Phòng, chống tham nhũng gắn với kiểm soát quyền lực và vai trò của kiểm toán nhà nước
Theo thông lệ quốc tế, Kiểm toán nhà nước (KTNN) được xác định là “cơ quan kiểm toán tối cao” của nhà nước, với nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động kiểm toán là “độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Luật KTNN và các quy định cụ thể của hệ thống các quy phạm pháp luật về KTNN của Việt Nam đã tạo lập địa vị pháp lý, xác định chức năng, nguyên tắc hoạt động, tổ chức bộ máy để KTNN trở thành một công cụ mạnh trong hệ thống các công cụ kiểm soát quyền lực. Bài viết này tiếp cận vai trò của KTNN trên góc độ là một công cụ có hiệu lực của Nhà nước trong kiểm soát quyền lực quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công
Bạn đang xem tài liệu "Phòng, chống tham nhũng gắn với kiểm soát quyền lực và vai trò của kiểm toán nhà nước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phòng, chống tham nhũng gắn với kiểm soát quyền lực và vai trò của kiểm toán nhà nước
11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 PHOØNG, CHOÁNG THAM NHUÕNG GAÉN VÔÙI KIEÅM SOAÙT QUYEÀN LÖÏC VAØ VAI TROØ CUÛA KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC PGS.TS. NGUYỄN ĐìNH HòA* * Q. Giám đốc, Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán Tham nhũng là hiện tượng xã hội được sinh ra từ chế độ chiếm hữu nô lệ - khởi nguồn của chế độ tư hữu và tiếp diễn trong suốt diễn trình lịch sử loài người cho đến nay. Đặc biệt, từ nửa cuối thế kỷ thứ XX, tham nhũng nổi lên như căn bệnh kinh niên, ác tính bùng phát, không chỉ đe doạ đến nền kinh tế, văn hóa lẫn đạo đức của loài người mà còn có sức tàn phá và kìm hãm rất lớn đối với sự phát triển của mọi quốc gia. Chính vì vậy, trong khoảng 30 năm trở lại đây, nhiều quốc gia, nhiều khu vực đã hao tâm, tổn trí rất nhiều vào việc tìm kiếm những giải pháp, đưa ra những tuyên bố đầy quyết tâm và mở những chiến dịch bền bỉ để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng một cách hữu hiệu, song hiệu quả cũng còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển và đòi hỏi của nhân loại tiến bộ. Việt Nam cũng không là ngoại lệ trong cuộc chiến cam go này. Vì thế, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chưa bao giờ, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng lại được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như hiện nay. Một trong những giải pháp hữu hiệu của cuộc chiến phòng chống tham nhũng là phải gắn liền với kiểm soát quyền lực. Do đó, bài viết sẽ tập trung bàn luận về phòng chống tham nhũng gắn liền với cơ chế kiểm soát quyền lực, những nhân tố tác động đến kiểm soát quyền lực và vai trò của Kiểm toán nhà nước (KTNN) trong vấn đề kiểm soát quyền lực để phòng chống tham nhũng. Từ khóa: Phòng chống tham nhũng, kiểm toán nhà nước. Anti-corruption with power control and the role of state audit of Vietnam Corruption is a social phenomenon initiated from chattel slavery system - the origin of the private ownership regime and continues throughout the history of human history to date. In particular, since the second half of the twentieth century, corruption has emerged as a chronic, malignant disease that not only threatens the economy, culture and morality of the mankind but also is destructive and great restraint on the development of every country. Therefore, in the past 30 years, many countries, many areas have been devastated to find solutions, make determined statements and open enduring campaigns to effectively prevent and repel corruption, but efficiency is far from meeting the requirements of development and the demanding of the progressive human kind. Vietnam is no exception in this tough fight. Therefore, fighting against corruption is one of the important tasks in the revolutionary cause of the Party and our people. The fight against corruption has never been led and directed by the Party, the State as hard as it is now. One of the effective solutions of the fight against corruption is to be tied to power control. Therefore, the article will focus on the discussion of anti-corruption associated with the power control mechanism, the factors affecting the control of power and the role of the State Audit of Vietnam (SAV) in the issue of control of power to prevent corruption. keywords: Anti-corruption, State Audit of Vietnam. 1. Tổng quan về tham nhũng 1.1. Khái niệm Tham nhũng được hiểu là sự lạm dụng quyền lực công cho các lợi ích của cá nhân hoặc cho lợi ích của một nhóm người. Thực ra tham nhũng không chỉ xảy ra trong khu vực công mà còn xảy 12 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 ra ở chỗ giao thoa giữa khu vực công và khu vực tư nhân, khi chức vụ bị lạm dụng thông qua việc nhận, vòi vĩnh hoặc đòi tiền hối lộ. Theo tài liệu “Pillars of Integrity: The Importance of Supreme Audit Institutions in Curbing Corruption - Các trụ cột của sự liêm chính: Tầm quan trọng của các tổ chức kiểm toán tối cao trong việc kiềm chế tham nhũng” của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất bản năm 1998, tham nhũng được phác họa theo mô hình sau: Tham nhũng = Độc quyền + Sự tùy tiện - Trách nhiệm giải trình (Corruption = Monopoly Power + Discretion - Accountability) Nói cách khác, phạm vi của tham nhũng phụ thuộc vào độ lớn của sự độc quyền và quyền tự quyết (sự tùy tiện) của các công chức, viên chức nhà nước. Sự độc quyền phát huy ưu thế trong các nền kinh tế được kiểm soát chặt chẽ, còn sự tùy tiện là vấn đề của các nền kinh tế đang chuyển đổi và các nước đang phát triển, nơi mà các quy định và các thủ tục hành chính thường không chặt chẽ và không rõ ràng. Tham nhũng gắn liền với quyền lực khi quyền lực bị tha hóa. 1.2. Bản chất của tham nhũng Bản chất của tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực để vụ lợi, tham nhũng có thể xảy ra ở mọi quốc gia, không phân biệt thể chế chính trị, không phân biệt quốc gia giàu hay nghèo mà chỉ khác nhau ở tính chất, mức độ và thái độ xử lý đối với tham nhũng như thế nào mà thôi. Trong tham nhũng, yếu tố quyền lực là quyết định, phải có quyền lực thì mới có thể sử dụng nó để thu lợi, vậy bản chất của tham nhũng chính là sự “tha hóa” quyền lực để thực hiện lợi ích cá nhân hoặc của một nhóm người làm phương hại đến lợi ích của các cá nhân khác, của tập thể và của toàn xã hội. Thực tiễn đã chứng minh, khi quyền lực càng cao, càng tuyệt đối thì sự “tha hóa” càng gia tăng, nếu không có chế tài kiểm soát quyền lực hiệu quả. 2. Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực nhà nước 2.1. Xuất phát từ căn nguyên của quyền lực nhà nước Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (NNPQXHCN) ở Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng về mặt kết cấu và chức năng lại phải phân công, phân quyền và phối hợp với nhau. 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 Phân công, phân quyền và phối hợp với nhau là tất yếu khách quan. Sự phân quyền, phối hợp này phải nằm trong sự giám sát, chế ước lẫn nhau. Phân công - phân quyền, hợp tác và kiềm chế - giám sát lẫn nhau là ba mặt, ba chức năng khác nhau không thể xem nhẹ một mặt, một chức năng nào, nhưng lại ràng buộc và bổ sung cho nhau. Chính từ đó, chúng mới tạo nên tính hợp trội trong chỉnh thể hệ thống và bảo vệ được sức sống của nó, chống sự tha hóa quyền lực từ bên trong. Do vậy, trong NNPQXHCN không chỉ phân công và hợp tác mà còn là kiểm soát, kiềm chế giữa các quyền lực với nhau, đây là một tất yếu khách quan bởi những lẽ sau: - Thứ nhất, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của NNPQXHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà là quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại ủy quyền cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và lẽ tự nhiên là phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền là Nhà nước. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước là một đại lượng định tính do đó không thể cân, đong, đo, đếm xác định được một cách chính xác, để có thể giao quyền một cách cụ thể. Điều đó lại càng đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước một cách chặt chẽ để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước bị hạn chế. - Thứ hai, Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước là loại bỏ những điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và giai cấp, đây chính là quá trình khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân, quyền lực thực hiện chức năng công quản xã hội. Nhưng khi quyền lực của tổ chức, của nhóm người, thậm chí của một người, khi đã được Nhân dân trao cho rồi thì rất dễ bị tha hóa. Tha hóa là sự làm biến chất thành xấu đi hoặc thành cái khác đối nghịch lại. Tha hóa quyền lực là việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được trao trong quá trình thực thi chức trách, bổn phận, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, như: Lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, không thực hiện hay thực hiện không hết quyền lực được trao. Tha hóa quyền lực làm biến tướng bản chất, mục đích của quyền lực đó: Quyền lực đã không được thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích chung, vì lợi ích của Nhân dân mà quyền lực bị tha hóa đã thực hiện vì mục đích của “nhóm lợi ích”, vì lợi ích của cá nhân là tiền đề cho tham nhũng. Qua thực tiễn phát triển của lịch sử chúng ta nhận thấy rằng, xã hội càng văn minh thì sự tha hóa quyền lực càng tinh vi hơn. Khi quyền lực Nhân dân trao cho tổ chức, cho nhóm người, cho cá nhân bị tha hóa thì tất yếu khách quan phải có sự kiểm soát quyền lực. Quyền lực bị tha hóa mà không bị kiểm soát thì sẽ gây nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội, cho Nhân dân. Trao quyền lực, thực thi quyền lực, dĩ nhiên đồng thời với việc phải kiểm soát quyền lực. Trong bất kỳ điều kiện nào, sự tha hóa quyền lực ở cán bộ và các cơ quan đều là nguyên nhân lớn nhất làm cho đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc bị mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ và quốc gia không thể hưng thịnh, không có đủ sức mạnh để bảo vệ Tổ quốc, mục tiêu XHCN tốt đẹp mà nhiều người đã từng mong ước cũng trở nên xa vời. Lịch sử nước ta đã từng có nhiều lần do tha hóa quyền lực mà dẫn đến mất nước. Hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bị sụp đổ vì tha hóa quyền lực. Triều đại sau được dân chúng ủng hộ lên thay, rồi cũng tha hóa tương tự, lặp lại như cũ. Ngay cả những triều đại đã một thời rất huy hoàng, hưng thịnh có công lao to lớn bậc nhất với lịch sử dân tộc nhưng sau đó cũng tha hóa và sụp đổ (như nhà Lý, nhà Trần, Hậu Lê và Tây Sơn...). 14 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 Quyền lực của tổ chức, của nhóm người, của cá nhân không phải là quyền lực tự có, mà là quyền lực của Nhân dân, được Nhân dân trao cho họ, ủy quyền cho họ thực hiện để phục vụ Nhân dân, phục vụ cho việc xây dựng, phát triển đất nước và chính Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực, xem các tổ chức, các nhóm người, các cá nhân có thực hiện đúng, đủ quyền lực Nhân dân ủy quyền cho họ hay không. Trên thực tế, có những tổ chức, những nhóm người, những cá nhân khi được Nhân dân trao cho quyền lực nào đó thì thường lại biến quyền lực của Nhân dân trao cho thành quyền lực đặc quyền của tổ chức mình, nhóm người mình, cá nhân mình. Đó là sự tha hóa quyền lực mà Nhân dân cần phải kiểm soát để chấn chỉnh. Thứ ba, Nguyên nhân sâu xa của sự tha hóa quyền lực là chủ nghĩa cá nhân, là lợi ích cá nhân của bản thân, của gia đình, của “nhóm lợi ích” như Bác Hồ đã từng khẳng định. Bộ máy tổ chức, một nhóm người hay một cá nhân là do Nhân dân xây dựng nên, bầu ra, bổ nhiệm để trao quyền lực, ủy quyền thực hiện chức trách, nhiệm vụ vì lợi ích chung, vì lợi ích của Nhân dân; nhưng khi được trao quyền lực rồi thì bộ máy đó, nhóm người đó, cá nhân đó lại tách rời khỏi xã hội, tách rời khỏi Nhân dân, đứng trên xã hội, đứng trên Nhân dân, biến quyền lực Nhân dân trao thành quyền lực của mình, thực hiện chúng vì lợi ích cá nhân của bản thân, của gia đình, của “nhóm lợi ích”. Do đó, để chống được tham nhũng, vấn đề quan trọng có tính quyết định là phải kiểm soát cho được quyền lực nói chung và quyền lực nhà nước nói riêng. Vì thế, có thể nói rằng, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích; đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả. - Theo kinh nghiệm tổ chức quyền lực nhà nước trong diễn trình phát triển của xã hội loài người, kiểm soát quyền lực nhà nước là yếu tố thể hiện tính pháp quyền và dân chủ của một bộ máy nhà nước, là nhân tố góp phần làm nên sự giàu có của một quốc gia. Với vai trò to lớn như vậy, việc kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức quyền lực nhà nước là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong xây dựng NNPQXHCN ở nước ta và việc kiểm soát quyền lực phải được luật định cụ thể và phải có cơ chế rõ ràng mới có hiệu lực và hiệu quả. 2.2. Cơ chế và đặc điểm của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước Cơ chế kiểm soát việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước (TC&THQLNN) trong NNPQXHCN là tổng hợp các hình thức và các biện pháp do luật định để đảm bảo cho hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tương ứng với ba nhánh quyền lực chuyên trách công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy công quyền, cũng như công vụ của các công chức bộ máy đó đạt hiệu quả cao, phù hợp với các nguyên tắc, giá trị cơ bản mang tính phổ quát của NNPQXHCN. [3] Các đặc điểm chủ yếu của cơ chế kiểm soát việc TC&THQLNN trong NNPQXHCN phải được thể hiện ở những điểm sau đây: Đặc điểm thứ nhất, cơ chế kiểm soát việc TC&THQLNN trong NNPQXHCN là tổng hợp các hình thức và các biện pháp do luật định. Đặc điểm này được thể hiện ở những nội dung như: Các hình thức và các biện pháp pháp lý của cơ chế kiểm tra, giám sát phải do luật định, tức là các hình thức và các biện pháp đó phải được ghi nhận bằng các văn bản pháp luật của Nhà nước - từ Hiến pháp (Đạo luật cơ bản của Nhà nước) cho đến các văn bản luật và các văn bản dưới luật; Các loại văn bản khác nhau đó điều chỉnh hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên trách công tác kiểm tra, giám sát. Đặc điểm thứ hai, cơ chế đó đảm bảo cho hoạt động của một hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyên trách công tác kiểm tra, giám sát và được tổ chức tương ứng với ba nhánh quyền lực trong NNPQXHCN, nhằm đảm bảo: Tính khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và đồng bộ trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước; cũng như sự phối hợp và chế ước lẫn nhau của ba nhánh quyền lực để sao cho không có sự lấn át của các nhánh quyền lực đối với nhau. 15NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 Đặc điểm thứ ba, cơ chế kiểm soát việc TC&THQLNN trong NNPQXHCN được thực hiện bằng một hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với đối tượng nhất định - quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy công quyền, cũng như công vụ của các công chức bộ máy đó. Đặc điểm thứ tư, mục đích hoạt động của cơ chế kiểm soát việc TC &THQLNN trong NNPQXHCN là nhằm làm cho quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy công quyền, cũng như công vụ của các công chức bộ máy đảm bảo: đạt được hiệu quả cao, công khai và minh bạch; phù hợp với những nguyên tắc và giá trị cơ bản có tính phổ quát của NNPQXHCN. 3. Các giải pháp phòng chống tham ... t bại đều do cán bộ tốt hay kém”[273;1]. Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến cá nhân người cán bộ khi được trao quyền lực, Người cho rằng: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Sau khi có đường lối đúng thì khâu quyết định là lựa chọn đúng cán bộ. Người căn dặn: Cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Người cho rằng: “Đức” là cái gốc của cán bộ. Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân và sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng. Người nhắc nhở: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[ 104; 1]. Vì vậy, cần phải “quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sai lầm đó”, “cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc”[208; 1]. Thứ hai, Kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi một cách thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ của Nhân dân, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thực hiện nghiêm túc quan điểm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; thông qua chế độ tranh cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý công khai, minh bạch; mọi công việc của đất nước, của Nhân dân phải rất coi trọng chế độ công khai, minh bạch: Công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tất cả các tổ chức, các cơ quan, đơn vị, của tất cả các cá nhân từ người giữ cương vị cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức để Nhân dân kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện; công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được trao quyền lực; thông qua việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, của Nhân dân, của công luận; thông qua việc tự do tư tưởng, tự do ngôn luận để Nhân dân thể hiện chính kiến của mình tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị; Nhân dân tham gia xây dựng đất nước, làm chủ đất nước. 3.2. Giải pháp kiểm soát quyền lực để chống sự tùy tiện Để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả việc trao quyền lực và kiểm soát việc thực thi quyền lực và chống tha hóa quyền lực của cán bộ, đảng viên, công chức trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau đây: Một là, cụ thể hóa các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nói chung, các tổ chức đảng nói riêng và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc này. Xây dựng quy chế, quy định cụ thể việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, 16 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 nguyên tắc tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Sớm ban hành quy chế dân chủ trong Đảng; Quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; quy chế đối thoại giữa người đứng đầu tổ chức đảng, tổ chức nhà nước với nhân dân; quy chế truy cứu trách nhiệm của tập thể tổ chức đảng và cá nhân đảng viên có khuyết điểm, vi phạm và tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế này. Hai là, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và pháp luật của Nhà nước PQXHCN một cách đồng bộ, chặt chẽ, hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo cán bộ, công chức và viên chức không muốn, không cần, không thể và không dám lạm quyền, lộng quyền để tham nhũng nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn sự tha hóa quyền lực một cách hiệu quả. Mục tiêu, yêu cầu của việc trao và thực thi quyền lực được trao của cán bộ, công chức và viên chức phải bảo đảm nguyên tắc: Rõ quyền; đủ quyền; đúng quyền; thực quyền; trong thực thi quyền lực phải thực hiện đúng và hết trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; phối hợp thực thi quyền lực giữa các cơ quan theo đúng quy định. Không được: Lạm quyền; lộng quyền; tiếm quyền; cướp quyền; trộm quyền; tranh đoạt quyền; ngơ quyền; né tránh quyền hoặc đùn đẩy quyền của mình cho cấp trên hoặc cho cơ quan, đơn vị, tổ chức khác giải quyết, xử lý (nếu thấy không có lợi hoặc không đủ tự tin) để chối bỏ trách nhiệm; làm trái chức trách, nhiệm vụ được giao một cách tùy tiện. Ba là, nghiên cứu thực hiện chế độ phân cấp, phân quyền theo hướng đổi mới tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị đồng bộ, tinh giản đầu mối tránh chồng chéo, phù hợp chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của mỗi tổ chức, phù hợp, thống nhất giữa cấp trên với cấp dưới; không nhất thiết cứ cấp trên có tổ chức nào cấp dưới cần có tổ chức đó; tinh giản biên chế theo hướng tinh gọn, rõ việc, rõ người, không chồng chéo chức trách, nhiệm vụ. Bốn là, ban hành và tổ chức thực hiện tốt chế độ đối thoại dân chủ trong Đảng, đối thoại với cơ sở. Thực hiện chế độ thường xuyên nghiên cứu, tổng kết thực tiễn bảo đảm khoa học, thiết thực, tránh hình thức để rút ra những bài học hữu ích. 3.3. Tăng cường trách nhiệm giải trình của tổ chức và cá nhân Theo quy định của Nghị định 90, giải trình là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nghị định này quy định về điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình; quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình và người giải trình; trình tự, thủ tục của việc giải trình và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình. Nguyên tắc thực hiện và áp dụng pháp luật về trách nhiệm giải trình là bảo đảm công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời và đúng thẩm quyền; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Công khai, minh bạch là một nội dung quan trọng mang tính đặc trưng của NNPQXHCN. Mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí mật Nhà nước và những nội dung khác theo quy định của pháp luật thuộc bí mật Nhà nước. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đồng nghĩa với việc thực hiện công khai, minh bạch của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Quyền tiếp cận thông tin và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của cá nhân, tổ chức là một biện pháp rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 4. Vai trò của cơ quan kTNN trong kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng Theo những luận giải vừa phân tích ở trên, các chiến lược hữu hiệu để chống lại tham nhũng là tìm cách giảm sự độc quyền của các công chức, viên chức nhà nước, giảm quyền tự quyết và nâng cao tính trách nhiệm giải trình. Việc làm này được thực hiện bằng cách tiến hành một cách sâu rộng nền hành chính công, trong đó tăng cường vai trò của cơ quan giám sát độc lập - cơ quan Kiểm toán nhà nước. 17NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019 Kiểm toán nhà nước chính là một bộ phận quan trọng cấu thành bộ máy và cơ chế kiểm soát TC&THQLNN không thể thiếu trong NNPQXHCN. Tài chính công là công cụ bảo đảm nguồn lực tài chính cho việc duy trì sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của bộ máy Nhà nước; là công cụ quan trọng trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Do đó, tài chính công là đối tượng quan trọng phải được kiểm tra kiểm soát và chủ thể kiểm tra kiểm soát đó chính là KTNN, sự ra đời và tồn tại cũng như hoạt động KTNN là nhu cầu thiết yếu của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công do Quốc hội thành lập, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN góp phần quản lý điều hành có hiệu quả tài chính công và tài sản công. KTNN không chỉ góp phần quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu công chống tham ô, lãng phí, thất thoát, mà quan trọng hơn phải làm cho đồng tiền thuế của nhân dân được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả cao. KTNN kiểm toán để kiểm soát chi tiêu công so sánh chi phí đầu vào và kết quả đầu ra để góp phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công. KTNN từng bước đẩy mạnh kiểm toán hoạt động để phân tích, đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội trong sử dụng nguồn lực công, nhất là các dự án đầu tư, các chương trình mục tiêu quốc gia. KTNN góp phần ngăn ngừa rủi ro, răn đe phòng ngừa sai phạm để nâng cao hiệu quả trong chi tiêu công khi thực hiện kiểm toán trước “tiền kiểm” và “hậu kiểm” các khoản chi tiêu công. Kiểm toán trước có lợi ích là ngăn ngừa những thiệt hại ngay trước khi nó xảy ra, tránh lãng phí nguồn lực; còn “hậu kiểm: để chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan trong việc vi phạm đến chế độ, chính sách quản lý tài chính công. Tổng hợp kết quả kiểm toán từ khi thành lập 1994 cho đến năm 2018, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý về tài chính hàng trăm nghìn tỷ đồng, chủ yếu là tăng thu và giảm chi NSNN, ghi thu - ghi chi để quản lý qua NSNN. Đặc biệt trong năm 2018, KTNN đã kiến nghị xử lý tài chính đến ngày 31/12/2018 là 89.600 tỷ đồng (trong đó, thu về NSNN 20.518 tỷ đồng, giảm chi NSNN 23.948 tỷ đồng, kiến nghị xử lý khác 45.134 tỷ đồng), trong đó tăng thu, giảm chi NSNN (44.466 tỷ đồng) tăng 18,39% so với năm 2017 (37.556 tỷ đồng). Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng nhấn mạnh, đây là kết quả đạt được cao nhất từ trước đến nay. Qua kiểm toán, KTNN còn kiến nghị sửa đổi, hủy bỏ 115 văn bản pháp luật (2 luật, 4 nghị định; 15 thông tư; 15 nghị quyết; 28 quyết định; 51 văn bản khác) nhằm bịt lỗ hổng về cơ chế, tổ chức thực hiện quy định của Nhà nước tránh thất thoát, lãng phí; kiến nghị xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật đối với hàng chục tập thể và cá nhân. Đáng chú ý, KTNN đã chuyển hồ sơ 5 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật được phát hiện thông qua kết quả kiểm toán sang Cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.[5] Quan trọng hơn, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN có điều kiện xem xét đánh giá chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn định mức, chế độ chi và nhận diện được những bất cập, không phù hợp với thực tiễn hoặc những kẽ hở trong chính sách để góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống chế độ định mức, tiêu chuẩn chi tiêu công nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý kiểm tra, kiểm soát chi tiêu công. Đặc biệt, qua kết quả kiểm toán, tính riêng từ năm 2006 kể từ khi Luật KTNN có hiệu lực cho đến nay, KTNN đã kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ gần 500 văn bản quy phạm pháp luật và văn bản quản lý sai quy định hoặc không phù hợp với thực tế để bịt lỗ hổng về chính sách và pháp luật. Thông qua báo cáo quyết toán NSNN hàng năm, Quốc hội, Chính phủ, HĐND các cấp có thêm thông tin đáng tin cậy để xem xét, đánh giá công tác quản lý, điều hành ngân sách của Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Những thông tin từ báo cáo kiểm toán quyết toán NSNN cùng với ý kiến thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội, HĐND, cũng như ý kiến giải trình thuyết minh của Chính phủ, UBND là cơ sở quan trọng để Quốc 18 Kieåm toaùn nhaø nöôùc vôùi nhieäm vuï phoøng choáng tham nhuõng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 138 - tháng 4/2019 hội, HĐND thảo luận, quyết định các cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực nâng cao hiệu quả quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn cụ thể. Những kết luận, kiến nghị của KTNN ở tầm vĩ mô mang tính hệ thống sẽ là căn cứ khoa học thực tiễn để cho Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các Bộ, Ngành điều chỉnh các quyết sách của mình đối với nền kinh tế, xử lý kịp thời những sai phạm, các mất cân đối trong việc thu chi và sử dụng tài chính công nói riêng và hoạt động nền kinh tế nói chung. Như là một phần không thể thiếu của quản trị quốc gia, KTNN thực hiện chức năng của mình theo quy định của pháp luật, đảm bảo chức năng giám sát, kiểm tra, đánh giá và đưa ra những kiến nghị về chính sách vĩ mô của quốc gia. Do đó KTNN phải tạo được niềm tin, sự trung thực, khách quan và sẽ tiếp tục đóng góp vào việc: - Bảo vệ nền dân chủ và pháp quyền bằng cách nâng cao tính minh bạch, giữ vững trật tự, chống lại việc lạm dụng quyền lực. Trong một số trường hợp, KTNN đóng vai trò cố vấn bằng các kiến nghị về thay đổi hoàn thiện hệ thống pháp luật. KTNN có thể giúp nâng cao niềm tin giữa Nhà nước và người dân bằng cách thúc đẩy Chính phủ mở cửa và người dân được đóng góp ý kiến nhiều hơn nữa. - Nâng cao hiệu quả quản trị bằng cách kiểm tra và đánh giá các hoạt động của Chính phủ, chỉ ra những yếu kém, tồn tại cần khắc phục. KTNN đưa ra những kiến nghị mang tính độc lập và khách quan, khuyến khích Chính phủ tăng cường kiểm soát hơn nữa. KTNN cũng thúc đẩy việc sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý, phân bổ, sử dụng tài chính công tránh thất thoát, lãng phí và phòng chống tham nhũng. - KTNN đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống tham nhũng và gian lận ở cả cấp quốc gia và quốc tế. KTNN với những kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn kiểm toán, một mặt tăng cường tính minh bạch, mặt khác đưa ra những sáng kiến mới về chống tham nhũng bằng việc bịt các kẽ hở của hệ thống chính sách và pháp luật. - Bảo vệ lợi ích quốc gia, bằng cách sử dụng tính độc lập, khả năng dự báo và năng lực chuyên môn để cung cấp thông tin kịp thời, khách quan và đáng tin cậy, chỉ ra những rủi ro tiềm tàng về kinh tế và xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững đất nước. - Thúc đẩy việc cải thiện đời sống của người dân bằng cách kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn và các dự án của Chính phủ, đảm bảo đạt được mục tiêu đề ra, nhằm cải thiện cuộc sống người dân và quyền bình đẳng cho tất cả mọi người, kể cả các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. - Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm thông qua việc kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán nhằm thúc đẩy trách nhiệm giải trình, đồng thời khuyến khích Chính phủ và các tổ chức thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực. KTNN cung cấp cho xã hội và người dân những thông tin đã được kiểm toán và chỉ ra những trách nhiệm liên quan, qua đó tăng cường tính minh bạch hơn nữa. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000; 2. Kenneth M Dye and Rick Stapenhurst: Pillars of Integrity: The Importance of SupremeAudit Institutions in Curbing Corruption. The Economic Development Institute of the World Bank 1998; 3. Nguyễn Đình Hòa: Kiểm soát quyền lực và hiến định vai trò của Kiểm toán nhà nước và Tổng KTNN là một tất yếu khách quan. Tạp chí NCKHKT Số 67. 5-2013; 4. Nguyễn Đình Hòa: Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng NSNN. Tạp chí NCKHKT Số 102 tháng 4/2016; 5. Báo Kiểm toán số 4 năm 2019.
File đính kèm:
- phong_chong_tham_nhung_gan_voi_kiem_soat_quyen_luc_va_vai_tr.pdf