Phát triển kinh tế tri thức – Sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam hiện nay

TÓM TẮT

Bài viết phân tích một cách khái quát về quá trình hình thành, khái niệm và đặc trưng của kinh tế

tri thức. Từ đó tác giả phân tích xu hướng phát triển kinh tế theo cách thức của kinh tế tri thức ở

các nước phát triển hiện nay. Theo xu thế chung đó, sự lựa chọn của Việt Nam theo xu hướng kinh

tế tri thức trong quá trình phát triển kinh tế là một yêu cầu tất yếu và khách quan để có thể đưa đất

nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp

phát triển.

pdf 6 trang yennguyen 4600
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển kinh tế tri thức – Sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển kinh tế tri thức – Sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam hiện nay

Phát triển kinh tế tri thức – Sự lựa chọn tất yếu của Việt Nam hiện nay
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 91
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC – SỰ LỰA CHỌN TẤT YẾU 
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 
Lê Thị Sự* 
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Bài viết phân tích một cách khái quát về quá trình hình thành, khái niệm và đặc trưng của kinh tế 
tri thức. Từ đó tác giả phân tích xu hướng phát triển kinh tế theo cách thức của kinh tế tri thức ở 
các nước phát triển hiện nay. Theo xu thế chung đó, sự lựa chọn của Việt Nam theo xu hướng kinh 
tế tri thức trong quá trình phát triển kinh tế là một yêu cầu tất yếu và khách quan để có thể đưa đất 
nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp 
phát triển. 
Từ khóa: Kinh tế tri thức; xu hướng phát triển; quá trình hội nhập, toàn cầu hóa; chiến lược phát triển 
Kinh tế tri thức (KTTT) là một khái niệm mới 
xuất hiện, nó được hiểu như một giai đoạn 
phát triển mới, cao hơn của nền kinh tế nhân 
loại. Mặc dù mới xuất hiện, nhưng với tốc độ 
phát triển nhanh chóng của mình, KTTT đã 
làm thay đổi một cách căn bản và sâu sắc cục 
diện nền kinh tế thế giới. Với sự xuất hiện của 
công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, 
công nghệ vật liệu mới, đặc biệt là sự xuất 
hiện của công nghệ thông tin, nền kinh tế thế 
giới đã có những bước nhảy vọt mạnh mẽ 
chưa từng có trong lịch sử. Ở các nước như 
Mỹ, Nhật Bản, Hà Lan, việc phát triển theo 
xu hướng tri thức hóa nền kinh tế đã làm cho 
nền kinh tế của họ phát triển vượt xa nền kinh 
tế của các nước kém phát triển. Việt Nam 
đang là một quốc gia đang trên con đường 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc lựa chọn 
con đường phát triển của KTTT là một yêu 
cầu khách quan của thời đại, nếu không, 
chẳng những chúng ta không thể “đi tắt, đón 
đầu” được mà nền kinh tế sẽ càng tụt hậu hơn 
so với nền kinh tế thế giới.* 
KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA 
KINH TẾ TRI THỨC 
Khái niệm kinh tế tri thức 
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện 
đại là tiền đề cho sự hình thành và phát triển 
nền kinh tế tri thức. Với ba phát minh vĩ đại 
của trí tuệ nhân loại nửa đầu thế kỷ XX: 
Thuyết tương đối của Anhxtanh, Thuyết 
*
 Tel: 01256 356666, Email; lesudhkhtn@gmail.com 
lượng tử của Blăngcơ và phát hiện ra mật mã 
di truyền của Oatxơn và Gricơ đã mở đầu cho 
một thời kỳ mới của khoa học và công nghệ 
hiện đại. Từ đây, đã tạo ra một hệ thống công 
nghệ mới, đó là các công nghệ vi điện tử, máy 
tính, quang điện, laze, vật liệu mới, hạt nhân, 
gen, tế bào 
Đến giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, cuộc 
cách mạng khoa học – công nghệ chuyển sang 
giai đoạn mới, giai đoạn bùng nổ công nghệ. 
Từ đó tạo ra một cuộc chạy đua ráo riết để 
chiếm lĩnh công nghệ cao trước thiên niên kỷ 
mới. Cuộc cách mạng công nghệ này đã tạo 
nên bộ mặt mới của nền kinh tế, tạo tiền đề 
hình thành KTTT và xã hội thông tin. 
Trong nền kinh tế mới này, tri thức và thông 
tin đã trở thành yếu tố sản xuất quan trọng 
nhất, hơn cả vốn, nguyên, nhiên liệu và năng 
lượng. Ngày nay, sự xuất hiện của các ngành 
công nghệ cao như công nghệ sinh học, công 
nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng và 
công nghệ thông tin đã phát triển rất mạnh 
mẽ, trở thành trụ cột của các nền kinh tế, tạo 
ra những biến đổi to lớn trong lực lượng sản 
xuất và toàn bộ xã hội loài người. 
Các chuyên gia của tổ chức Liên hợp quốc dự 
đoán, vào khoảng những năm 2030, ở các 
quốc gia phát triển, nền KTTT về cơ bản sẽ 
hình thành, và đến cuối thế kỷ XXI, nhân loại 
sẽ bước vào thời đại KTTT. 
Những năm gần đây, người ta đã dùng nhiều 
tên gọi khác nhau để chỉ giai đoạn phát triển 
mới của nền kinh tế này như: “Kinh tế thông 
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 92
tin”, “kinh tế mạng”, “kinh tế số”; “Kinh tế 
học hỏi”; “Kinh tế dựa vào tri thức”, “kinh tế 
dẫn dắt bởi tri thức”, “kinh tế tri thức”. 
Trong số các tên gọi trên, “kinh tế tri thức” là 
tên gọi thường được dùng nhất. Tổ chức 
OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) 
chính thức dùng từ năm 1996. Cách gọi này 
nói lên được nội dung của nền kinh tế mới 
xuất hiện này. Theo tổ chức này, KTTT được 
định nghĩa là những nền kinh tế dựa trực tiếp 
vào việc sản xuất, phân phối và sử dụng tri 
thức, thông tin [5; 98]. Tức là việc sản xuất, 
phân phối và sử dụng tri thức giữ vai trò 
quyết định trong phát triển kinh tế, tạo ra của 
cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống.. 
Ngoài ra còn có nhiều cách hiểu khác nhau về 
nền kinh tế mới này. Tuy nhiên, tất cả cách 
tiếp cận đó đều xoay quanh định nghĩa khái 
quát của tổ chức OECD. 
Đặc trưng của kinh tế tri thức 
Hiện nay, khi nhận định về đặc trưng của 
KTTT, các ý kiến phần lớn là giống nhau, chỉ 
khác nhau ở số lượng các đặc trưng. Dưới 
đây, chúng tôi xin trình bày một số đặc trưng 
chủ yếu của nền KTTT như sau: 
Đặc trưng cơ bản nhất của KTTT đó là nền 
kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức hay tri thức 
trở thành nguồn lực có ý nghĩa quyết định 
nhất đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Khác 
với các nền kinh tế đã có trong lịch sử (nền 
kinh tế nông nghiệp, nền kinh tế công 
nghiệp), tri thức là nguồn lực có vị trí quyết 
định nhất của sản xuất, là động lực quan 
trọng nhất cho sự phát triển kinh tế trong nền 
kinh tế tri thức. 
Trong nền KTTT, tri thức tham gia vào quá 
trình quản lý, điều khiển sản xuất, đồng thời 
trực tiếp là một thành tố trong các sản phẩm 
cũng như nguyên liệu sản xuất. Ngày nay, 
đúng như dự báo của C.Mác: Tri thức trở 
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Xu hướng 
này ngày càng được thấy rõ, có hơn 50% 
GDP hàng năm của các nước OECD có 
nguồn gốc từ tri thức, có tới 60% công nhân 
Mỹ là công nhân tri thức, trong cơ cấu giá trị 
các sản phẩm, giá trị của nó được cấu thành 
từ tri thức chiếm 70% – 80%, thậm chí có 
những sản phẩm còn cao hơn. 
Nền KTTT mang tính chất toàn cầu. Quá 
trình phát triển khoa học công nghệ, nhất là 
công nghệ thông tin và truyền thông, phát 
triển KTTT, cùng với quá trình phát triển 
thương mại, thị trường và quá trình toàn cầu 
hóa, nhất thể hóa các nền kinh tế là những 
quá trình đi liền nhau, gắn quyện với nhau, 
tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. 
Ngày nay, sự sản sinh ra, truyền bá và sử 
dụng tri thức không còn nằm trong phạm vi 
biên giới một quốc gia. Nền KTTT ra đời 
trong điều kiện nền kinh tế thế giới toàn cầu 
hóa; bất cứ ngành sản xuất nào, dịch vụ nào 
cũng đều dựa vào nguồn cung ứng từ nhiều 
nước và được tiêu thụ trên toàn thế giới. 
Người ta thường gọi nền KTTT là nền kinh tế 
toàn cầu hóa nối mạng, hay là nền kinh tế 
toàn cầu dựa vào tri thức. 
Phương thức phát triển cơ bản của nền KTTT 
là xã hội học tập, học tập suốt đời cho mọi 
người. Để có được tri thức, mọi người cần 
học tập thường xuyên hơn nữa, có tổ chức và 
dưới nhiều hình thức, mới có thể tiếp thu và 
biến tri thức chung thành cái của mình. Hơn 
nữa, muốn sử dụng tri thức chung như một 
loại hàng hóa thông thường, mỗi người lại 
phải biết chuyển hóa những tri thức đó thành 
kỹ năng. Với nền KTTT, việc có được nhiều 
hay ít tri thức là do quá trình học tập, tiếp thu 
tri thức và năng lực chuyển hóa tri thức của 
mỗi người. 
Nền KTTT là nền kinh tế phát triển bền vững 
và thân thiện với môi trường. Trong nền 
KTTT, sự phát triển của nó là dựa trên cơ sở 
kinh tế công nghệ cao, sử dụng một cách hợp 
lý, hiệu quả các nguồn tài nguyên và không 
gây ô nhiễm môi trường sống của con người, 
đồng thời khai phá nguồn tài nguyên thiên 
nhiên còn chưa được tận dụng hết để thay thế 
nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm đang 
gần cạn kiệt. Ví dụ, hiện nay nguồn năng 
lượng hóa thạch đang gây ô nhiễm nặng nề, 
với mối đe dọa về sự cạn kiệt dầu khí (giá dầu 
hiện nay có lúc đã lên đến hơn 
130USD/thùng) đang là nguy cơ đối với tính 
bền vững, thì nhờ hệ thống công nghệ cao, 
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 93
nền KTTT có thể chuyển sang hệ năng lượng 
mới rẻ tiền và phân phối đồng đều như năng 
lượng mặt trời, năng lượng nhiệt hạch, 
và nhân loại sẽ bước vào thời kỳ phát triển 
bền vững. 
Nền KTTT làm biến đổi cơ bản thị trường 
truyền thống. KTTT sinh ra trong điều kiện 
của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và 
hàng hóa tri thức ngày càng trở nên áp đảo 
trong thị thị trường đó. Tình hình này dẫn đến 
những thay đổi cơ bản trong thị trường truyền 
thống. Trước hết là vấn đề tài sản vô hình 
ngày càng trở thành vốn đầu tư chính. KTTT 
tất nhiên cũng cần các loại vốn thông thường 
(tiền, tài sản), nhưng thông tin, tri thức, tài 
sản trí tuệ, vốn người ngày càng trở nên quan 
trọng áp đảo (so với vốn tiền). Trong nền kinh 
tế Mỹ hiện nay, ở các doanh nghiệp công 
nghệ cao (Công nghệ phần mềm, viễn 
thông), số vốn vô hình chiếm tới trên 60% 
tổng số vốn hữu hình (tiền, tài sản). 
KTTT làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá 
trị xã hội. Trong nền KTTT, thành phần lao 
động dịch vụ tăng mạnh (có thể lên tới 80% - 
85%), thành phần công nghiệp giảm xuống 
dưới 10% - 15% và lao động nông nghiệp chỉ 
còn khoảng dưới 5%. Những người lao động 
tri thức chiếm tỷ lệ rất cao (≈70%), trong số 
đó, những công nhân tri thức tuy ít nhưng có 
trình độ và vai trò quyết định trong sản xuất. 
Trong xã hội xuất hiện các cộng đồng dân cư 
kiểu mới. Đó là các tổ hợp vừa sản xuất, vừa 
nghiên cứu, học tập, các làng khoa học, các 
công viên khoa học, các vườn ươm khoa học, 
được xây dựng. 
KINH TẾ TRI THỨC – CƠ HỘI VÀ 
THÁCH THỨC VỚI VIỆT NAM 
Thực trạng kinh tế tri thức ở Việt Nam 
hiện nay 
Nắm bắt được xu thế vận động của thời đại, 
ngay từ đầu Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo 
ra động lực cho việc hình thành và phát triển 
KTTT. Tuy nhiên, hiện nay về cơ bản nền 
kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang 
những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang 
chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí 
của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn 
cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri 
thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng 
xếp hạng. Chỉ số chung về KTTT (KEI) của 
Việt Nam hiện đang là 3,51, trong khi đó chỉ 
số KEI của một số nước trong khu vực là rất 
cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái 
Lan là 5,52 [6]. 
Cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện 
nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch 
vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, 
ngành nông nghiệp còn cao (năm 2010, nông 
nghiệp chiếm 20,6% GDP, công nghiệp 
41,1% và dịch vụ 38,3%). Cơ cấu lao động 
cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động 
trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ 
trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều 
hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 
80% lực lượng lao động làm việc trong các 
ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và 
triển khai. 
Thời cơ và thách thức của Việt Nam khi 
phát triển kinh tế tri thức 
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của cuộc 
cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu 
hóa hiện nay, các nước đang phát triển như 
Việt Nam có nhiều cơ hội nắm bắt các tri thức 
mới, công nghệ mới để rút ngắn quá trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. 
Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ các 
mô hình kinh tế đi trước cùng với việc biết 
phát huy nội lực và những lợi thế so sánh, 
tranh thủ nguồn ngoại lực sẽ giúp chúng ta có 
những bước đi phù hợp để phát triển nền kinh 
tế tri thức ở Việt Nam. Đó là một thời cơ lớn 
của đất nước. 
Tuy nhiên, Việt Nam bước vào xây dựng nền 
KTTT với điểm xuất phát thấp, còn nhiều 
thách thức rất gay gắt cần được khắc phục 
trong quá trình phát triển. Đó là những thách 
thức nảy sinh từ thực trạng nền kinh tế còn 
non yếu của chúng ta đứng trước bối cảnh nền 
kinh tế thế giới đang trong quá trình toàn cầu 
hóa mạnh mẽ, do chủ nghĩa tư bản chi phối, 
làm gia tăng nhanh khoảng cách phát triển và 
khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, 
làm cho các mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu 
sắc và gay gắt. 
Việt Nam bước vào KTTT trong khi sự chênh 
lệch về công nghệ với các nước phát triển là 
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 94
rất xa, những lợi thế về tài nguyên và nguồn 
lao động rẻ không còn là ưu thế, trong khi đó, 
chúng ta lại phải đi mua các sản phẩm công 
nghệ với giá rất cao. Mặt khác, các nước giàu 
đang dần đẩy các công nghiệp tốn nhiều năng 
lượng, nguyên liệu, và gây ô nhiễm sang các 
nước đang phát triển dưới hình thức đầu tư, 
khiến cho nguy cơ rủi ro của nền kinh tế 
chúng ta ngày càng lớn. Cộng vào đó là nạn 
chảy máu chất xám làm cho Việt Nam mất đi 
một nguồn lực đáng kể. 
TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT 
TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT 
NAM HIỆN NAY 
Kinh tế tri thức – xu thế phát triển của nền 
kinh tế thế giới 
Bản chất, đặc điểm cũng như biểu hiện của 
KTTT đã chứng tỏ rằng nền KTTT không 
phải là sự kỳ vọng hay mơ ước viển vông, mà 
đó là một xu thế vận động, phát triển được 
hiện thực hóa khá nhanh. Lực lượng sản xuất 
vốn là yếu tố động, cách mạng, vì thế nó 
không ngừng phát triển theo hướng tích cực, 
làm cho nền kinh tế chuyển biến từ kinh tế 
nông nghiệp đến kinh tế công nghiệp và ngày 
nay đang chuyển dần lên KTTT. KTTT là giai 
đoạn phát triển cao của lực lượng sản xuất, 
cũng như các nền kinh tế trước nó, KTTT là 
sự phát triển tất yếu của lực lượng sản xuất. 
Khi lực lượng sản xuất chủ yếu dựa vào lao 
động thủ công và đất đai thì ra đời nền kinh tế 
nông nghiệp, khi sản xuất dựa chủ yếu vào 
máy móc và tài nguyên thiên nhiên thì ra đời 
kinh tế công nghiệp, đến khi sự sản xuất ra 
của cải vật chất dựa chủ yếu vào tri thức thì ra 
đời KTTT. 
Đã gọi là xu thế khách quan thì không thể 
quay lưng lại hay từ chối nó mà có thể phát 
triển được. Nhờ sớm biết sử dụng tri thức để 
phát triển mà nền kinh tế của các nước phát 
triển đã vượt xa các nước đang phát triển cả 
về trình độ và tốc độ phát triển. Do tính linh 
hoạt, hiệu quả cao, các sáng kiến, phát minh 
khoa học xuất hiện ngày càng nhiều và điều 
quan trọng hơn là chúng được phổ biến cực 
nhanh trên diện rộng thông qua mạng internet 
siêu cao tốc đã tạo ra sự bứt phá nhanh trong 
tăng trưởng kinh tế. Theo tính toán của giới 
chuyên môn, chỉ tính riêng quá trình chuyển 
giao công nghệ được rút ngắn, có thể đẩy mức 
tăng trưởng kinh tế thế giới lên đến 1% hằng 
năm, tương đương với 300 tỷ USD và còn cao 
gấp bội theo mức gia tăng của tổng sản phẩm 
thế giới trong thế kỷ 21. Thành quả của 
KTTT là rất to lớn; bởi vậy, việc nắm bắt 
được xu thế phát triển của nền KTTT, đưa ra 
được những đối sách thích hợp trong chiến 
lược phát triển kinh tế có ý nghĩa vô cùng 
quan trọng đối với triển vọng phát triển của 
mỗi quốc gia hiện nay. 
Các nước đang phát triển hiện nay đang đứng 
trước những cơ hội mới, đồng thời cũng gặp 
không ít thách thức. Cơ hội lớn nhất là thông 
qua KTTT để đón đầu các công nghệ hiện đại 
sử dụng vào phát triển kinh tế - xã hội. Nếu 
nắm bắt được cơ hội lớn này, các nước đang 
phát triển có thể nhanh chóng bứt phá vươn 
lên, rút ngắn khoảng cách với các nước phát 
triển để không rơi vào nguy cơ tụt hậu. Xu thế 
toàn cầu hóa do KTTT đặt ra cho phép các 
nước chậm phát triển thực hiện chủ trương đa 
phương hóa quan hệ kinh tế và khoa học công 
nghệ với thế giới. Trên nền tảng quan hệ kinh 
tế, các nước chậm phát triển có khả năng chủ 
động khai thác những thành tựu khoa học 
công nghệ tiên tiến của các cường quốc trên 
thế giới. 
Kinh tế tri thức – sự lựa chọn của Việt Nam 
KTTT xuất hiện với tiền đề của cuộc cách 
mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang 
trở thành khuynh hướng tất yếu và khách 
quan của nền kinh tế thế giới trong thời đại 
ngày nay. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn 
tồn tại và phát triển được thì cũng không có 
con đường nào khác ngoài hướng cho nền 
kinh tế của mình đi theo cách thức phát triển 
mà nền KTTT yêu cầu. Đặc biệt, sự xuất hiện 
và phát triển của nền kinh tế mới này lại gắn 
liền với quá trình toàn cầu hóa. Do vậy, phát 
triển KTTT đồng thời phải đưa nền kinh tế 
hội nhập vào quá trình này. Không thể phát 
triển KTTT mà lại từ chối toàn cầu hóa và 
ngược lại, không thể tham gia vào quá trình 
toàn cầu hóa mà lại không phát triển KTTT. 
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, 
tham gia vào nền kinh tế thế giới với điểm 
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 95
xuất phát thấp, chúng ta cũng như các nước 
đang phát triển khác, đứng trước hai khả 
năng: hoặc biết tranh thủ thời cơ, có đường 
lối và chiến lược phát triển đúng, thông minh 
sáng tạo thì hoàn toàn có thể vươn lên, đi 
nhanh, sớm khắc phục tình trạng kém phát 
triển, sớm tiến kịp các nước đi trước; hoặc 
không đủ bản lĩnh chớp lấy thời cơ thì đất 
nước không thể thoát khỏi tình trạng nghèo 
nàn, tụt hậu ngày càng xa hơn, thậm chí bị gạt 
ra ngoài lề con đường phát triển của nền kinh 
tế thế giới. 
Do đó, đứng trước ngưỡng cửa của nền 
KTTT, ở Việt Nam vẫn có những quan điểm 
trái chiều. Có người ủng hộ xu thế mới này 
nhưng cũng có người không tin tưởng vào 
khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta. 
Nhận thức rõ được xu thế của thời đại, Đảng 
ta đã không ngừng đưa ra những chính sách 
đổi mới kịp thời, trở thành những chiến lược 
đúng đắn cho con đường đi lên của Việt Nam. 
Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã xác định: 
“Thế kỷ XXI sẽ có nhiều biến đổi. Khoa học 
và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. KTTT 
sẽ có vai trò ngày càng nổi bật trong quá 
trình phát triển lực lượng sản xuất” [1; 91]. 
Đến Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta 
tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh 
quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước 
ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa gắn với phát triển KTTT. Phải coi 
KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển 
mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh 
tế có giá trị gia tăng cao và dựa nhiều vào tri 
thức” [2; 28-29]. 
Như vậy, Đảng ta đã khẳng định, cần nắm bắt 
khoa học công nghệ hiện đại và KTTT để rút 
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
đất nước. Muốn rút ngắn phải biết tăng tốc và 
biết đi tắt, bỏ qua những bước đi mà các nước 
đi trước đã phải đi vòng do lúc đó chưa có 
điều kiện. Đảng ta quan niệm, KTTT là một 
thực tế khách quan, một trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất, nhưng đó không phải 
là một hình thái kinh tế - xã hội mới, cũng 
không phải là một lĩnh vực kinh tế độc lập, 
nằm ngoài các ngành kinh tế khác. Do vậy, 
chúng ta cần biết vận dụng những thành tựu 
của tri thức nhân loại để tiến hành công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nền 
kinh tế đất nước tiến kịp với nền kinh tế nhân 
loại, đồng thời xây dựng một xã hội xã hội 
chủ nghĩa công bằng và tiến bộ. 
Hội nhập vào nền kinh tế thế giới là một xu 
thế tất yếu, vì hiện nay không có một nền 
kinh tế nào có thể đứng độc lập mà phát triển 
được. Nhưng hội nhập mà không đủ năng lực 
nội sinh, không biết tận dụng các yếu tố thuận 
lợi của thời đại để phát triển nhanh thì sẽ bị 
cuốn hút, đè bẹp. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế 
so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách 
thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của 
Việt Nam quá thấp, lại phải phát triển trong 
môi trường cạnh tranh khốc liệt. 
Những khó khăn của đất nước khi hội nhập 
buộc chúng ta phải có những chiến lược phát 
triển phù hợp. Sự xuất hiện của KTTT là vận 
hội chưa từng có để Việt Nam đi tắt, đón đầu, 
từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế 
giới. Muốn làm được điều đó, điều quan trọng 
là phải có một thiết chế chính sách cụ thể, phù 
hợp cả trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực 
lẫn chính sách phát triển kinh tế hợp lý, cơ 
chế phát triển thông thoáng của hệ thống 
chính sách của nhà nước. 
KẾT LUẬN 
KTTT là vận hội để chúng ta đẩy nhanh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam 
cần tận dụng cơ hội đó để thực hiện chiến 
lược phát triển đi tắt, đón đầu, rút ngắn 
khoảng cách, không bị tụt hậu so với nền kinh 
tế thế giới. Đi tắt cũng có nghĩa là phải kết 
hợp hai quá trình: chuyển từ kinh tế nông 
nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế 
công nghiệp lên KTTT. Ở Việt Nam, hai quá 
trình ấy phải tiến hành đồng thời, lồng ghép 
vào nhau, hỗ trợ cho nhau. Thực hiện được 
điều đó là một khó khăn rất lớn, đồng thời 
cũng là một lợi thế của các nước đi sau như 
Việt Nam chúng ta. 
Lê Thị Sự Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 91 - 96 
 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001): Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính 
trị Quốc gia, Hà Nội. 
[3]. Phạm Thị Hồng Điệp, “Nguồn lực con người 
và phát triển bền vững KTTT”, Tạp chí Khoa học 
xã hội, số 1 – 2008. 
[4]. Phạm Minh Hạc (Chủ nhiệm, 1996), Vấn đề 
con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[5]. Đặng Hữu (2004), KTTT, thời cơ và thách 
thức đối với xã hội Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội. 
[6]. Nguyễn Trọng Tuấn 
SUMMARY 
KNOWLEDGE ECONOMY – 
THE INEVITABLE CHOICE OF VIETNAM TODAY 
Le Thi Su* 
College of Sciences – TNU 
Knowledge Economy is becoming the mainstream of the world economy. Initially, this article 
analyzes an overview of the process of formation, concepts and characteristics of the knowledge 
economy. Since then, the author analyzes economic trends in the manner of the knowledge 
economy in the developed countries today. According to this general trend, the choice of Vietnam 
as economic trends in the knowledge of economic development is an indispensable requirement 
and objective to be able to get the country out of poverty, backwardness, making Vietnam soon 
become a developed industrial countries. 
Keywords: Knowledge Economy; development trend; intergration strategy; globalization; 
development strategy 
Ngày nhận bài: 31/5/2012, ngày phản biện: 01/6/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012 
*
 Tel: 01256 356666, Email; lesudhkhtn@gmail.com 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_kinh_te_tri_thuc_su_lua_chon_tat_yeu_cua_viet_nam.pdf