nối nhau quyết tâm thực hiện, có tính giao truyền, kế thừa đồng bộ chứ không phải trách nhiệm của một bộ phận nào. Hiện nay, vấn đề đời sống kinh tế, văn hóa, xã hôi của các cộng đồng cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ thực chất là bài toán cần được giải quyết đồng bộ và toàn diện. Các tỉnh, thành có biển ở Nam Bộ cần có chiến lược hợp tác, liên kết với nhau thay vì chỉ hoạt động và hành động riêng lẻ. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 158 The types of marine economies and economic potentials of the shore areas of South Vietnam - a cultural ecology approach PhanThi Yen Tuyet University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: We apply the theory of cultural ecology to understand the adaptation of fishing communities and residents to the natural ecology of the southern region (of Vietnam). Cultural ecology describes the process of adapting between the social environments of an individual community to surrounding natural environment. Through reproducing rational interpretations of natural ecological environments, humans select a series of production methods and forms of residence, establishing patterned behaviors interacting with the natural world. American anthropologist Julian H. Steward used this concept to explain the adaptive behavior of human cultures and their interactions with the natural environment. By applying this theory we can examine the types of marine economy and economic potential of the shores and the islands of the southern region of Vietnam. Regarding the typology of marine economy, our islands demonstrate a range of issues such as: Means of fishing and gathering seafood along the waters of the islands of the southern region of Vietnam Aquaculture. The salt production industry The production of handicrafts along the shore areas of the southern region of Vietnam The travel industry of the southern region of Vietnam From the perspective of maritime anthropology, there is a need to understand the relationship between marine environment and the survival of active populations, from which we have gathered a new desire for policies to facilitate sustainable development of fisheries for workers and local residents. The concept of ‘marine space’ is closely related to the concept and potential of sovereignty over marine resources. For fishermen, the existence of marine resources are also the source of survival. Therefore, the study of maritime peoples is crucial in the fostering of core concepts, as the current status of these populations demonstrates a lack of social awareness toward economic exploitation and the concept of environmental sustainability. Sustainable development of maritime crafts and environmental issues should be considered as development principles. Accordingly, the management of these sectors should have policies and measures for better management of marine resources to ensure the regeneration of the environment and ensure a more sustainable habitat for humans. Keywords: cultural ecology, marine economies, maritime anthropology, marine environment, marine resources TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 Trang 159 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt [1]. Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), Tài liệu Hội nghị tuyên truyền cổ vũ nhân rộng và phát triển làng nghề các tỉnh ven biển Tây Nam Bộ, Tổng quan về phát triển làng nghề - thực trạng và định hướng phát triển 2011 – 2030, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cà Mau. [2]. Đoàn Nô (2003), Ngư cụ thủ công chủ yếu và nghề cá ở Kiên Giang, NXB VHTT, Hà Nội. [3]. Giá Khê Trương Thanh Hùng (2003), Văn hóa ẩm thực Kiên Giang, NXB Văn hóa - Thông tin,tr.16 [4]. Ngô Phương Lan, Môi trường và sinh tồn trong nghề biển, một số hướng tiếp cận, Tham luận Tọa đàm, Đề tài “Những vấn đề văn hóa xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ”, Trường ĐH KHXH& NV TP. HCM, 16- 10- 2010 (CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). [5]. Nguyễn Hữu Luật, Biên bản phỏng vấn CTV Nguyễn Văn Thành (Bãi Thiên Tuế, xã Lại Sơn), 4-2006. [6]. Nguyễn Minh Đức (2008), Sinh thái văn hoá - Xu hướng nghiên cứu mới ở Vân Nam, Trung Quốc, Báo cáo Hội thảo, tr.32. [7]. Phạm Thanh Duy, Biển- Ngư dân, những vấn đề nảy sinh trong quá trình khai thác thủy hải sản tại Cà Mau ( Khảo sát tại địa bàn xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển và thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời), Tham luận Tọa đàm “Những vấn đề văn hóa- xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ “ ngày 16-10-2010 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM (CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). [8]. Phạm Thanh Thôi, Từ góc nhìn của ngư dân biển Kiên Giang nhận diện các thách thức cho “Chiến lược biển Việt Nam đến 2020” , Tham luận Tọa đàm “ Những vấn đề văn hóa- xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ “ ngày 16-10- 2010 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM (CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). [9]. Phan Thị Yến Tuyết, Biên bản PV ông Bùi Văn Hồng, chủ cơ sở làm ghe, ấp An Thạnh, An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, 4- 2010. [10]. Phan Thị Yến Tuyết, Những vấn đề văn hóa xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ, đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia TP. HCM (2008- 2010). [11]. Phan Thị Yến Tuyết, Đô thị hóa ở vùng biển Nam Bộ: Trường hợp thị trấn Sông Đốc (Cà Mau), xã Bình An (Kiên Giang), xã An Thủy (Bến Tre), Tham luận hội thảo “Tác động của quá trình đô thị hóa đến phát triển khu vực nông thôn giai đoạn 2011- 2020”, do Trường ĐHKHXH& NV, ĐHQG Hà Nội) kết hợp với Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ tổ chức vào tháng 9 năm 2011. [12]. Phan Thị Yến Tuyết (2011), Du lịch biển, đảo trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, Hội thảo khoa Địa lý (Trường ĐHKHXH& NV TP. HCM): Du lịch biển, đảo và phát triển bền vững. [13]. Phụ lục quy hoạch phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến 2010, định hướng đến năm 2020, (Kèm theo Quyết định số: 102/2008/QĐ-BNN ngày 17 /10/2008 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. [14]. Phương Hằng, Triển vọng mới của nghề nuôi cấy ngọc trai, Báo Sàigòn giải phóng ngày/6/1996 [15]. Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn (2010), Đồng quản lý khai thác, sử dụng và phát triển bền vững nguôn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lợi thủy sản vùng ven biển tỉnh Bến Tre. [16]. Tổng cục thống kê (2007), Kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp 2006, NXB Thống kê. SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 Trang 160 [17]. Võ Công Nguyện, 16- 10- 2010, Một số loại hình hoạt động kinh tế truyền thống của các cộng đồng cư dân đa tộc người vùng đất giồng ven biển Đông ĐBSCL. Trường hợp cộng đồng cư dân đa tộc người xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, Tham luận, Tọa đàm khoa học, Đề tài những vấn đề văn hóa xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ, (CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). [18]. Internet, wwww. Kiengiang.gov.vn , Nguyễn Phong Thiên, Thông tin cập nhật ngày 8-7- 2005 [19]. Internet, wwww. Kiengiang.gov.vn , Theo CT, Thông tin cập nhật ngày: 27-7-2005 Tiếng nước ngoài [20]. Akifumi Iwabuchi, (Tokyo University of Marine Science & Technology), Disappearing Traditional Gears: From sustainable fishing to heavy exploitation in Southern Vietnam. Proceedings of the 5th mare people and Sea Coference, 8/11-7-2009, Amsterdam. [21]. Asahitaro Nishimura (197), A Preliminary report on current trends in marine anthropology, Center of Marine Ethnology, Waseda University, Tokyo, Japan. [22]. M. Estellie Smith (1977), Those who live from the sea, A study in Maritime Anthropology”, West Publishing Co, tr.3- 4. [23]. James Spradley & David W.Mc. Curdy (2003), Comformity and Conflict, Reading in cultural anthropology,11th edition, Pearson Education. [24]. W.A. Haviland (1993), Cultural Anthropology, Chapter 13:Religion and the Supernature.
File đính kèm:
- nhung_loai_hinh_kinh_te_bien_dao_va_tiem_nang_kinh_te_tai_vu.pdf