Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)

TÓM TẮT:

Chúng tôi vận dụng lý thuyết sinh thái văn

hóa (cultural ecology) để tìm hiểu sự thích nghi

của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi

trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ.

Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là quá trình

thích ứng giữa môi trường xã hội của một tộc

người với môi trường tự nhiên xung quanh.

Thông qua sự nhận thức hợp lý về môi trường

sinh thái tự nhiên, con người quyết định

phương thức sản xuất và lựa chọn hình thức

cư trú, hành vi ứng xử nhất định với thế giới tự

nhiên. Nhà nhân học Mỹ Julian H. Steward

dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành vi

văn hoá của con người đối với môi trường tự

nhiên. Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi

khảo sát những loại hình kinh tế biển, đảo và

tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt

Nam.

pdf 15 trang yennguyen 3540
Bạn đang xem tài liệu "Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)

Những loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa (cultural ecology)
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 146 
Những loại hình kinh tế biển, đảo 
và tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, 
Việt Nam – Tiếp cận sinh thái văn hóa 
(cultural ecology) 
 Phan Thị Yến Tuyết 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Chúng tôi vận dụng lý thuyết sinh thái văn 
hóa (cultural ecology) để tìm hiểu sự thích nghi 
của cộng đồng ngư dân và cư dân trong môi 
trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam Bộ. 
Sinh thái văn hoá (cultural ecology) là quá trình 
thích ứng giữa môi trường xã hội của một tộc 
người với môi trường tự nhiên xung quanh. 
Thông qua sự nhận thức hợp lý về môi trường 
sinh thái tự nhiên, con người quyết định 
phương thức sản xuất và lựa chọn hình thức 
cư trú, hành vi ứng xử nhất định với thế giới tự 
nhiên. Nhà nhân học Mỹ Julian H. Steward 
dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành vi 
văn hoá của con người đối với môi trường tự 
nhiên. Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi 
khảo sát những loại hình kinh tế biển, đảo và 
tiềm năng kinh tế tại vùng biển Nam Bộ, Việt 
Nam. 
Về những loại hình kinh tế biển, đảo chúng 
tôi đề cập đến các vần đề như: 
- Phương tiện đánh bắt và hoạt động khai 
thác thủy hải sản ở vùng biển, đảo Nam Bộ 
- Nuôi trồng thủy hải sản ỏ vùng biển, đảo 
Nam Bộ 
- Nghề sản xuất muối (diêm nghiệp) 
- Nghề tiểu thủ công vùng biển, đảo Nam 
Bộ 
- Du lịch biển, đảo Nam Bộ 
Đối với ngành nhân học biển (maritime 
anthropology) cần tìm hiểu mối quan hệ giữa 
môi trường biển và hoạt động sinh tồn của các 
cư dân, từ đó mới có cơ sở tìm kiếm những 
chính sách hướng đến sự phát triển bền vững 
cho ngư dân và cư dân địa phương. Khái niệm 
không gian về biển liên quan mật thiết đến khái 
niệm tiềm năng biển và sở hữu nguồn tài 
nguyên biển. Đối với ngư dân, biển tồn tại là 
nguồn sở hữu chung. Do vậy, khi nghiên cứu 
về các cư dân biển, có nhiều quan niệm cho là 
chính do nhận thức này nên các cư dân biển 
chỉ chú trọng đến kinh tế khai thác và không có 
khái niệm trách nhiệm với môi trường. Sự phát 
triển bền vững của nghề biển đó là vấn đề môi 
trường cần được xem như một nguyên tắc phát 
triển. Theo đó, về mặt quản lý cần có những 
chính sách quản lý và biện pháp thực hiện 
quản lý tài nguyên biển để đảm bảo cho sự tái 
tạo của môi trường, đảm bảo cho một môi 
trường sinh sống bền vững cho con người. 
 Từ khóa: sinh thái văn hóa, kinh tế biển, nhân học biển, môi trường biển, tài nguyên biển 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 147 
Điểm cốt lõi về đối tượng nghiên cứu của nhân 
học biển là việc khảo sát kinh tế, văn hóa, xã hội 
của các cộng đồng ngư dân và cư dân ven biển, 
nghiên cứu vấn đề con người thích nghi với môi 
trường biển cả, chính sách kiểm soát quản lý chiến 
lược về tài nguyên biển (Asahitaro Nishimura, 
1973)[21]. Điều đó có nghĩa là các vấn đề phát triển 
kinh tế, văn hóa, xã hội vùng biển Nam Bộ luôn gắn 
với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên biển, là nội 
dung quan trọng, đầy thách thức của phát triển bền 
vững. 
Vận dụng lý thuyết sinh thái văn hóa (cultural 
ecology) và nhân học sinh thái (ecological 
anthropology) để tìm hiểu sự thích nghi của cộng 
đồng ngư dân và cư dân trong môi trường sinh thái 
tự nhiên vùng biển Nam Bộ. Sinh thái văn hoá 
(cultural ecology) là quá trình thích nghi giữa môi 
trường xã hội của một tộc người với môi trường tự 
nhiên xung quanh. Nhà nhân học Mỹ Julian H. 
Steward dùng khái niệm thích nghi để lý giải hành 
vi văn hoá của con người đối với môi trường tự 
nhiên. Người nào cũng phải sinh sống trong một 
môi trường tự nhiên, thế giới họ có thể trải nghiệm 
thông qua các giác quan nhưng họ sẽ nhận thức nó 
theo nhu cầu thích nghi và bối cảnh văn hóa của họ 
[23]. Còn nhân học sinh thái (ecological 
anthropology) để chỉ việc sử dụng tài nguyên thiên 
nhiên của mỗi tộc người đều liên quan chặt chẽ với 
đặc điểm địa lý từng vùng. Con người đã biết dựa 
vào điều kiện tự nhiên để sinh tồn và phát triển. 
Môi trường sinh thái dù có tốt hay xấu đều cũng tác 
động đến khả năng thích ứng của con người, tạo nên 
một đặc trưng văn hoá vùng, miền. Với khả năng 
thích ứng của hệ sinh thái, con người có thể làm 
thay đổi hệ sinh thái tự nhiên. Trong công trình 
“Tính thích ứng của con người – Dẫn luận nhân học 
sinh thái” (Human Adaptability: An introduction to 
ecological Anthropology), 2000, nhà nhân học Mỹ 
Emilio F. Moran cho rằng nhân học sinh thái giải 
quyết vấn đề con người với môi trường tự nhiên 
trên phạm vi rộng, định chế xã hội và cách thức giải 
quyết vấn đề môi trường, không chỉ nghiên cứu cơ 
chế thích ứng của con người với môi trường, mà 
còn dùng những nghiên cứu định tính để trả lời 
những vấn đề: Con người làm thế nào để điều tiết 
bản thân thích ứng với sự biến đổi môi trường ?[6]. 
Từ vận dụng lý thuyết này chúng tôi khảo sát những 
loại hình kinh tế biển, đảo và tiềm năng kinh tế tại 
vùng biển Nam Bộ, Việt Nam. Chúng tôi tìm hiểu 
những cộng đồng ngư dân mưu sinh bằng cách khai 
thác các nguồn tài nguyên của biển; họ gắn bó với 
nghề đánh cá và luôn đối mặt với sự thay đổi cực kỳ 
nhanh chóng về lối sống do sự tiến hóa trong công 
nghệ và môi trường [22]. Nội dung bài này dựa vào 
nguồn thông tin và số liệu thuộc đề tài của chúng tôi 
(2008-2010) [10]. Ngoài tài liệu của nghiên cứu 
định tính khảo sát toàn bộ các điểm chọn mẫu của 9 
tỉnh thành có biển của Nam Bộ, còn có số liệu của 
nghiên cứu định lượng ở 3 điểm chọn mẫu của 3 
tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Kiên Giang (căn cứ vào các 
điều kiện phát triển, sản lượng, vị trí địa lý). 
Tổng cộng mẫu điều tra các hộ gia đình được chọn 
phỏng vấn theo bản hỏi định lượng là 600 hộ (mỗi 
nơi khảo sát 200 hộ gia đình, căn cứ trên danh sách 
của khóm hoặc của ấp), chọn theo mẫu phân tầng và 
mẫu ngẫu nhiên hệ thống... 
Vùng biển Nam Bộ bao gồm những cộng đồng 
cư dân và ngư dân chủ yếu người Việt, ngoài ra có 
vài nhóm nhỏ cư dân người Khmer, Hoa sinh sống 
trong những làng chài hoặc những khu vực thị tứ 
ven biển. Theo Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi 
Thủy Sản, chỉ riêng diện tích vùng biển đặc quyền 
kinh tế ở Đồng bằng sông Cửu Long của Nam Bộ 
đã rộng khoảng 360.000 km2, chiếm 37% tổng diện 
tích vùng đặc quyền kinh tế của cả nước và hàng 
trăm đảo lớn nhỏ thuộc hai ngư trường trọng điểm ở 
Đông và Tây Nam Bộ. Trữ lượng cá biển ở ngư 
trường này trên 2,5 triệu tấn, chiếm 62% của cả 
nước, khả năng cho phép khai thác tối đa trên 1 
triệu tấn. Tính theo đầu người, khả năng cá biển có 
thể khai thác ở ĐBSCL là 61kg/năm, trong khi cả 
nước chỉ có 21kg/năm [13]. Tất nhiên, vùng biển, 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 148 
đảo tại Nam Bộ cũng còn tồn tại hoặc nảy sinh 
những điều bất cập nếu muốn phát triển bền vững. 
1. Phương tiện và hoạt động đánh bắt hải sản 
của ngư dân vùng biển, đảo Nam Bộ 
Việc tìm hiểu các phương tiện đánh bắt, ngư cụ 
của ngư dân các địa phương ở Nam Bộ không phải 
dễ dàng vì nhiều lý do như đặc tính của biển, đảo, 
thủy triều, thủy lưu, tính chất bãi biển, ngư trường, 
chủng loại thủy hải sản không đồng nhất, đó là chưa 
kể các công đồng đa tộc người là ngư dân, cư dân 
tại vùng biển đảo cũng khác nhau về địa phương 
gốc, tâm lý, kỹ năng, trình độ khai thác hải sản. Có 
thể tạm chia hệ thông ngư cụ phổ biến và chủ yếu ở 
vùng biển, đảo Nam Bộ ra 3 loại, đó là lưới, câu và 
đáy 
1. 1. Lưới: Lưới gồm nhiều họ như họ lưới kéo, 
họ lưới vây, họ lưới rê, họ lưới vó 
1.1.1. Họ lưới kéo (có nơi gọi là nghề giã/ giã 
cào/ cào) [2 tr.41] Lưới kéo dùng để kéo bắt cá, 
tôm Họ lưới kéo gồm: lưới giã, lưới chồng, cào 
xuồng, lưới quàng, lưới năm, lưới ba thưa, lưới giựt 
bắt cá, te, xịp 
- Lưới giã gồm giã một và giã đôi. Giã một là 
một thuyền kéo một lưới, giã đôi là hai thuyền kéo 
một lưới. Thuyền giã thường có trọng tải từ 6 đến 7 
tấn, ra khơi đánh cá khoảng một tuần đến hai tuần. 
Mỗi thuyền giã có từ 8 –12 ngư dân. 
- Lưới chồng: Người ta chồng hai tấm lưới thành 
một, thường đánh cá khi biển lặng. 
- Cào xuồng là phương tiện đánh bắt ven biển, 
đi bằng ghe xuồng với chiếc cào gồm mảnh lưới dài 
chừng 2 – 3m, ngang chừng 1,5 – 2 được tra vào 
gọng dài khoảng 2 – 3m, tùy theo chừng mực nước 
sâu hay cạn. 
- Cào tôm sử dụng tàu ghe gắn máy công suất 
lớn, có túi cào cột vào sau lái tàu bằng những sợi 
dây chão, thân tàu có hai cây ngáng vươn ra để căng 
cho rộng miệng cào. Mỗi lần kéo cào lên người ta 
gọi là “một giã cào”, thường mỗi đêm đánh bắt chỉ 
có khoảng hai giã cào. 
- Lưới quàng là lưới lớn, thưa mặt, dùng khi 
đánh bắt xa bờ lâu hàng tháng [2 tr.42-45]. 
1.1.2. Họ lưới vây dùng bắt cá bằng cách vây, 
gom cá lại tập trung vào một điểm để bắt, gồm 
nhiều loại như lưới quây, lưới bao, lưới rút, lưới 
rùng 
1.1.3. Họ lưới rê, loại lưới đánh bắt gần bờ, 
phương thức đánh bắt là dùng tàu, thuyền kéo rà sát 
đáy biển. Khi đánh cá, hai mảnh lưới kéo rê dưới 
nước [2 tr.51-59]. 
1.1.4. Họ lưới vó: Khác với các loại trên, lưới vó 
đánh bắt cố định, gồm có rọ, lú, rập bắt cua, 
đăngLưới vó là cách xúc hoặc hứng cá theo dòng 
nước, có thể bắt trọn đàn cá đang di chuyển (vó 
gọng, vó trắm, vó cân, xịp, te, chài). 
Như vậy các họ lưới ở vùng biển, đảo Nam Bộ 
rất đa dạng, thể hiện yếu tố sinh thái văn hoá vì nó 
thích nghi với môi trường nước biển gồm nhiều 
dòng chảy với độ mạnh, yếu khác nhau. Ngày trước 
ngư dân còn dệt lưới bủa bằng chỉ nhuộm màu đen 
của vỏ cây vừng để cá thấy bóng đen không tung 
vào làm rách lưới. Khi đàn cá nổi lên mặt nước bơi 
xoay vòng, người ta giảm tốc độ ghe rồi thả lưới 
bủa phía dưới hướng nước chảy rồi kéo lưới ngược 
dòng, vì cá thường ăn mồi trôi theo dòng nước. 
Hiện nay ngư dân chủ yếu sử dụng giã cào là hình 
thức đánh bắt khi ghe đã dùng động cơ di chuyển. 
Giã cào có loại đơn (một chiếc ghe) hoặc đôi, có 
nguồn gốc từ Nam Trung Bộ. Người ta dùng ghe 
kéo lưới để “cào” thu gom cá vào lưới. Với hình 
thức này, ghe, tàu có thể đánh bắt xa bờ, sản lượng 
nhiều hơn, nhưng mức độ xâm hại tài nguyên, môi 
trường cũng cao hơn. 
1.2. Câu: 
Vùng biển Nam Bộ có những dạng ngư cụ để 
câu độc đáo như câu giàn gồm nhiều lưỡi câu gắn 
kết thả cùng lúc (câu kiều), dạng câu đơn, chỉ dùng 
một lưới câu (như thẻ mực), dạng câu giăng, câu 
chùm (như ốc mực)Ngoài ra còn có những loại 
ngư cụ độc đáo như thẻ mực, ốc mực 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 149 
- Câu kiều: Ngư cụ này thuộc loại giàn câu quy 
mô lớn, chỉ những hộ ngư dân có khả năng tài chính 
cao và có ghe, tàu đánh cá lớn mới thực hiện được. 
Giàn câu có độ dài khoảng 1000 m, giây câu là loại 
giây gai xe kỹ thành sợi rất chắc chắn. Mỗi giàn câu 
kiều gồm nhiều gắp câu, mỗi gấp 80 lưỡi câu, được 
thả sâu gần chạm sát đáy biển. Đầu mỗi giây câu 
gắn lưỡi câu uốn bằng sắt, câu không cần mồi, các 
con cá da trơn chỉ cần bị móc một lưỡi câu thì ba 
bốn lưỡi câu bên cạnh sẽ móc thêm vào mình cá, vô 
phương thoát khỏi. Mỗi lần giăng giàn câu kiều 
người ta có thể gỡ được cả trăm con cá đuối, cá 
chét, cá thu, cá cào, cá nhám, cá hàng xanh, cá hàng 
nóc. Buổi chiều tối người ta đi bủa câu vì cá thường 
đi ăn đêm, do vậy mà có thành ngữ địa phương: 
“Ban đêm đi chìm, sáng đi nổi” để chỉ về công việc 
lao động của nghề câu này. 
- Ốc mực là dạng “câu mực” khá đặc biệt vì khi 
thả những chùm vỏ ốc to khoan lỗ xâu dính nhau 
xuống biển, mực sẽ vào vỏ ốc đẻ trứng, ngư dân chỉ 
cần kéo chùm vỏ ốc lên là tìm thấy mực. 
- Thẻ mực là loại câu chỉ cần một người lên 
thuyền ra biển vào ban đêm với một cây vợt và cây 
đèn manchon. Sau khi neo câu người đi thẻ cứ ngồi 
trên ghe cầm một đoạn dây dài chừng 4m, đầu kia 
cột một cục chì nhỏ và mấy mảnh vải trắng bằng 
ngón tay. Lúc con mực trồi lên đớp vào những 
mảnh vải trắng cột ở sợi dây thì họ nhanh tay vớt 
ngay [2 tr.79]. 
- Câu cá theo kiểu câu chạy, dựa theo thời tiết 
của biển, sắc trời xám hay sáng mà ngư dân câu 
chạy. Người ta dùng lông gà nhỏ, mềm, dài từ 6 -7 
phân gắn vào lưỡi câu, buộc chì và phao cho hơi 
nặng, thả cách ghe chừng 50 – 60 thước. Khi ghe 
chạy, lông gà nổi trên mặt nước, cá thu, cá bò tưởng 
cá nhỏ nên chạy theo đớp và dính câu 
Với vài hình thức “câu” ở biển Nam Bộ từ đơn 
giản đến phức tạp như trên cho thấy ngư dân đã 
thích nghi với môi trường sinh thái biển và sáng tạo 
theo điều kiện tự nhiên. 
1.3. Đáy: 
Đặc điểm biển Nam Bộ sâu, thuỷ triều đa dạng, 
dòng chảy mạnh, chính vì thế ngư dân sử dụng đáy 
vì phù hợp với môi trường sinh thái biển nơi đây. 
Ngư dân Nam Bộ tuỳ đặc điểm địa hình, độ sâu, 
dòng chảy của biển mà vận dụng phù hợp các 
loại đáy khác nhau như đáy hàng rạo, đáy song cầu, 
đáy sáu, đáy hàng khơiTính chất của đáy là cố 
định1, phải đóng cọc sâu dưới đáy biển, ở mực nước 
biển sâu 15- 40m. Một số dạng đáy phổ biến tại 
Nam Bộ như: 
1.3.1. Đáy song cầu: Đáy song cầu thường được 
sử dụng khá phổ biến ở vùng biển Bà Rịa- Vũng 
Tàu, Cần Giờ (TP. HCM), Bến Tre, Trà Vinh, Cà 
Mau, Kiên Giang Đáy này cắm nọc đáy dàn hàng 
ngang ngoài biển khơi, nơi giòng chảy cực mạnh. 
Người ta căn cứ vào hai con nước ròng và nước lớn 
để chằng sao cho nọc đáy được vững và tuỳ thuộc 
vào hướng dòng chảy của con nước mà cá sẽ theo 
vào miệng đáy. Về kỹ thuật, đáy song cầu có hai bộ 
phận chính là lưới và nọc. Chiều dài đáy song cầu 
đến 40m, chiều rộng chừng 7- 8m, hàm của khẩu 
đáy khoảng 5 – 6m. Chiều dài nọc đáy tuỳ theo độ 
sâu của biển. Nếu xét về góc độ sinh thái văn hoá, 
đáy song cầu thích nghi theo tình hình thủy triều 
(con nước), phương thức đánh bắt có hiệu quả cao, 
thu nhập lớn, việc sử dụng loại đáy này phần lớn 
thuộc về những người đã trải nghiệm nghề đáy lâu, 
có vốn đầu tư khá lớn. 
1.3.2. Đáy rạo là loại ngư cụ gần giống như đáy 
song cầu, nhưng kích thước nhỏ hơn. Cấu tạo của 
đáy rạo gồm 2 phần chính: lưới hàng rạo mở ra 
1 Riêng biển Gò Công Đông (Tiền Giang) có loại đáy chạy, thực 
chất đó chỉ là loại ngư cụ lưới di động chứ không phải cố định 
như đặc điểm của đáy. 
Những loại 
đáy cố định Đáy 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 150 
trước miệng đáy và lưới đáy. Hàng rạo làm bằng 
những loại cây cứng để có thể khua vào hàng rạo và 
sẽ bật ra những tiếng động làm cho tôm cá chạy vào 
miệng đáy. 
1.3.3. Đáy sáu đóng ở gần bờ nên không cần 
làm chòi như các loại đáy song cầu, đáy hàng khơi. 
1.3.4. Đáy neo còn gọi là đáy thùng, hay đáy 
phao, cố định ở một chỗ được là nhờ có dây neo. 
Mỗi đáy thường có hai neo: một neo cột vào phao 
trên miệng đáy và một neo cột vào giếng đáy để 
hứng tôm cá. 
1.3.5. Đáy hàng khơi được sử dụng dựa theo 
dòng chảy của nước ở ngoài khơi theo mức lên 
xuống của thủy triều, như khu vực gần Hòn Khoai 
(xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau). Xét 
về khía cạnh thích nghi với môi trường sinh thái, 
theo sự sáng tạo của ngư dân Đất Mũi, đáy hàng 
khơi được phân bố khoảng 4 km một hàng đáy, như 
vậy dòng chảy của vòng cánh cung vùng biển khơi 
này có 10 hàng đáy. Chiều sâu của đáy đóng từ 
khoảng 20- 30m, thậm chí có nơi sâu đến 40- 50m. 
Kỹ thuật đóng nọc đáy là kỹ năng độc đáo của 
ngư dân vùng ... ô, tôm 
khô, ruốc khôCó những địa danh nổi tiếng đi liền 
với các sản phẩm hải sản Nam Bộ như tôm khô Cà 
Mau, Rạch Gốc, Rạch Giá, Gò Công; cá khô Bạc 
Liêu, Bến Tre, Kiên Giang; ruốc khô Gành Hào 
(Bạc Liêu), Kiên Giang Riêng Bến Tre có 2 làng 
nghề cá khô nổi tiếng là Bình Thắng (huyện Bình 
Đại) và An Thủy (huyện Ba Tri) nằm trong số 31 
làng nghề thủ công truyền thống được Sở Công 
Thương Tỉnh công nhận tính đến đầu năm 2010. 
Tóm lại khả năng của cư dân vùng biển, đảo 
Nam Bộ trong nghề thủ công truyền thống đã khẳng 
định sự lao động đầy nỗ lực và nhọc nhằn cũng như 
không ít thách thức dành cho họ. Tất nhiên những 
hệ lụy gây ra ô nhiễm môi trường thì cũng chính 
vùng biển và con người vùng biển phải nhận chịu, 
đó chính là một bài toán rất khó giải quyết, chừng 
nào những ngành chức năng chưa thực sự bắt tay 
vào một cách có kế hoạch và hiệu quả. 
5. Du lịch biển, đảo Nam Bộ 
Vùng biển, đảo Nam Bộ gần cả ngàn km bờ biển 
với hàng trăm hòn đảo đẹp lớn nhỏ là những điều 
kiện thuân lợi cho con người đầu tư về du lịch biển. 
Tại Nam Bộ chủ yếu chỉ có các tỉnh Bà Rịa Vũng 
Tàu, Kiên Giang, TP. Hồ Chí Minh có khả năng 
hoạt động du lịch biển. Qua quá trình khảo sát 
chúng tôi nhận thấy tuỳ theo môi trường vùng biển 
của từng địa phương như thế nào thì nên có những 
hoạt động du lịch biển phù hợp. Như tại vùng biển 
TP. Hồ chí Minh và các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, 
Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau phần lớn là 
những bãi bùn, bãi bồi, nước biển đen, đục, sóng 
biển mạnh, bãi biển dốcdo đó khu vực biển này 
chỉ cần đáp ứng nhu cầu đơn giản của cư dân địa 
phương là “ra biển gần nhà” để hóng gió, thưởng 
thức hải sản tươi sống, thư giãn ra về trong ngày, 
người ta không có nhu cầu vào resort sang trọng. 
Điều này cho thấy cần xem lại quan điểm máy móc 
là phải đầu tư kinh phí cao, hiện đại, tiện nghi cao 
cấp ở vùng biển mới là hướng đi đúng. Còn vùng 
biển Bà Rịa Vũng Tàu và Kiên Giang nếu đầu tư 
tăng cường theo chất lượng tốt và tốc độ nhanh thì 
chắc chắn sẽ có khả năng thu hút nhiều khách du 
lịch tầng lớp khá giả ở các địa phương lân cận. Đã 
từng có xu hướng chia vùng biển Nam Bộ thành 2 
cụm du lịch: Cụm du lịch Hà Tiên- Phú Quốc 
(phạm vi tỉnh Kiên Giang) và Cụm Vũng Tàu- Côn 
Đảo- Cần Giờ (phạm vi tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu và 
TP. Hồ Chí Minh) 
Nếu phát huy mặt mạnh về du lịch đảo thì huyện 
Kiên Lương, Kiên Hải và Phú Quốc, Côn Đảo sẽ 
khai thác được tiềm năng kinh tế. Các nhà nhân học 
ứng dụng nghiên cứu về du lịch biển cho rằng một 
môi trường sinh thái trong sạch và tình trạng an 
ninh tốt để bảo đảm an toàn cho du khách là những 
điều kiện hết sức quan trọng, mang tính quyết định 
cho hoạt động du lịch biển dài lâu. Thời gian qua 
nhiều vùng biển, đảo đẹp đã bị du lịch thiếu quy 
hoạch, thiếu kiến thức và quản lý thiếu chuyên 
nghiệp đã góp phần tạo sự tàn phá, ô nhiễm môi 
trường cảnh quan thiên nhiên nhưng không có cơ 
quan hay cá nhân nào chịu trách nhiệm. Đã đến lúc 
giữa con người và biển cả cần thể hiện sự tương tác 
bền vững với nhau chứ không thể mãi ứng xử với 
biển một cách thiếu công bằng như bấy lâu nay. 
Khi nói đến mối quan hệ giữa môi trường và con 
người theo Ngô Phương Lan [4] “tuy không thể 
đồng ý hoàn toàn theo quan điểm của của các nhà 
quyết định luận địa lý- geographical determinism- 
(như Ellen Churchil Semple, Ellsworth Huntington, 
Thomas Griffith Taylor) khi họ cho là môi trường 
quyết định dạng thức của các nền văn hóa, nhưng 
chúng ta cũng không thể không quan tâm đến vai 
trò của môi trường trong việc chi phối tác động đến 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 157 
văn hóa, kinh tế, vì xét cho cùng sự thích nghi của 
con người đối với môi trường tự nhiên cấu thành 
nên một bộ phận quan trọng của văn hóa, đảm bảo 
cho sự sinh tồn của con người trong thế giới tự 
nhiên. Mối quan hệ giữa ngư dân và cư dân ven 
biển với môi trường biển là mối quan hệ hai chiều, 
vừa mang tính chủ động vừa mang tính phụ thuộc. 
Về hình thức, đánh bắt hải sản thuộc loại hình kinh 
tế tự nhiên, là phương thức tìm kiếm lương thực cổ 
xưa nhất của con người. Tuy nhiên, hiện nay với sự 
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hình 
thức này đã có nhiều thay đổi. Về kỹ thuật khai 
thác, tùy theo khả năng kinh tế, các cư dân ở đây đã 
trang bị những thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại để 
phục vụ cho việc đánh bắt, giúp cho ngư dân gia 
tăng năng suất đánh bắt và giảm thiểu rủi ro thiên 
nhiên. Về hình thức đánh bắt, với sự hỗ trợ của máy 
móc, ngư dân có thể đánh bắt xa bờ, khai thác ngày 
càng nhiều và đa dạng các loài hải sản. Tuy nhiên, 
những phát minh khoa học hiện đại này cũng không 
giúp con người có được sự tự tin, lạc quan về việc 
chinh phục thiên nhiên. Khái niệm không gian về 
biển liên quan mật thiết đến khái niệm sở hữu 
nguồn tài nguyên biển, về tiềm năng kinh tế biển... 
Đối với ngư dân, biển tồn tại là nguồn sở hữu 
chung. Do vậy, khi nghiên cứu về các cư dân biển, 
có nhiều quan niệm cho là các cư dân biển chỉ chú 
trọng đến kinh tế khai thác mà không có trách 
nhiệm với môi trường, cụ thể là vấn đề tái tạo và 
bảo tồn nguồn tài nguyên, giống như những cư dân 
trồng trọt và chăn nuôi. Như vây, vấn đề môi trường 
cần được xem như một nguyên tắc phát triển bền 
vững, theo đó, cần có những chính sách quản lý và 
biện pháp thực hiện quản lý tài nguyên biển để đảm 
bảo cho sự tái tạo của môi trường, đảm bảo môi 
trường sinh sống bền vững cho con người” [4]. 
Kết luận 
1. Nói đến Nam Bộ người ta quen nghĩ đến một 
vùng trọng điểm nông nghiệp, ít quan tâm đến hoạt 
động nghề biển của một bộ phận cư dân không nhỏ 
đang ngày đêm nhọc nhằn miệt mài lao động để làm 
giàu cho Tổ quốc. Như vậy vùng biển, đảo Nam Bộ 
cần được đánh giá, xác định vị trí và vai trò của nó 
về kinh tế và tiềm năng kinh tế trong cả hai thế 
mạnh cả về nông nghiệp lẫn ngư nghiệp cho những 
chiến lược lâu dài hàng trăm năm sau chứ không chỉ 
vài mươi năm, nhất là khi vùng biển Nam Bộ đang 
cần phải được quan tâm bởi vấn đề biến đổi khí hậu 
(climate change) đã, đang và sẽ diễn ra. Đời sống 
kinh tế đánh bắt thủy sản của cư dân vùng biển 
Nam Bộ ngày càng phát triển qua số lượng tàu đánh 
bắt xa bờ tăng rất nhanh hàng năm. Ngư dân vùng 
biển, đảo Nam Bộ đã thật sự làm chủ được các ngư 
trường đánh bắt và có khả năng “bám biển khơi dài 
ngày”, có khả năng đương đầu với rất nhiều thách 
thức từ phía thiên nhiên lẫn con người. Ngư dân 
Nam Bộ đủ sức để khẳng định “đẳng cấp” nghề 
biển của mình không hề thua kém với thành tích về 
nông nghiệp của nông dân cùng địa bàn. 
2. Đối với ngành nhân học biển, vận dụng lý 
thuyết sinh thái văn hóa (cultural ecology) và nhân 
học sinh thái (ecological anthropology) để giải thích 
sự thích nghi của cộng đồng ngư dân và cư dân 
trong môi trường sinh thái tự nhiên vùng biển Nam 
Bộ, đồng thời đó là tìm hiểu mối quan hệ giữa môi 
trường biển và hoạt động sinh tồn của các cộng 
đồng ngư dân và cư dân để có cơ sở tìm kiếm 
những chính sách hướng đến sự phát triển bền 
vững. Một chiến lược biển để thành công, hiêu quả 
cần được toàn thể công dân, các cấp chính quyền, 
đoàn thể, tổ chức nhiều thế hệ tiếp nối nhau quyết 
tâm thực hiện, có tính giao truyền, kế thừa đồng bộ 
chứ không phải trách nhiệm của một bộ phận nào. 
Hiện nay, vấn đề đời sống kinh tế, văn hóa, xã hôi 
của các cộng đồng cư dân vùng biển, đảo Nam Bộ 
thực chất là bài toán cần được giải quyết đồng bộ và 
toàn diện. Các tỉnh, thành có biển ở Nam Bộ cần có 
chiến lược hợp tác, liên kết với nhau thay vì chỉ 
hoạt động và hành động riêng lẻ. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 158 
The types of marine economies and economic 
potentials of the shore areas of South Vietnam - 
a cultural ecology approach 
 PhanThi Yen Tuyet 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
We apply the theory of cultural ecology to 
understand the adaptation of fishing communities 
and residents to the natural ecology of the 
southern region (of Vietnam). Cultural ecology 
describes the process of adapting between the 
social environments of an individual community to 
surrounding natural environment. Through 
reproducing rational interpretations of natural 
ecological environments, humans select a series 
of production methods and forms of residence, 
establishing patterned behaviors interacting with 
the natural world. American anthropologist Julian 
H. Steward used this concept to explain the 
adaptive behavior of human cultures and their 
interactions with the natural environment. By 
applying this theory we can examine the types of 
marine economy and economic potential of the 
shores and the islands of the southern region of 
Vietnam. 
Regarding the typology of marine economy, 
our islands demonstrate a range of issues such 
as: 
Means of fishing and gathering seafood along 
the waters of the islands of the southern region of 
Vietnam Aquaculture. 
The salt production industry 
The production of handicrafts along the shore 
areas of the southern region of Vietnam 
The travel industry of the southern region of 
Vietnam 
From the perspective of maritime 
anthropology, there is a need to understand the 
relationship between marine environment and the 
survival of active populations, from which we have 
gathered a new desire for policies to facilitate 
sustainable development of fisheries for workers 
and local residents. The concept of ‘marine space’ 
is closely related to the concept and potential of 
sovereignty over marine resources. For fishermen, 
the existence of marine resources are also the 
source of survival. Therefore, the study of maritime 
peoples is crucial in the fostering of core concepts, 
as the current status of these populations 
demonstrates a lack of social awareness toward 
economic exploitation and the concept of 
environmental sustainability. Sustainable 
development of maritime crafts and environmental 
issues should be considered as development 
principles. Accordingly, the management of these 
sectors should have policies and measures for 
better management of marine resources to ensure 
the regeneration of the environment and ensure a 
more sustainable habitat for humans. 
Keywords: cultural ecology, marine economies, maritime anthropology, marine environment, 
marine resources 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 159 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
[1]. Ban Tuyên giáo Trung ương (2010), Tài liệu 
Hội nghị tuyên truyền cổ vũ nhân rộng và phát 
triển làng nghề các tỉnh ven biển Tây Nam Bộ, 
Tổng quan về phát triển làng nghề - thực trạng 
và định hướng phát triển 2011 – 2030, Bộ 
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cà Mau. 
[2]. Đoàn Nô (2003), Ngư cụ thủ công chủ yếu và 
nghề cá ở Kiên Giang, NXB VHTT, Hà Nội. 
[3]. Giá Khê Trương Thanh Hùng (2003), Văn hóa 
ẩm thực Kiên Giang, NXB Văn hóa - Thông 
tin,tr.16 
[4]. Ngô Phương Lan, Môi trường và sinh tồn 
trong nghề biển, một số hướng tiếp cận, Tham 
luận Tọa đàm, Đề tài “Những vấn đề văn hóa 
xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ”, Trường 
ĐH KHXH& NV TP. HCM, 16- 10- 2010 
(CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). 
[5]. Nguyễn Hữu Luật, Biên bản phỏng vấn CTV 
Nguyễn Văn Thành (Bãi Thiên Tuế, xã Lại 
Sơn), 4-2006. 
[6]. Nguyễn Minh Đức (2008), Sinh thái văn hoá - 
Xu hướng nghiên cứu mới ở Vân Nam, Trung 
Quốc, Báo cáo Hội thảo, tr.32. 
[7]. Phạm Thanh Duy, Biển- Ngư dân, những vấn 
đề nảy sinh trong quá trình khai thác thủy hải 
sản tại Cà Mau ( Khảo sát tại địa bàn xã Đất 
Mũi, huyện Ngọc Hiển và thị trấn Sông Đốc, 
huyện Trần Văn Thời), Tham luận Tọa đàm 
“Những vấn đề văn hóa- xã hội của cư dân 
vùng biển Nam Bộ “ ngày 16-10-2010 tại 
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn 
TP. HCM (CNĐT: Phan Thị Yến Tuyết). 
[8]. Phạm Thanh Thôi, Từ góc nhìn của ngư dân 
biển Kiên Giang nhận diện các thách thức cho 
“Chiến lược biển Việt Nam đến 2020” , Tham 
luận Tọa đàm “ Những vấn đề văn hóa- xã hội 
của cư dân vùng biển Nam Bộ “ ngày 16-10-
2010 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và 
Nhân văn TP. HCM (CNĐT: Phan Thị Yến 
Tuyết). 
[9]. Phan Thị Yến Tuyết, Biên bản PV ông Bùi 
Văn Hồng, chủ cơ sở làm ghe, ấp An Thạnh, 
An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, 4- 2010. 
[10]. Phan Thị Yến Tuyết, Những vấn đề văn hóa 
xã hội của cư dân vùng biển Nam Bộ, đề tài 
trọng điểm cấp Đại học Quốc gia TP. HCM 
(2008- 2010). 
[11]. Phan Thị Yến Tuyết, Đô thị hóa ở vùng biển 
Nam Bộ: Trường hợp thị trấn Sông Đốc (Cà 
Mau), xã Bình An (Kiên Giang), xã An Thủy 
(Bến Tre), Tham luận hội thảo “Tác động của 
quá trình đô thị hóa đến phát triển khu vực 
nông thôn giai đoạn 2011- 2020”, do Trường 
ĐHKHXH& NV, ĐHQG Hà Nội) kết hợp với 
Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ tổ 
chức vào tháng 9 năm 2011. 
[12]. Phan Thị Yến Tuyết (2011), Du lịch biển, đảo 
trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, Hội thảo 
khoa Địa lý (Trường ĐHKHXH& NV TP. 
HCM): Du lịch biển, đảo và phát triển bền 
vững. 
[13]. Phụ lục quy hoạch phát triển sản xuất và tiêu 
thụ cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến 
2010, định hướng đến năm 2020, (Kèm theo 
Quyết định số: 102/2008/QĐ-BNN ngày 17 
/10/2008 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn. 
[14]. Phương Hằng, Triển vọng mới của nghề nuôi 
cấy ngọc trai, Báo Sàigòn giải phóng 
ngày/6/1996 
[15]. Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn 
(2010), Đồng quản lý khai thác, sử dụng và 
phát triển bền vững nguôn tài nguyên thiên 
nhiên và nguồn lợi thủy sản vùng ven biển tỉnh 
Bến Tre. 
[16]. Tổng cục thống kê (2007), Kết quả điều tra 
nông thôn nông nghiệp 2006, NXB Thống kê. 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 160 
[17]. Võ Công Nguyện, 16- 10- 2010, Một số loại 
hình hoạt động kinh tế truyền thống của các 
cộng đồng cư dân đa tộc người vùng đất giồng 
ven biển Đông ĐBSCL. Trường hợp cộng 
đồng cư dân đa tộc người xã Vĩnh Hải, huyện 
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, Tham luận, Tọa 
đàm khoa học, Đề tài những vấn đề văn hóa xã 
hội của cư dân vùng biển Nam Bộ, (CNĐT: 
Phan Thị Yến Tuyết). 
[18]. Internet, wwww. Kiengiang.gov.vn , Nguyễn 
Phong Thiên, Thông tin cập nhật ngày 8-7-
2005 
[19]. Internet, wwww. Kiengiang.gov.vn , Theo CT, 
Thông tin cập nhật ngày: 27-7-2005 
Tiếng nước ngoài 
[20]. Akifumi Iwabuchi, (Tokyo University of 
Marine Science & Technology), Disappearing 
Traditional Gears: From sustainable fishing to 
heavy exploitation in Southern Vietnam. 
Proceedings of the 5th mare people and Sea 
Coference, 8/11-7-2009, Amsterdam. 
[21]. Asahitaro Nishimura (197), A Preliminary 
report on current trends in marine 
anthropology, Center of Marine Ethnology, 
Waseda University, Tokyo, Japan. 
[22]. M. Estellie Smith (1977), Those who live from 
the sea, A study in Maritime Anthropology”, 
West Publishing Co, tr.3- 4. 
[23]. James Spradley & David W.Mc. Curdy 
(2003), Comformity and Conflict, Reading in 
cultural anthropology,11th edition, Pearson 
Education. 
[24]. W.A. Haviland (1993), Cultural 
Anthropology, Chapter 13:Religion and the 
Supernature. 

File đính kèm:

  • pdfnhung_loai_hinh_kinh_te_bien_dao_va_tiem_nang_kinh_te_tai_vu.pdf