Quan điểm phát triển chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên đại học ở Việt Nam

Abstract: National Defense and Security Education for higher education students is a special

education curriculum that both ensuring the objectives of the national defense career, and in line

with the current development context of the country. Along with the change of economy - politics

- society, this curriculum always needs to update and improve. Curriculum development is an

effective solution that has been applied to most higher education curriculum but is not interested

in the National Defense and Security Education curriculum. This article presents the National

Defense and Security Education curriculum, learns the development trend of curriculum and the

viewpoint of appropriate curriculum development in the current context.

pdf 5 trang yennguyen 3660
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm phát triển chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm phát triển chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên đại học ở Việt Nam

Quan điểm phát triển chương trình Giáo dục Quốc phòng và An ninh cho sinh viên đại học ở Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 92-95; 99 
92 
Email: vutungdhgt@gmail.com 
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG 
VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 
Vũ Thanh Tùng, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng 
Ngày nhận bài: 05/4/2019; ngày chỉnh sửa: 18/4/2019; ngày duyệt đăng: 14/5/2019. 
Abstract: National Defense and Security Education for higher education students is a special 
education curriculum that both ensuring the objectives of the national defense career, and in line 
with the current development context of the country. Along with the change of economy - politics 
- society, this curriculum always needs to update and improve. Curriculum development is an 
effective solution that has been applied to most higher education curriculum but is not interested 
in the National Defense and Security Education curriculum. This article presents the National 
Defense and Security Education curriculum, learns the development trend of curriculum and the 
viewpoint of appropriate curriculum development in the current context. 
Keywords: Curriculum, National Defense and Security Education, curriculum development. 
1. Mở đầu 
Mặc dù công tác phát triển chương trình (PTCT) ở 
hầu hết các ngành, các lĩnh vực chuyên môn trong giáo 
dục đại học được các nhà nghiên cứu quan tâm thì có 
một lĩnh vực còn rất mới mẻ, ít người nghiên cứu là 
Giáo dục Quốc phòng và An ninh (GDQP&AN). Trong 
khi đó, đây là một chương trình đặc biệt quan trọng, 
nằm trong khung bắt buộc với tất cả các chương trình 
giáo dục đại học và chiếm thời lượng cũng như kiến 
thức tương đối lớn. Ý nghĩa quan trọng của chương 
trình GDQP&AN dành cho sinh viên (SV) các trường 
đại học ở Việt Nam đã được Ðảng khẳng định: “Xây 
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm 
vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam” [1; tr 10]. Hai 
nhiệm vụ chiến lược đó luôn được thực hiện đồng thời 
và kết hợp chặt chẽ với nhau. 
Bài viết trình bày về chương trình GDQP&AN cho 
SV các trường đại học, tìm hiểu xu hướng PTCT 
GDQP&AN để từ đó đưa ra quan điểm nhằm PTCT 
quan trọng này một cách hiệu quả. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Chương trình Giáo dục quốc phòng và An ninh 
cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam 
2.1.1. Giáo dục quốc phòng và An ninh cho sinh viên các 
trường đại học ở Việt Nam 
GDQP&AN cho SV là hoạt động có kế hoạch, có 
chương trình, nội dung phương pháp và hình thức tác 
động của nhà giáo dục đến SV, nhằm truyền thụ tri thức, 
rèn luyện kĩ năng, phát triển bản lĩnh quân sự và an ninh 
cần thiết cho SV để họ sẵn sàng làm tốt nghĩa vụ quân sự 
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. GDQP&AN cho SV là một 
bộ phận của chương trình GDQP&AN chung. 
GDQP&AN cho SV là quá trình hình thành các phẩm 
chất về quân sự cho SV. Đây là một nội dung quan trọng 
trong quá trình giáo dục hình thành, phát triển phẩm chất, 
nhân cách SV. Những phẩm chất quân sự của SV được 
hình thành và phát triển trong quá trình đào tạo tại nhà 
trường và có tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả 
hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp của họ sau khi tốt 
nghiệp ra trường. 
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng 
minh rằng, bảo vệ Tổ quốc phải đi đôi với bảo vệ chế độ; 
bảo vệ chế độ là điều kiện để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, 
nhiệm vụ, nội dung GDQP&AN cho SV phải chứa đựng 
các vấn đề về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. 
Nhiệm vụ GDQP&AN cho SV là giúp họ có bản lĩnh 
chính trị vững vàng, hình thành thái độ, hành vi đúng đắn 
trong các hoạt động quân sự, nâng cao thể lực, trí lực, kĩ 
năng quân sự, biết gắn kết nhiệm vụ quốc phòng và an 
ninh với nghề nghiệp chuyên môn được đào tạo. 
GDQP&AN cho SV có nhiệm vụ xây dựng cho họ 
những phẩm chất cơ bản của hoạt động quân sự về trí tuệ, 
tình cảm và ý chí. Phẩm chất trí tuệ, đó là khả năng linh 
hoạt trong tư duy quân sự, khả năng tiếp nhận nhanh 
những tri thức quân sự, tính sáng tạo, quyết đoán trong xử 
lí các tình huống. Phẩm chất trí tuệ phải chuyển hóa thành 
cảm xúc, tình cảm và ý chí trong hoạt động quân sự, giúp 
SV hình thành thái độ, biểu tượng đúng về hoạt động quân 
sự, tạo động lực mạnh mẽ trong hoạt động quân sự. 
Ngoài những nhiệm vụ trên, GDQP&AN còn 
hướng tới rèn luyện cho SV phẩm chất đặc thù quân sự, 
lòng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và nhân 
dân; tinh thần, ý chí chiến đấu; tinh thần dũng cảm, dám 
hi sinh vì sự nghiệp cách mạng; khả năng tổ chức khoa 
học các hoạt động quân sự; tính kỉ luật cao, trình độ kĩ, 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 92-95; 99 
93 
chiến thuật và nghệ thuật quân sự; sự tinh nhạy, quan 
sát, phán đoán... 
2.1.2. Đặc trưng chương trình Giáo dục quốc phòng và An 
ninh cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam 
Thứ nhất, mục tiêu chương trình đặt ra vừa phải trang bị 
kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, công tác quốc phòng, 
an ninh của Đảng và Nhà nước; vừa phải hướng dẫn những 
kĩ năng quân sự, an ninh cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu 
xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn sàng 
tham gia lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và làm 
nghĩa vụ quân sự, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, sẵn sàng 
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 
Thứ hai, chương trình GDQP&AN là một bộ phận của 
chương trình chung dành cho đối tượng SV đại học và áp 
dụng cho cả nước. Chương trình GDQP&AN có 165 tiết và 
được giảng dạy với 4 học phần được thiết kế bao gồm cả 
học phần lí thuyết lẫn thực hành. 
Thứ ba, phương pháp tổ chức dạy học khá đặc biệt. SV 
học tập trung tại những nơi có điều kiện sân bãi và cơ sở vật 
chất đầy đủ theo quy định. Phương pháp giảng dạy được áp 
dụng khá đa dạng, kết hợp phương pháp sử dụng ngôn ngữ, 
các phương pháp trực quan sinh động với các phương pháp 
dạy học thực hành, các phương pháp kích thích hoạt động 
nhận thức. 
Thứ tư, việc đánh giá kết quả dạy học bằng các bài kiểm 
tra theo quy định của Bộ GD-ĐT. Điều khác biệt so với các 
chương trình học khác trong thời gian học cao đẳng, đại học 
là sau khi hoàn thành chương trình học đạt yêu cầu, SV 
được cấp chứng chỉ. Chứng chỉ GDQP&AN vừa để xác 
nhận kết quả học tập lại vừa là điều kiện để xét tốt nghiệp 
cao đẳng, đại học. 
Thứ năm, giảng viên hay người giảng dạy chương trình 
GDQP&AN hầu hết là những sĩ quan quân đội biệt phái 
sang Bộ GD-ĐT. Tuy nhiên, họ có thể là cử nhân đào tạo 
chính quy về GDQP&AN hoặc các giảng viên dạy ghép với 
môn Giáo dục thể chất. 
Thứ sáu, người học rất phong phú, đa dạng, là những 
SV ở tất cả các trường cao đẳng, đại học trong cả nước với 
các ngành học, bậc học khác nhau. Họ có thể là những SV 
năm thứ nhất nhưng cũng có thể là những SV các năm học 
chuyên ngành. SV ở các ngành học khác nhau, trình độ khác 
nhau với những đặc tính khác nhau đều phải học cùng một 
chương trình học GDQP&AN như nhau. 
Thứ bảy, yêu cầu cơ sở vật chất để học tập và giảng dạy 
của chương trình GDQP&AN khá đặc biệt. Ngoài các 
phòng học lí thuyết với yêu cầu cơ sở vật chất như phòng 
học lí thuyết ở các trường đại học như: thiết bị truyền dẫn 
âm thanh (micro, ampli, loa, đài...), các thuyết bị truyền dẫn 
hình ảnh (máy chiếu, tivi, đầu đĩa...), giảng dạy GDQP&AN 
đòi hỏi phải có thao trường sân bãi đủ rộng, vũ khí, khí tài 
chuyên dụng đặc chủng, phù hợp hoàn cảnh chiến tranh 
hiện đại. 
Nội dung GDQP&AN bao gồm các vấn đề về truyền 
thống chống giặc ngoại xâm, tinh thần yêu nước, lòng tự 
hào, tự tôn dân tộc; đường lối, quan điểm cơ bản của Đảng, 
Nhà nước về quốc phòng và anh ninh; công tác quốc phòng 
và anh ninh của Đảng và Nhà nước, các văn bản pháp luật 
về quốc phòng và an ninh; phổ cập những kiến thức cần thiết 
về lực lượng vũ trang nhân dân; nghệ thuật quân sự Việt 
Nam; phòng chống chiến lược “diễn biến hoà bình”, “bạo 
loạn lật đổ” của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt 
Nam, kiến thức cơ bản cần thiết về kĩ thuật, chiến thuật quân 
sự, phòng thủ dân sự. 
2.1.3. Nội dung chương trình Giáo dục quốc phòng và An 
ninh cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay 
Chương trình GDQP&AN được thiết kế bao gồm kiến 
thức khoa học xã hội, nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa 
học kĩ thuật quân sự và thuộc nhóm các chương trình chung. 
GDQP&AN góp phần xây dựng, rèn luyện ý thức tổ chức 
kỉ luật, tác phong khoa học ngay khi SV đang học tập trong 
nhà trường và khi ra công tác. Giảng dạy và học tập có chất 
lượng chương trình GDQP&AN là góp phần đào tạo cho 
đất nước có một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ 
quản lí, chuyên môn nghiệp vụ có ý thức, năng lực sẵn sàng 
tham gia thực hiện nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt 
Nam xã hội chủ nghĩa trên mọi cương vị công tác. 
Hiện nay, chương trình môn GDQP&AN trình độ đại 
học được cấu trúc thành 4 học phần. 
Học phần I: Đường lối quốc phòng và an ninh của 
Đảng Cộng sản Việt Nam. Học phần này nhằm trang bị cho 
SV về đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học; 
những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc; 
nhận thức đúng về nguồn gốc, bản chất chiến tranh; các 
quan điểm của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, 
lực lượng vũ trang nhân dân để tiến hành chiến tranh nhân 
dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; kết hợp 
phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh 
và đối ngoại; những vấn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật 
quân sự Việt Nam. 
Học phần II: Công tác quốc phòng và an ninh. Học 
phần này nhằm giúp SV nhận thức được âm mưu thủ đoạn 
của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam trong 
giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đấu tranh, phòng chống 
chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế 
lực thù địch; đấu tranh phòng chống địch lợi dụng vấn đề 
dân tộc và tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam để giữ 
gìn an ninh chính trị và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam 
xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực 
lượng dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc 
phòng; xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 92-95; 99 
94 
quốc gia trong tình hình mới; những vấn đề cơ bản về bảo 
vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; 
những vấn đề cơ bản về đấu tranh phòng chống tội phạm 
và tệ nạn xã hội; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an 
ninh Tổ quốc; an ninh phi truyền thống và đấu tranh phòng 
chống các đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam. 
Học phần III: Quân sự chung, chiến thuật, kĩ thuật bắn 
súng ngắn và sử dụng lựu đạn. Học phần gồm lí thuyết kết 
hợp với thực hành nhằm trang bị cho SV kiến thức chung 
về quân sự phổ thông, những kĩ năng quân sự cần thiết nhằm 
đáp ứng yêu cầu xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang nhân 
dân, sẵn sàng tham gia lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động 
viên và thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc. Hiểu 
biết chung về đội ngũ đơn vị (trung đội); sử dụng bản đồ địa 
hình quân sự; phòng chống địch tiến công bằng vũ khí công 
nghệ cao; ba môn quân sự phối hợp; trung đội bộ binh tiến 
công; trung đội bộ binh phòng ngự; kĩ thuật bắn súng ngắn; 
thực hành sử dụng một số loại lựu đạn Việt Nam. 
Học phần IV: Hiểu biết chung về quân, binh chủng. Học 
phần gồm những kiến thức chung về tổ chức lực lượng các 
quân, binh chủng; lịch sử, truyền thống quân, binh chủng; 
tham quan các học viện, nhà trường, đơn vị, bảo tàng...; thu 
hoạch. 
Bộ GD-ĐT thống nhất với Bộ Quốc phòng, Bộ Công 
an và các cơ quan liên quan xây dựng chương trình môn học 
GDQP&AN cho học sinh, SV các trường trung học phổ 
thông đến đại học. 
Như vậy, chương trình GDQP&AN cho SV đại học 
không phải là bất biến, nó vẫn được thay đổi, phát triển theo 
bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, 
đây lại là một chương trình có tính bắt buộc, thống nhất và 
tính bao phủ cao nên nội dung chương trình được “đóng 
khung” khá cứng nhắc từ cấp quản lí Bộ. Với đặc điểm đa 
dạng của người học, vai trò PTCT GDQP&AN ở cấp 
trường hay thấp hơn chủ yếu nằm ở việc tổ chức dạy - học, 
đánh giá, kiểm tra người học và một số nội dung “mở” khác 
để phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng, trình độ của 
người học. Điều đó cho thấy, ở mỗi cấp quản lí, PTCT 
GDQP&AN được thực hiện theo cách thức khác nhau, 
nhưng đều hướng tới việc đưa ra một chương trình học phù 
hợp với yêu cầu của nhiều bên. 
2.2. Xu hướng phát triển chương trình Giáo dục quốc 
phòng và An ninh cho sinh viên các trường đại học trong 
hệ thống giáo dục quốc dân đến năm 2025 
2.2.1. Xu hướng bối cảnh trong nước và quốc tế 
- Trên thế giới: Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu 
thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn 
nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn 
giáo, sắc tộc, li khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, 
bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra 
gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm 
công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử 
- viễn thông, sinh học, môi trường,... còn tiếp tục gia tăng. 
Các cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho nhiều tranh chấp 
nội bộ và quốc gia bắt đầu xảy ra. Bên cạnh đó, sự phát triển 
của các loại hình vũ khí hiện đại có tính hủy diệt lớn làm 
cho vấn đề bảo vệ quốc phòng càng trở nên khó khăn hơn. 
Điều này đặt vấn đề mọi người dân đều phải nâng cao tinh 
thần cảnh giác, luôn sẵn sàng chiến đấu chống lại các âm 
mưu thù địch phá hoại cách mạng. 
- Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của gần 
35 năm đổi mới (1986-2019) làm cho diện mạo của đất 
nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh 
thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được 
nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh 
CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân 
dân. Nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen 
nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể 
coi thường thách thức nào, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố 
gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc 
gia. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu 
“diễn biến hòa bình”, gây “bạo loạn lật đổ”, sử dụng chiêu 
bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chính trị ở 
nước ta. 
Trước tình hình đó yêu cầu về chương trình 
GDQP&AN cho SV các trường đại học phải thay đổi 
thường xuyên và phức tạp hơn. Vì vậy, PTCT GDQP&AN 
sẽ có xu hướng biến đổi cả tích cực lẫn tiêu cực. 
2.2.2. Xu hướng phát triển chương trình Giáo dục quốc 
phòng và An ninh theo hướng tích cực 
Từ nay đến năm 2025, chương trình GDQP&AN phải 
có sự đổi mới và phát triển ở tất cả các yếu tố, các mặt, các 
nội dung. Những hạn chế yếu kém của chương trình 
GDQP&AN trước đây sẽ từng bước được khắc phục có 
hiệu quả. Những vấn đề mới đặt ra cho GDQP&AN từng 
bước được giải quyết một cách phù hợp. Xu hướng biến đổi 
tích cực được thông qua việc nhận thức và giải quyết tốt 
những mâu thuẫn của quá trình PTCT GDQP&AN, qua kế 
thừa và phát triển các thành tựu và kinh nghiệm 
GDQP&AN từ trước tới nay. 
Xu hướng vận động tích cực của PTCT GDQP&AN sẽ 
trở thành hiện thực khi tác động tích cực của những biến đổi 
trong điều kiện khách quan được nhận thức, tận dụng, phát 
huy; những tác động tiêu cực được phát hiện, ngăn chặn, 
khắc phục kịp thời. Đồng thời, các lực lượng tham gia quá 
trình PTCT GDQP&AN phát huy cao độ vai trò chủ động 
trong việc thực hiện nhiệm vụ đổi mới và tăng cường quản 
lí GDQP&AN. 
Những biểu hiện chủ yếu của xu hướng vận động tích 
cực như: 
Thứ nhất, trước những biến động của tình hình mọi mặt 
trong nước và thế giới, trước yêu cầu ngày càng cao của việc 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 92-95; 99 
95 
đổi mới chương trình giáo dục, những người tham gia 
PTCT GDQP&AN cho SV các trường đại học sẽ nhận thức 
đầy đủ hơn về tầm quan trọng, mục tiêu, nhiệm vụ của 
chương trình GDQP&AN, từ đó, công tác PTCT 
GDQP&AN sẽ được chú trọng thực hiện thường xuyên và 
hiệu quả hơn. 
Thứ hai, trên cơ sở nội dung chương trình GDQP&AN 
đã và đang thực hiện; trong những năm tới, đến năm 2025, 
nội dung chương trình này tiếp tục được cải tiến, đổi mới. 
Những điểm chưa hợp lí trong nội dung chương trình qua 
các lần sửa đổi, điều chỉnh sẽ từng bước được khắc phục. 
Thứ ba, hình thức và phương pháp giảng dạy 
GDQP&AN được đổi mới phù hợp với sự đổi mới của nội 
dung chương trình GDQP&AN. 
Thứ tư, đội ngũ giảng viên thực hiện nhiệm vụ 
GDQP&AN phát triển cả về số lượng và chất lượng, đáp 
ứng yêu cầu ngày càng cao của GDQP&AN hiện nay và tới 
năm 2020. 
Thứ năm, việc bảo đảm kinh phí, thiết bị dạy học, chế 
độ chính sách đối với CBQL và giảng viên giảng dạy 
GDQP&AN ngày càng được đầy đủ, chu đáo hơn, đáp ứng 
được yêu cầu ngày càng cao của quá trình PTCT 
GDQP&AN cho SV các trường đại học trong bối cảnh mới. 
2.2.3. Xu hướng phát triển chương trình Giáo dục quốc 
phòng và An ninh theo hướng tiêu cực 
Mặc dù dự báo PTCT GDQP&AN cho SV các trường 
đại học ở Việt Nam sẽ vận động theo hướng tích cực nhưng 
không thể loại trừ xu hướng vận động tiêu cực bởi có rất 
nhiều thách thức, vấn đề đang đặt ra hiện nay. Xu hướng 
tiêu cực thể hiện ở chất lượng, hiệu quả PTCT GDQP&AN 
có thể sẽ giảm sút, mục tiêu, nhiệm vụ của GDQP&AN 
không được thực hiện với kết quả cao; những thành quả đã 
đạt được trong GDQP&AN từ trước tới nay không được giữ 
vững và tiếp tục phát triển, nếu như các vấn đề đặt ra không 
được khắc phục, các hiện tượng tiêu cực trong thi cử và bệnh 
thành tích trong GDQP&AN vẫn gia tăng. 
Một số biểu hiện hạn chế của PTCT GDQP&AN cho 
SV các trường đại học: 
Một là, một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà 
nước đối với GDQP&AN không được thực hiện nghiêm 
túc mà chỉ mang tính hình thức. Một số điểm chưa phù hợp 
với thực tiễn nhưng không được nhận thức hoặc chậm sửa 
đổi. 
Hai là, nội dung chương trình, hình thức, phương pháp 
GDQP&AN đổi mới không quyết liệt, không có những 
nghiên cứu thực tiễn để đạt chất lượng, hiệu quả cao. 
Ba là, đội ngũ giảng viên dạy GDQP&AN tiếp tục thiếu 
và chất lượng không được nâng cao. Các điều kiện vật chất 
phục vụ cho GDQP&AN không đáp ứng kịp thời, thậm chí 
còn bị cắt xén, chất lượng thấp. 
Trên thực tế, PTCT GDQP&AN sẽ biến đổi theo hướng 
đan xen giữa tích cực và tiêu cực. Cả xu hướng biến đổi tích 
cực và tiêu cực đều không thật nổi trội. Biểu hiện cụ thể của xu 
hướng này là: có lúc, có nơi, có công việc cụ thể làm tốt, cùng 
một thời điểm có đơn vị làm tốt, có đơn vị làm chưa tốt; hoặc 
cùng một đơn vị, có nội dung PTCT GDQP&AN làm tốt, lại 
có nội dung làm chưa tốt; hoặc có thể cùng một nội dung PTCT 
GDQP&AN lúc này thực hiện tốt, lúc khác lại thực hiện chưa 
tốt. Xu hướng vận động này phụ thuộc rất nhiều vào công tác 
quản lí PTCT GDQP&AN ở tất cả các cấp. 
2.3. Quan điểm đổi mới phát triển chương trình Giáo dục 
quốc phòng và An ninh cho sinh viên các trường đại học 
ở Việt Nam 
Thứ nhất, PTCT GDQP&AN cho SV đại học phải gắn 
với nhu cầu phát triển KT-XH và bảo vệ Tổ quốc; với tiến 
bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. 
Trong sự nghiệp quốc phòng toàn dân, GDQP&AN cho SV 
đại học luôn là công tác quan trọng. SV là thế hệ trẻ trí thức, 
là nguồn nhân lực chính để phát triển đất nước và cũng là 
lực lượng tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, 
bối cảnh trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi theo 
nhiều hướng khác nhau. Sự phát triển của khoa học công 
nghệ và toàn cầu hóa làm các nhân tố trên thế giới xích lại 
gần nhau hơn trong các mối quan hệ hợp tác, phụ thuộc lẫn 
nhau nhưng cũng vì thế mà đấu tranh với nhau nhiều hơn 
bởi cạnh tranh. Vì vậy, chương trình GDQP&AN cho SV 
cũng phải luôn thay đổi theo đòi hỏi công tác PTCT 
GDQP&AN phải luôn được quan tâm. 
Thứ hai, PTCT GDQP&AN cho SV đại học phải có sự 
đổi mới toàn diện. Công tác PTCT phải được xem xét, thay 
đổi từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, 
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực 
hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà 
nước đến hoạt động quản lí của các cơ sở đào tạo và việc 
tham gia PTCT GDQP&AN tại các đơn vị. 
Thứ ba, trong quá trình PTCT GDQP&AN cho SV đại 
học cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những 
nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm về 
PTCT các ngành, các lĩnh vực khác cũng như PTCT 
GDQP&AN trên thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những 
nhận thức, việc làm lệch lạc. Quản lí phải bảo đảm tính hệ 
thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng 
học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng 
điểm, lộ trình, bước đi phù hợp. 
Thứ tư, PTCT GDQP&AN là nâng cao dân trí, đào tạo 
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài trong lĩnh vực quân sự. 
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến 
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người 
học. Học đi đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; phát triển 
hài hòa trong điều kiện khác nhau của các cơ sở đào tạo. 
(Xem tiếp trang 99) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 96-99 
99 
những chuyên ngành kĩ thuật cao. Bám sát các nghị quyết 
của Đảng về công tác đào tạo cán bộ, Học viện tiếp tục 
nghiên cứu, đổi mới, hoàn thiện nội dung, chương trình 
đào tạo, nhất là nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ, 
công nghệ thông tin cho cán bộ, giảng viên; kết hợp chặt 
chẽ giữa đào tạo với sử dụng cán bộ, tăng cường bồi dưỡng 
phong cách, phương pháp, tác phong công tác. Thực hiện 
Nghị quyết số 86-NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự 
Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Nghị quyết 
8157/NQĐUQC-NT của Đảng ủy Quân chủng Hải quân 
về công tác GD-ĐT trong tình hình mới và các nghị quyết 
của Đảng ủy Học viện về xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng 
viên, nâng cao chất lượng đào tạo, nâng cao trình độ ngoại 
ngữ, phấn đấu đến năm 2020, 100% cán bộ, giảng viên của 
Học viện đạt chuẩn theo quy định của Luật Giáo dục đại 
học; 100% giảng viên có trình độ sau đại học, trong đó 
20% đến 30% có học vị tiến sĩ, sử dụng thành thạo ít nhất 
một ngoại ngữ (tiếng Anh trình độ TOEIC đạt 500 điểm 
hoặc trình độ tiếng Nga tương đương). 
3. Kết luận 
Trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi 
ngày càng cao, việc tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, 
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tại Học viện Hải quân là đòi hỏi 
tất yếu khách quan. Song, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ 
đạo của Đảng, Nhà nước, mà trực tiếp, thường xuyên là 
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng ủy, Bộ Tư 
lệnh Quân chủng Hải quân; sự giúp đỡ của các bộ, ban, 
ngành Trung ương; các cơ quan, đơn vị, địa phương trên 
cả nước, chất lượng GD-ĐT của Học viện Hải quân sẽ 
được nâng cao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ thực sự 
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, cùng với toàn 
Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng và bảo vệ vững chắc 
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kì mới. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội 
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội 
Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[3] Nguyễn Hồng Thao (2008). Công ước Biển 1982 và 
chiến lược biển của Việt Nam. NXB Chính trị Quốc 
gia - Sự thật. 
[4] Trần Hoàng Tiến (2012). Chủ quyền biển, đảo 
thiêng liêng của Tổ quốc. NXB Chính trị Quốc gia - 
Sự thật. 
[5] Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2012). Đại 
hội XI của Đảng và nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. NXB Chính trị 
Quốc gia - Sự thật. 
[6] Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự (2015). Xây 
dựng nền quốc phòng bảo vệ Tổ quốc lí luận và thực 
tiễn. NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. 
[7] Lê Minh Vụ (2009). Ý thức bảo vệ Tổ quốc của dân 
tộc Việt Nam trong lịch sử và hiện nay. NXB Chính 
trị Quốc gia - Sự thật. 
[8] Chính phủ (2010). Quyết định số 373/QĐ-TTg ngày 
23/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về”Phê duyệt đề 
án đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lí, bảo vệ 
và phát triển bền vững biển và hải đảoViệt Nam”. 
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH 
(Tiếp theo trang 95) 
3. Kết luận 
Ngày nay, đất nước đang đi sâu vào quá trình hội nhập 
kinh tế quốc tế, công tác GDQP&AN phải được tăng cường 
hơn nữa, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, 
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đối với sự 
nghiệp củng cố quốc phòng và an ninh, xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy cần thiết phải 
luôn cập nhật, hoàn thiện chương trình GDQP&AN nhằm 
đảm bảo mục tiêu đặt ra của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vừa 
phù hợp với bối cảnh phát triển hiện nay của đất nước. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ VII: Cương lĩnh xây dựng 
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
NXB Sự thật. 
[2] Bộ Chính trị (2011). Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 
12/02/2001 về tăng cường công tác giáo dục quốc 
phòng toàn dân trước tình hình mới. 
[3] Bộ GD-ĐT (2017). Thông tư số 03/2017/TT-BGDĐT 
ngày 13/01/2017 ban hành Chương trình Giáo dục 
quốc phòng và An ninh trong trường trung cấp sư 
phạm, cao đẳng sư phạm và cơ sở giáo dục đại học. 
[4] Chính phủ (2007). Nghị định số 116/2007/NĐ-CP 
ngày 10/07/2007 về Giáo dục quốc phòng và An ninh. 
[5] Nguyễn Đức Chính (chủ biên, 2015). Phát triển 
chương trình giáo dục. NXB Giáo dục Việt Nam. 
[6] Nguyễn Vũ Bích Hiền (chủ biên, 2015). Phát triển 
và quản lí chương trình giáo dục. NXB Giáo dục 
Việt Nam. 
[7] Quốc hội (2013). Luật giáo dục Quốc phòng và An 
ninh (Luật số 30/2013/QH13, ngày 16/06/2013). 
[8] Hoàng Văn Tòng (2013). Quản lí giáo dục quốc 
phòng - an ninh cho sinh viên các trường đại học 
trong bối cảnh mới. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, 
Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_phat_trien_chuong_trinh_giao_duc_quoc_phong_va_an.pdf