Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số ít người có
cuộc đời với tư tưởng và phương thức ứng xử với thời cuộc khá đặc biệt. Sống
trọn thế kỷ XVI với nhiều biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, đạo đức
xã hội suy đồi, thời cuộc loạn ly, lòng người chao đảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã
chủ động lựa chọn cho mình một phương thức ứng xử phù hợp và thức thời - khi
thì nhập thế giúp nước cứu đời, khi thì lui về ở ẩn để giữ vững khí tiết thanh cao,
hưởng thú vui tự tại, bình yên. Qua Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (chủ yếu qua
Tổng tập thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải
Phòng (2014)) bài viết làm rõ tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm mà trong đó
phương thức ứng xử với thời cuộc là một nội dung quan trọng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm
1 CHUYÊN MỤC TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC TRONG TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC NGUYỄN BỈNH KHIÊM HUỲNH NGỌC BÍCH* Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số ít người có cuộc đời với tư tưởng và phương thức ứng xử với thời cuộc khá đặc biệt. Sống trọn thế kỷ XVI với nhiều biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, đạo đức xã hội suy đồi, thời cuộc loạn ly, lòng người chao đảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chủ động lựa chọn cho mình một phương thức ứng xử phù hợp và thức thời - khi thì nhập thế giúp nước cứu đời, khi thì lui về ở ẩn để giữ vững khí tiết thanh cao, hưởng thú vui tự tại, bình yên. Qua Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (chủ yếu qua Tổng tập thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng (2014)) bài viết làm rõ tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm mà trong đó phương thức ứng xử với thời cuộc là một nội dung quan trọng. Từ khóa: Nguyễn Bỉnh Khiêm, phƣơng thức ứng xử, triết học Việt Nam, thế kỷ XVI Nhận bài ngày: 15/5/2019; đưa vào biên tập: 1/6/2019; phản biện: 2/7/2019; duyệt đăng: 12/8/2019 1. ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI NGUYỄN BỈNH KHIÊM VÀ TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) không chỉ là nhà thơ, nhà tƣ tƣởng mà còn là bậc thầy về văn hóa đƣợc mọi ngƣời truyền tụng. Ông nổi lên nhƣ một hiện tƣợng đặc biệt của thế kỷ XVI. Nguyễn Bỉnh Khiêm tên thật là Nguyễn Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cƣ sĩ, ngƣời làng Trung Am, Vĩnh Lại, Hải Dƣơng (nay là huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng). Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên vẻ uyên thâm của một trí tuệ bác học, sự an yên của một nhà thơ nhàn nhã, nhƣng ẩn chứa những tƣ tƣởng triết lý sâu sắc. Ông sinh ra trong gia đình nho học và đƣợc nuôi dƣỡng bằng những luân lý của Nho giáo từ ngƣời cha là ông Nguyễn Văn Định - ngƣời có kiến * Trƣờng Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 2 thức sâu rộng. Đặc biệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hƣởng rất lớn từ sự giáo dục của mẹ - bà Nhữ Thị Thục, là mẫu phụ nữ có cá tính, tinh thông lý học, ấm phong là Từ Thục phu nhân, con gái của Thƣợng thƣ Nhữ Văn Lan. Không chỉ hấp thụ triết lý Nho giáo ngay trong gia đình, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn đƣợc theo học ngƣời thầy là một nhà nho nổi tiếng đƣơng thời - Lƣơng Đắc Bằng. Với trí tuệ hơn ngƣời, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy giỏi nên Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành tài năng kiệt xuất. Việc ông liên tiếp trúng tam nguyên trong ba kỳ thi: thi Hƣơng, thi Hội, thi Đình đã chứng minh điều đó. Phan Huy Chú nhận xét Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời học rộng các sách, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch và dẫn lời viên sứ thần nhà Thanh là Chu Xán đã khen ngƣời Lĩnh Nam biết lý học chỉ có Trình Tuyền - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tài học rộng hiểu sâu của Nguyễn Bỉnh Khiêm phần nào thể hiện qua những tƣ tƣởng triết học của ông. Nổi bật là những tƣ tƣởng về vũ trụ (thế giới quan); tƣ tƣởng về luân lý đạo đức, về chính trị, xã hội (nhân sinh quan). Trƣớc hết, trong quan niệm về thế giới quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trình bày tƣơng đối có hệ thống những nội dung về nguồn gốc vũ trụ, vạn vật, sự tồn tại vận động, biến hóa của vũ trụ. Ảnh hƣởng Kinh Dịch, khi cắt nghĩa khởi nguyên của trời đất, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ nguyên lý của Dịch xem thái cực là hình thái chuyển hóa đầu tiên dẫn đến sự hình thành vũ trụ. Ông viết: “Thái cực triệu sơ phân. Tam tài định quyết vị. Khinh thanh thƣợng vi thiên. Địa trọc há vị địa. Trung tụ nhi vi nhân. Bẩm thụ thị nhất khí” (Thái cực lúc mới phân chia. Vị trí của thiên, địa, nhân đã định. Trong, nhẹ bay lên là trời. Đục, nặng lắng xuống là đất. Ở giữa kết tụ là ngƣời. Sinh ra vốn cùng một khí) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1344). Nhƣ vậy, nguồn gốc của sự hình thành vũ trụ và vạn vật theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là bắt nguồn từ thái cực. Ông đặt thái cực lên trên hết, nhƣng cốt lõi lại tập trung vào “khí”. Khí là bản nguyên của vũ trụ. Vũ trụ xuất phát từ khí nên vũ trụ không ngừng vận động, biến đổi do sự tƣơng tác của âm dƣơng, phát triển đến cùng cực thì quay lại vị trí xuất phát ban đầu theo nguyên lý của thái cực, vạn vật từ cỏ, cây, sông, biển, núi, rừng cũng từ đó mà thành: “Nhất khí sơ tòng thái cực hình, chí tai bác hậu sở do danh. Hải hà Hoa Nhạc khôn duy cố, nha giáp căn cai vật loại sinh” (Một khối khí ban đầu từ hình dạng của thái cực, rất mực rộng dày nên có tên thế. Bể sông, núi non, giềng đất thật là vững chắc, mầm vỏ cây, gốc rễ cây các loài nhờ vào đó mà sinh sôi nảy nở) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1162). Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa nhận sự tiến hóa của vũ trụ là một quá trình rất phức tạp và lâu dài, do sự kết hợp của âm dương (lưỡng nghi) sinh ra tứ tượng, mọi sự biến chuyển, đổi thay TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 3 trong vũ trụ cũng phụ thuộc âm dương, âm dương vận động, giao hòa mà vạn vật đƣợc sinh ra, quá trình phát sinh này tức là biến đổi: “Dịch có thái cực, thái cực sinh ra lƣỡng nghi (âm dƣơng), lƣỡng nghi sinh ra tứ tƣợng (bốn mùa), tứ tƣợng sinh ra bát quái (tám quẻ) Từ bát quái cấu tạo thành 64 quẻ”. Nhờ âm, dương vần xoay mà cội nguồn vạn vật đƣợc lý giải cũng nhƣ biết đƣợc thời thế thịnh, suy. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Âm dƣơng vãng phục nghiệm tiền tri” (Khí âm khí dƣơng đi qua rồi trở lại, suy ra có thể biết trƣớc) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1206), hay: “Tĩnh nghiệm âm tiêu dƣơng trƣởng xứ, Ƣ viêm thử hậu hữu phồn sƣơng” (Khi tĩnh, ngẫm những sự tiêu tan và lớn lên của khí âm khí dƣơng sau mùa nắng nóng sẽ đến tiết sƣơng đậm) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1197). Thừa nhận trời đất, vạn vật biến đổi, chuyển hóa không ngừng, không gì là mãi mãi theo sự kết hợp của âm dương, nhƣng sự biến đổi, vận động trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sự biến đổi tuần hoàn, sự phát triển mang tính chất khép kín, xoay vần. Mọi chuyện trong trời đất, nhân tình thế thái đều cùng chung nhau ở chỗ đến rồi đi, đi rồi lại, ông viết: “Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi, từng xem thua đƣợc một hai phen” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1503). Đây chính là hạn chế trong quan niệm về sự biến dịch, biến hóa của vạn vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm vì suy cho cùng sự biến chuyển đó lại mang tính chu kỳ, tuần hoàn khép kín. Nguyễn Bỉnh Khiêm mới chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài chứ chƣa tìm ra đƣợc nguồn gốc bên trong của sự vận động và biến đổi. Mặc dù vậy, bỏ qua những hạn chế do yếu tố lịch sử thì quan niệm của ông cũng chứa đựng yếu tố biện chứng duy vật thô sơ, chất phác tích cực. Quan niệm thừa nhận sự biến đổi liên tục của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chứa đựng những khuynh hƣớng ngƣợc chiều nhau, sự mâu thuẫn là một tất yếu, ẩn chứa bên trong sự vật, hiện tƣợng làm nên sự biến chuyển xoay vần của mọi vật, mọi việc. Trong tự nhiên, đó là sự thay đổi lên xuống của các hiện tƣợng thiên nhiên: “Vũng nọ ghê khi làm bãi cát. Doi kia có thuở lúc hòn thai” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 53). Còn trong xã hội là sự thay thế tuần tự nhau giữa thời trị và thời loạn, “nhất trị nhất loạn”, có loạn ắt phải có trị, và cứ thế chúng luân phiên thay thế nhau, nối tiếp nhau: “Thế nhất trị nhất loạn, thời hữu thân hữu khuất. Ỷ phục chung vô cùng, mãn tổn kiến hƣ thực” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 40). Hay “Đạo bất chung cùng, khốn tất hanh - Khốn đốn hết rồi phải hanh thông, đạo chẳng bao giờ cùng quẫn mãi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 367). Hết “bĩ cực” ắt sẽ “thái lai”. Với quan niệm về thế giới quan nhất nguyên mà trong đó khí là bản nguyên của vũ trụ không ngừng vận động, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đóng góp tích cực cho HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 4 dòng chảy lịch sử tƣ tƣởng của Việt Nam. Từ những quan niệm về sự hình thành, vận động và biến đổi của vũ trụ và vạn vật, Nguyễn Bỉnh Khiêm chiêm nghiệm đến những vấn đề thuộc về bản chất con ngƣời và xã hội loài ngƣời, ông đặc biệt chú ý đến đạo làm ngƣời và triết lý sống ở đời. Sinh ra trong thời kỳ loạn lạc, các thế lực phong kiến tranh giành quyền lực, Nam - Bắc phân tranh, nhân dân điêu đứng, cƣơng thƣờng đảo lộn. Chứng kiến cảnh nhiễu nhƣơng ấy cùng với thực trạng “nhân nghĩa tựa vàng mƣời”, “thớt có tanh tao ruồi mới đậu”, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra con ngƣời đã dần xa bản tính lƣơng thiện vốn có, những chuẩn mực đạo đức, đạo lý con ngƣời dần phai nhạt. Do đó, trong tƣ tƣởng triết học của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý đến việc đề cao đạo làm ngƣời, ông nêu ra cụ thể, chi tiết một loạt những chuẩn mực đạo đức đối với từng mối quan hệ xã hội nhƣ: hiếu - trung, thuận - hòa nhƣng đầu mối của tất cả các chuẩn mực đều tập trung ở chữ trung. Về những tƣ tƣởng giáo huấn khuyên răn, ông không những nói về “tam cƣơng”, “ngũ thƣờng” mà còn khuyên con ngƣời sống nhân ái, lƣơng thiện trong gia đình, trong cộng đồng làng xóm. Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “xƣa nay trọng ngƣời chân thật, nào ai ƣa kẻ đãi bôi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 113) và khuyên làm ngƣời không nên quá xem trọng tiền bạc, của cải là mục đích cuối cùng, mà nhân nghĩa ở đời, các chuẩn mực đạo đức mới là những cái đáng đeo đuổi. Trong triết lý về đạo làm ngƣời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, điểm có ý nghĩa và có giá trị lịch sử lớn lao đó là tấm lòng thƣơng yêu con ngƣời, yêu thƣơng dân chúng. Sống gần trọn thế kỷ XVI, là ngƣời có kiến thức sâu rộng và đƣợc vua Mạc trọng vọng, nhƣng hầu nhƣ trong suốt quãng đời của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm không sống trong giàu sang danh vọng mà chấp nhận cuộc sống thanh bạch của một nhà nho ẩn dật. Hòa trong cuộc sống của dân chúng, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhìn thấy đƣợc nỗi thống khổ của nhân dân, hiểu đƣợc tâm tƣ, nguyên vọng của họ. Nguyễn Bỉnh Khiêm không bỏ sót bất kỳ đối tƣợng nào, từ ngƣời tàn tật cho đến ngƣời bình thƣờng, từ ngƣời “vợ góa, con côi” đến ngƣời nông phu, điền phụ tất cả những ngƣời mà thân phận nhỏ bé, mong manh, bị áp bức bóc lột là đối tƣợng mà ông hết lòng quan tâm và mong muốn cho họ có cuộc sống an bình, no ấm. Nghiên cứu triết lý nhân sinh Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thấy những luận giải của ông hƣớng vào việc khuyên răn, giáo huấn con ngƣời về mặt đạo đức, về lẽ sống và cách xử thế ở đời. Điều này đã làm nên nét độc đáo trong phƣơng cách ứng xử với thời cuộc của ông, giúp chúng ta dễ dàng nhận ra ông trong rất nhiều nhà tƣ tƣởng của dân tộc. Đó là cách ứng xử ung dung, tự tại, vô sự không màng danh TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 5 lợi nhƣng lại mang nặng nỗi ƣu tƣ về tình đời, nợ nƣớc. 2. PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1. Thái độ sống tự tại Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong gia đình nhà nho, đƣợc giáo dục luân lý nho gia, nên lý tƣởng trọn đời của ông hƣớng về mô hình quân chủ Nho giáo với “vua sáng tôi hiền”, xã hội Đƣờng, Nghiêu. Tuy nhiên, thời kỳ lịch sử ông sinh sống, Nho giáo gần nhƣ bất lực trƣớc thực trạng luân thƣờng đạo lý ngả nghiêng, đạo đức suy đồi. Thực tiễn đó khiến ông một mặt tâm niệm: “đạo thánh hiền xƣa, luống chóc mòng”, mặt khác lại thấy xã hội “của nặng hơn tiền”, lòng ngƣời đảo điên, nên ông lựa chọn lui về sống nhàn dật mà phƣơng thức ứng xử đầu tiên ông lựa chọn là sống tự tại. Tự tại là quan niệm sống tự do, không chịu sự ràng buộc, níu kéo, không bận tâm suy nghĩ, tính toán thiệt hơn, sống tự nhiên thuần phác, tùy theo ý thích của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm bày tỏ: “Am quán ngày nhàn rồi mọi việc. Dầu ta tự tại mặc dầu ta” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 64) “Song hiên ngõ cửa ngồi xem sách, tự tại ngày qua mấy kẻ bằng” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 110) hay “Yên đòi phận dầu tự tại, lành dữ khen chê cũng mặc ai” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 164). Hơn bốn mƣơi tuổi mới đi thi, làm quan chƣa đƣợc bao lâu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vội quay về. Sự quay về của ông không phải là sự trở lui vì nhụt chí, không phải là sự quay lƣng với đời mà là lui về để bảo toàn khí tiết, giữ gìn phẩm giá, cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm rất hài lòng với phƣơng châm sống tự tại của mình. Với ông tự tại là: “Đèo núi vỗ tay cƣời khúc khích. Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao” hay “Cửa trúc vỗ tay cƣời khúc khích, hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 125). Nguyễn Bỉnh Khiêm thích thú với cuộc sống thảnh thơi sau một thời gian “đã no mùi thế tình” và chán cảnh thị thành đua tranh giành giật. Ông rong rủi với cỏ cây, hoa lá chim muông, sống chan hòa cùng cảnh đẹp của thiên nhiên. Sống cuộc sống: “Một mai một cuốc một cần câu Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt. Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu. Giang sơn tám bức là tranh vẽ. Phong cảnh tƣ mùa ấy gấm thêu” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1474). Việc Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng quán Trung Tân với mục đích trƣớc hết là làm nơi nghỉ ngơi cho ngƣời qua đƣờng và để vui với thiên nhiên, cây cỏ, đã phần nào thể hiện lối sống ung dung tự tại, không bon chen danh lợi của ông. Tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chính là một hình thức biểu hiện của một triết lý sống, một phong thái sống tự do cởi mở, chan hòa, lối sống của sự thanh thản trong thời buổi nhiễu nhƣơng. Đó là lối sống “tiên” nơi trần thế. Ông tự hào nói: “Cao khiết thùy vi HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 6 thiên hạ sĩ, an nhàn ngã thị địa trung tiên” (Trong sạch thanh cao ai là kẻ sĩ trong thiên hạ, an nhàn ta đây chính là tiên nơi trần thế) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 199), hay “Rỗi nhàn thì ấy tiên vô sự”, “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách. Đƣợc thú ta đà có thú ta” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 301). Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều lần nói đến từ “tiên” trong tƣ tƣởng của mình, khi thì ông cho mình là ông tiên nơi trần thế, là khách tiên, khi tự nhận cách sống của mình chẳng khác gì cách sống của tiên, “vô sự thì tiên lọ phải tìm già vô sự ấy là tiên” hay “Ngày ngày tiêu sái nhân vô sự. Tuy chửa là tiên ắt ấy tiên” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 68). “Tiên” trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một khái niệm siêu hình. Sống “tiên” không phải là sống nhƣ trong cõi cực lạc vô hình, huyền bí nào đó mà chính là cảm nhận đƣợc cái “vô sự”, “lâng lâng”. Ngƣời “tiên” nhƣng có cuộc sống hết sức trần tục, thƣởng thức cuộc sống thanh thản, chan hòa với tự nhiên. Ông cảm nhận cuộc sống gần thiên nhiên, gần suối, gần mây trắng là cuộc sống không phải mua bằng tiền nhƣng vẫn cứ tƣơi đẹp, cuộc sống ấy chính là cõi tiên. Tự tại ở Nguyễn Bỉnh Khiêm ngoài ý nghĩa là sống ung dung, thanh thản, nó còn thể hiện hà ... chuyện thị phi: “Ở đời mọi việc không mà sắc, phải trái còn bàn rõ chán chƣa” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 237). Không chỉ có vậy, vô sự trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là thái độ thản nhiên trƣớc những sự sống chết, đƣợc mất, cùng thông. Là một triết nhân với triết lý nhân sinh nhàn nhã, ông thấy đƣợc quy luật biến chuyển xoay vần của cuộc đời để không bám víu vào cái không thể bám víu, không thể lấy cái tƣơng đối làm cái tuyệt đối và cũng để điềm tĩnh thản nhiên vƣợt lên trên mọi giới hạn danh lợi, sân si của cuộc sống nhân gian. Cũng vì vậy, đối với mọi sự hơn thua ở đời, ông cũng dửng dƣng coi thƣờng. “Chán việc hơn thua đầy trƣớc mắt. Làm tiên nhàn nhã ở trên đời” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 125). Có thể nói, quan niệm vô sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 10 phƣơng thức biểu hiện của sự nhàn nhã về mặt tinh thần - đó chính là biểu hiện của nhàn trong tâm - tâm nhàn. Tâm nhàn là tâm trống không, hoàn toàn thảnh thơi không bị ràng buộc hay bị chi phối bởi sự thế xung quanh. Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, tâm trống không thì mới thảnh thơi, vô sự, không còn tham dục, không vƣớng công danh, không chấp thị phi, không định kiến. “Tâm trống rỗng” đƣợc Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh giá rất cao, ông thƣờng nói: “Thói tục, tiết ngay, đâu dễ đổi, Trời già, tâm rỗng, tự nhiên hay” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 159). Lòng có vô sự thì tâm mới “lâng lâng”, “tự tại”, giống nhƣ mặt nƣớc lặng mới phản ánh rõ mặt trăng. Nắm đƣợc quy luật ấy nên Nguyễn Bỉnh Khiêm bao giờ cũng “vui nƣớc biếc với non này. Cây cỏ tiêu dao cảnh tháng ngày” “cơ quan liễu khƣớc đều vô sự, tân quán sài môn tận nhật khai” (trong lòng không có cơ mƣu thì tự nhiên vô sự, cửa sài ở quán tân cứ mở suốt ngày), “hƣ thất hồn vô bán điểm ai, sài môn tận nhật bạng giang khai” (nhà trống không chẳng nhuốm chút bụi trần, cửa sài bên sông mở suốt ngày). “Thản nhiên vô sự lòng không muốn, nhà không chẳng bợn chút trần ai” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 659). Theo phép tắc của lý học Tống Nho, nếu giữ đƣợc cho lòng mình trống không thì sẽ có thể hiểu “cùng lý cùng tính”. Tiếp cận tƣ tƣởng này, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Một chiếc thuyền không lánh việc đời”. Rõ ràng, ông chủ trƣơng vô sự là để lòng thanh thản, trống trải. Khi ấy con ngƣời mới khách quan và sáng suốt, mới hiểu đƣợc lý của tự nhiên, của trời đất, thấu đạt lẽ đời, tránh đƣợc sai lầm, mê muội. Hình ảnh chiếc thuyền không mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cập đến không chỉ đơn thuần mang nghĩa là nói đến cuộc sống nhàn tản phóng khoáng mà còn hàm ý một triết lý sâu xa. Đó là sự thoát khỏi vòng cƣơng tỏa của danh lợi, đem cái tâm thuần khiết mà đối xử với mọi ngƣời, mọi vật thì tâm đó sẽ càng bình thản: “Xét thấy trong cảnh nhàn không có gì là bận rộn, mặt trời đã lên cao mà vẫn ngon giấc bên song cửa phía đông”, “suy ngẫm đời nhàn vui rảnh việc, gần trƣa ngon giấc ở bên song”, “nhàn đến đóng cửa sài cả ngày” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1170). Với chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đứng bên ngoài các cuộc phân tranh, vƣợt lên trên sự tranh chấp xâu xé của các tập đoàn phong kiến thống trị. “Cứu đắm, phò nguy, thẹn bất tài,. Trên đời mọi việc đều quên hết, tân quán cửa sài mở suốt thôi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1392). Chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chứng tỏ ông là ngƣời nắm vững thời thế, hành động theo thời thế. Nhiều lần ông đã đề cập đến việc ứng xử tùy thuộc thời thế, và đây có thể xem nhƣ là một điểm tựa, một cơ sở cho tƣ tƣởng nhàn của ông: “đêm trăng Giám Hồ tình thơ cao xa, Gió thu Bành Trạch hứng rƣợu càng TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 11 nhiều” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1245). Bành Trạch tức Đào Uyên Minh (Đào Tiềm), từng làm quan lệnh Bành Trạch, do chán cảnh quan lại luồn cúi, nên cáo quan về ở ẩn, đƣợc ngƣời đƣơng thời gọi là Tĩnh Tiết tiên sinh để khen sự liêm khiết của ông. Lối sống ẩn dật của ông ảnh hƣởng đến nhiều nho sĩ Việt Nam, trong đó có Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã noi theo Đào Tiềm, vui với thiên nhiên, xa lánh chốn quan trƣờng, ông thƣờng gợi nhớ về những tấm gƣơng ẩn dật của các bậc tiền bối, nhƣ là một cách để tự răn mình. Tƣ tƣởng vô sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm mang màu sắc Lão - Trang nhƣng vẫn đậm nét Nho giáo. Vô sự ở Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh trách nhiệm, phủi bỏ nhiệm vụ của cá nhân với cộng đồng xã hội, không phải là thoát ly xã hội, mà nó là một triết lý sống, một phƣơng thức ứng xử không ham danh lợi, địa vị, vật chất tiền tài, coi thƣờng bon chen, bất mãn với thói đời đen bạc. Vô sự là sống lạc thiên, tri mệnh, vui thú, khoáng đạt nhƣng vẫn “ƣu thời mẫn thế”. Đây là nét đặc sắc trong phƣơng thức ứng xử giữa thời loạn ly của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ảnh hƣởng sâu sắc những triết lý của Nho gia cũng nhƣ phƣơng châm xử thế trƣớc thời cuộc của các bậc tiên nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm có những quan niệm đặc sắc về thời cuộc. Theo ông muốn hành động cho hợp lý phải xem xét thời thế, phải tùy thời, bởi vì: “Có thuở đƣợc thời mèo đuổi chuột. Đến khi thất thế kiến tha bò”, “Gặp thời dại cũng hóa nên khôn” và “Tri cơ ứng biến thì đƣợc vẹn toàn” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 298). Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy hình ảnh của một kẻ sĩ đối với thời cuộc biết “tri cơ” và “kiến cơ”. Khổng Tử trƣớc đây đã dùng hình ảnh con chim biết lúc nào nên đậu, lúc nào nên bay để tƣợng trƣng cho phƣơng châm xử thế tùy thời của nhà nho. Xét thời thế để hành hay tàng, xuất hay xử là con đƣờng không xa lạ đối với những ngƣời theo Nho giáo. 2.3. Nỗi niềm đau đáu về tình đời, vận nƣớc và khát vọng cứu vãn xã hội đƣơng thời Sống trong cảnh loạn ly, cảm thấy bản thân khó gánh đƣợc trọng trách “phù nghiêng đỡ lệch”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn cách sống tự tại, vô sự, ẩn dật vui thú hƣởng nhàn, nhƣng sâu thẳm trong tận lòng ông luôn đau đáu một nỗi lo về vận nƣớc, tình dân. Việc lúc ra làm quan, lúc về ở ẩn gián đoạn của ông đã chứng minh điều này. Và chính đó cũng là nét độc đáo trong phƣơng thức ứng xử trƣớc thời cuộc của ông - phƣơng thức ứng xử không đua tranh danh lợi nhƣng tình dân, vận nƣớc vẫn đeo mang. Điều này thể hiện ở khát vọng về xã hội hòa bình, thịnh trị và mong muốn “an dân” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Là nhà thơ chỉ để ở việc hành đạo, giúp đời, lập chí “phù nguy chửng nịch”, mong đem tài năng ra nâng đỡ sơn hà, song, ƣớc nguyện bất thành, HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 12 Nguyễn Bỉnh Khiêm vui sống với thiên nhiên, ruộng vƣờn, nén giấu nỗi niềm ƣu quốc ái dân của mình vào trong, ông không lúc nào không đau đáu về một xã hội thịnh trị, thái hòa, dân chúng an lạc, yên vui. Lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVI là sự nối tiếp khốc liệt của sự tranh giành, phân tranh dữ dội giữa các tập đoàn phong kiến. Chiến tranh nối tiếp chiến tranh, 50 năm chiến tranh Nam - Bắc triều (1546 - 1592), 50 năm chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672), xã hội Việt Nam oằn mình trong nỗi đau nồi da xáo thịt. Đời sống nhân dân khốn khổ, điêu linh. Đó là thời kỳ “gian khổ đầy những chiến tranh và vật lộn giữa các họ cầm quyền, giai đoạn phong kiến rối loạn mà các nhà Khổng học không ngừng nhắc đến một cách ngậm ngùi, chua cay” (Lƣơng Ninh, 2005: 100). Thực tế đó làm cho Nguyễn Bỉnh Khiêm càng khao khát về một xã hội hòa bình, thịnh trị. Một xã hội mà bên trên vua sáng tôi hiền, bên dƣới dân chúng sống hòa bình, no ấm, không còn cảnh chồng vợ phân ly, cha con chia lìa. Suốt đời Nguyễn Bỉnh Khiêm ôm ấp một nguyện vọng về một xã hội nhƣ thời Nghiêu Thuấn. Rất nhiều lần ông bày tỏ mong ƣớc này: “Hà thời thái tổ Đƣờng Ngu trị. Y cựu hiền khôn nhất thái hòa - Bao giờ lại đƣợc trông thấy thời bình trị Đƣờng Ngu để cho trời đất lại đƣợc thái bình nhƣ xƣa” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 191). Xã hội mà Nguyễn Bỉnh Khiêm khao khát là xã hội với những giá trị, chuẩn mực đạo đức đƣợc giữ gìn, bảo tồn, con ngƣời đối xử với nhau chân thành hòa nhã; sung túc về kinh tế, ngƣời dân đều đƣợc lao động, có cuộc sống no cơm ấm áo. Mọi ngƣời dân biết phân biệt điều xấu điều tốt, biết phân biệt việc phải việc trái, có cuộc sống lƣơng thiện, giữ gìn những giá trị đạo đức cao đẹp, không bị lợi ích làm mù quáng, không bị kim tiền che mắt, trút bỏ mọi tham lam tính toán cho riêng mình. Xã hội mà Nguyễn Bỉnh Khiêm hƣớng đến là xã hội ổn định về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà đặc biệt nhất là xã hội ổn về lòng dân, khi đó dân tin, dân quý nhà cầm quyền nhƣ cha con, anh em, bè bạn. Để có một xã hội thái bình thịnh trị, cứu vãn trật tự xã hội, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trƣơng thực hiện đƣờng lối cai trị bằng nhân nghĩa, dùng nhân nghĩa để giáo huấn, giáo hóa con ngƣời và duy trì trật tự ổn định của xã hội. Ngƣời thực hiện tốt nhiệm vụ này không ai khác hơn là vua. Do vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý đến vai trò và phẩm chất của vị vua trong xã hội. Vua phải dùng nhân nghĩa để giáo hóa dân chứ không phải dùng quyền uy và mệnh lệnh bạo tàn. Ông viết: “Thánh chủ chỉ kim nhân thắng bạo - Thánh chúa ngày nay chỉ lấy nhân nghĩa để thắng bạo tàn” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 254). Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua phải là ngƣời công bằng, ngƣời cầm cán cân công lý, biết yêu nƣớc và hết lòng vì dân, vua phải là ngƣời nếu có bó đuốc TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 13 sáng thì nên soi dân nơi nhà nát xóm nghèo: “Quân vƣơng nhƣ hữu quang minh chúc. Ƣng chiếu cùng lƣ bộ ốc dân” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 153), để “dân lầm than khổ cực đều đƣợc nằm trên nệm chiếu yên ổn” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 242). Vua nhƣ vậy, và quan lại cũng phải nhƣ vậy, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, bầy tôi khi giúp vua cũng phải “nhân nghĩa tựa nhƣ son”. Có đƣợc vua sáng tôi hiền nhƣ vậy thì mô hình về một xã hội thái bình sẽ trở thành hiện thực. Đau đáu nỗi niềm thƣơng nƣớc, thƣơng dân Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn xem trọng sức mạnh của dân chúng và sẵn sàng “nhập thế” để ngƣời dân có đƣợc cuộc sống yên vui hạnh phúc. Ông luôn mong muốn đem lại cho dân chúng cuộc sống bình yên, no ấm, đƣợc phát triển tự do, tự chủ đối với cuộc đời của mình. Trong thế kỷ mà Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống, xã hội oằn mình trong máu lửa chiến tranh. Con ngƣời nơm nớp lo sợ, tính mạng luôn bị đe dọa. Thực tại nhƣ vậy, nên muốn dân đƣợc yên ổn, theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách thiết thực nhất là phải xóa bỏ chiến tranh, chấm dứt, loại trừ những hành động tàn ác bạo ngƣợc đối với dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng phân biệt rất rõ chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa. Ông đề cao và tham gia vào các cuộc chinh phạt nhằm chống lại bọn giặc cƣớp tàn hại nhân dân. Nhƣng đối với các cuộc chiến tranh khác, những cuộc chiến tranh vì lợi ích của cá nhân và dòng họ thì ông lại kịch liệt lên án. Có thể nói, cả cuộc đời lo toan vì nợ nƣớc, vì tình dân, nhƣng Nguyễn Bỉnh Khiêm sống đầy lạc quan, hào phóng, mong muốn “gắng sức ngày đêm” làm việc để đất nƣớc thanh bình, nhân dân yên ổn. Chí nguyện cao đẹp cả đời ông là nét son sáng chói ghi nhận tên tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm trong dòng chảy mênh mông của dòng sông tƣ tƣởng dân tộc. 3. KẾT LUẬN Dù đau đáu lo đời, lo nƣớc, lo dân nhƣng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm lại bộc lộ một phong thái sống ung dung, nhàn nhã. Sự hòa hợp tƣởng chừng nhƣ mâu thuẫn này đặc biệt chỉ có ở Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và đó cũng chính là cách ứng xử đặc biệt, làm nên dấu ấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm so với các nhà tƣ tƣởng đƣơng thời. Trong thời buổi loạn lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động chọn phƣơng thức ứng xử là vận dụng hợp lý hai chữ xuất-xử vào hoàn cảnh lịch sử đầy biến động mà ông là ngƣời trong cuộc. Chọn cách sống tự tại và vô sự, ông đã xác lập một nhân sinh quan xử thế hợp lý. Đó là thái độ sống ung dung tự tại, tìm đến với thiên nhiên, tìm đến sự an bình trong tâm. Đó chính là đi tìm cái tĩnh trong cái động, thấy đƣợc sự đứng im tƣơng đối trong sự vận động tuyệt đối. Song, đằng sau sự vô sự, dửng dƣng là cả một nỗi lo toan, day dứt với đời, với thời, với ngƣời, là khát vọng về một xã hội hòa bình thịnh trị. Đúng nhƣ lời nhận xét của HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC 14 Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm là con ngƣời “đời dùng thì làm, đời bỏ thì ẩn, đối với tiên sinh dù chẳng đắc dụng cũng có hề chi” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 412). Và cũng vì vậy mà “tuy ở nhà bốn mƣơi tƣ năm mà lòng không ngày nào quên đời, ƣu thời mến tục đều lộ trong thơ. Con ngƣời nhàn dật, tự tại trong Tuyết Giang phu tử vì thế vẫn chƣa thoát khỏi học thuyết Nho giáo, vẫn chƣa ra ngoài quan niệm “hành-tàng”, “xuất- xử”, “nguy bang bất nhập, loạn bang bất cƣ” để hòa mình vào thế giới của Lão Trang” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 312). Ra rồi về, về rồi ra, quá trình hành tàng, xuất xử ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hẳn có nhiều lý do, nhƣng dù sao đi nữa thì “cái đáng trân trọng và đánh giá cao nhất ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là dù xuất hay xử, tấm lòng của ông luôn luôn hƣớng về đất nƣớc, về nhân dân. Tƣ tƣởng và tình cảm cao đẹp đó không đƣa ông vƣợt qua những hạn chế của thời đại nhƣng là nền tảng tinh thần, là chất liệu cơ bản để cùng với tri thức uyên bác và tài năng sáng tạo của mình, nâng ông lên địa vị một danh nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc, một nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XVI với uy tín và ảnh hƣởng rộng lớn bao trùm đất nƣớc lúc đó” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 112). Đó cũng là một trong những bằng chứng chứng tỏ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là sản phẩm văn hóa điển hình của thế kỷ XVI - một thế kỷ nặng về chinh chiến và nhiều biến động nên phải lựa chọn một phƣơng thức ứng xử văn hóa khả dĩ có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu đời sống tinh thần vốn muôn phần phức tạp” (Nguyễn Hữu Sơn, 2003: 28). TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng. 1997. Việt Nam văn học (thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII). Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 2. Viện Văn học, Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2014. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, tổng tập. Hà Nội: Nxb. Văn học. 3. Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2015. Hội thảo “Di sản văn học – Nguyễn Bỉnh Khiêm - tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ”. Hà Nội: Nxb. Văn học. 4. Lƣơng Ninh (chủ biên). 2005. Lịch sử Việt Nam giản yếu. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 5. Nguyễn Hữu Sơn. 2003. Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý thế sự. TPHCM: Nxb. Trẻ. 6. Nguyễn Nghiệp. 1997. Trạng Trình và Sấm ký. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 7. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1984. TPHCM: Nxb. TPHCM. 8. Vũ Minh Tâm. 1996. Tư tưởng triết học về con người. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- phuong_thuc_ung_xu_voi_thoi_cuoc_trong_tu_tuong_triet_hoc_ng.pdf