Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam

Quản trị đại học là quá trình xây dựng và tập hợp các quy tắc, hệ thống nhằm quản lý và kiểm soát toàn bộ hoạt động của một trường đại học. Nhà quản trị đại học chịu trách nhiệm trước nhà trường, cộng đồng và người học về

sự tin cậy, tính thích ứng và hiệu quả chi phí quản lý thông qua việc phân chia trách

nhiệm, nguồn lực và kiểm soát tính hiệu lực và hiệu quả. Trong bối cảnh toàn cầu hóa

và cạnh tranh quốc tế cao như hiện nay đòi hỏi giáo dục đại học VN phải có sự đổi mới

trong quản trị sao cho phù hợp. Bài viết phân tích những nhân tố tác động đến quản trị

đại học, đặc thù của trường đại học khối kinh tế, và đề xuất một mô hình nhằm nâng cao

hiệu quả quản trị đại học

pdf 6 trang yennguyen 3900
Bạn đang xem tài liệu "Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam

Quản trị đại học và mô hình cho trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam
Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Giáo Dục & Đào Tạo
63
1. Quản trị đại học và thực tế 
VN
Quản trị đại học là vấn đề lớn 
và trải rộng, bao hàm nhiều hoạt 
động như quản trị hệ thống, quản 
trị chiến lược, quản trị hoạt động 
đào tạo, quản trị khoa học và công 
nghệ, quản trị nhân sự và nguồn 
nhân lực, quản trị tài chính, quản trị 
cơ sở vật chất Đã có rất nhiều tác 
giả nghiên cứu từ quản trị đại học 
truyền thống cho đến các phương 
pháp quản trị đại học hiện đại; 
nghiên cứu chú trọng đến hiệu quả, 
chất lượng hoạt động quản trị, cũng 
như con người và các cấp độ quản 
trị khác nhau trong trường đại học. 
Cụ thể, các tác giả đã nghiên 
cứu về các xung đột, thách thức 
và một số vấn đề mới của quản 
trị đại học như nghiên cứu của 
Dennis, Tewarie & White (2003) 
về quản trị đại học hiệu quả trong 
thế kỷ 21; nghiên cứu của Gayle 
& John Fielden (2008) về các xu 
thế quản trị đại học trên thế giới; 
hoặc nghiên cứu của Pavel Zgaga 
(2008) về quản trị đại học, tự chủ 
và quản lý trong giáo dục đại học. 
Ngoài các nghiên cứu về khuynh 
hướng chung như vậy, còn có 
những nghiên cứu về các khía cạnh 
cụ thể trong quản trị đại học như 
Anthony H. Dooley (2005) nghiên 
cứu về sự ảnh hưởng của hội đồng 
quản trị trong trường đại học; Del 
Favero (2003) rồi Roger Benjamin 
(2006) nghiên cứu về sự tham gia 
của giảng viên vào quản trị đại 
học; Alf Lizzio và Keithia Wilson 
(2009) nghiên cứu về sự tham gia 
của sinh viên, v.v Riêng tại VN 
cũng đã có một số tác giả nghiên 
cứu về quản trị đại học như Dương 
Thiệu Tống (1995), Hoàng Tụy 
(2004), Phạm Phụ (2005), Phạm 
Thị Ly (2009), Đào Văn Khanh 
(2010), Ngô Doãn Đãi (2010), 
Nguyễn Quý Thanh (2011), Hoàng 
Thị Xuân Hoa (2011), v.v..
Theo chúng tôi, quản trị đại học 
là quá trình xây dựng và tập hợp 
các quy tắc, hệ thống nhằm quản 
lý và kiểm soát toàn bộ hoạt động 
của một trường đại học. Nhà quản 
trị đại học chịu trách nhiệm trước 
nhà trường, cộng đồng và người 
học về sự tin cậy, tính thích ứng và 
hiệu quả chi phí quản lý thông qua 
việc phân chia trách nhiệm, nguồn 
lực và kiểm soát tính hiệu lực và 
hiệu quả. Quản trị đại học là những 
phương cách để những người có 
thẩm quyền lãnh đạo hướng dẫn và 
giám sát các mục tiêu và giá trị của 
nhà trường thông qua các chính 
sách và quy trình thực hiện.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và 
cạnh tranh quốc tế cao như hiện nay 
đòi hỏi giáo dục đại học VN phải 
có sự đổi mới trong quản trị sao 
cho phù hợp. VN đang vận động 
từng ngày để phát triển, tuy vậy 
một thực tế rất buồn là chất lượng 
giáo dục đại học VN đang tụt hậu 
Quản trị đại học là quá trình xây dựng và tập hợp các quy tắc, hệ thống nhằm quản lý và kiểm soát toàn bộ hoạt động của một trường đại học. Nhà quản trị đại học chịu trách nhiệm trước nhà trường, cộng đồng và người học về 
sự tin cậy, tính thích ứng và hiệu quả chi phí quản lý thông qua việc phân chia trách 
nhiệm, nguồn lực và kiểm soát tính hiệu lực và hiệu quả. Trong bối cảnh toàn cầu hóa 
và cạnh tranh quốc tế cao như hiện nay đòi hỏi giáo dục đại học VN phải có sự đổi mới 
trong quản trị sao cho phù hợp. Bài viết phân tích những nhân tố tác động đến quản trị 
đại học, đặc thù của trường đại học khối kinh tế, và đề xuất một mô hình nhằm nâng cao 
hiệu quả quản trị đại học.
Từ khoá: Quản trị đại học, giáo dục đại học VN, toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc 
tế, đại học khối kinh tế.
Quản trị đại học 
và mô hình cho trường đại học 
khối kinh tế ở VN
gS.TS. NguyễN ĐôNg PhoNg & TS. NguyễN hữu huy NhựT
Đại học Kinh tế TP. HCM
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013
Giáo Dục & Đào Tạo
64
rất xa so với nhiều nước trong khu 
vực. Chính sự tụt hậu này đã làm 
ảnh hưởng đến quá trình phát triển 
kinh tế - xã hội nói chung của quốc 
gia. Trong hệ thống giáo dục đại 
học tại VN, chúng ta có thể thấy 
các trường đại học có rất ít sự tự 
chủ/tự trị. Bộ Giáo dục và Đào tạo 
hoặc cơ quan chủ quản các trường 
đóng vai trò nhà quản trị khi trực 
tiếp quyết định những vấn đề then 
chốt nhất. Đó là việc cung cấp/
phân bổ ngân sách, chủ trương về 
xây dựng phát triển cơ sở vật chất, 
cơ chế mua sắm tài sản, phương 
tiện và trang thiết bị; thậm chí còn 
quyết định thay cho các trường 
những việc lẽ ra thuộc lĩnh vực 
quản trị của các trường như ngành 
đào tạo hay mức học phí. Như vậy, 
Hiệu trưởng các trường chủ yếu là 
làm công việc của một nhà quản 
lý cao cấp (administration) hoặc 
người điều hành (management) 
các chính sách và quy định của cơ 
quan chủ quản, chứ chưa phải của 
một nhà quản trị (governance) thực 
thụ. Nhìn từ một góc cạnh khác, Bộ 
Giáo dục và Đào tạo hoặc cơ quan 
chủ quản các trường đại học VN 
thực hiện chức năng gần giống Hội 
đồng trường/Hội đồng quản trị của 
một trường đại học nước ngoài, tất 
nhiên Bộ và các cơ quan chủ quản 
còn có những chức năng khác theo 
luật định. Điều này một lần nữa, 
thể hiện mức độ tự chủ chưa cao 
của các trường đại học VN. 
Như vậy, phương pháp quản trị 
đại học hiện nay (vốn bắt đầu từ 
thập kỷ 50s của thế kỷ trước) chỉ có 
thể phù hợp và có hiệu quả trong 
bối cảnh kinh tế tập trung, kế hoạch 
hóa cao độ, hay hoàn cảnh chiến 
tranh trước đây. Hệ thống giáo dục 
đại học VN đã có những thay đổi 
cơ bản, đặc biệt là sự đa dạng hóa 
sở hữu các trường đại học, các loại 
hình đào tạo cũng như đòi hỏi của 
các nhà tuyển dụng, thì phương 
thức quản trị đại học cần phải có 
những thay đổi căn bản để đáp ứng 
đòi hỏi ngày càng cao của xã hội và 
xu thế của thời đại.
2. Tự chủ và tự chịu trách nhiệm: 
Phải là tất yếu
Giáo dục đại học VN đã mở 
rộng nhanh chóng trong một thập 
kỷ qua, với khát khao tiếp cận nền 
giáo dục đại học tiên tiến trên thế 
giới. Một trong những vấn đề cơ 
bản của quản trị đại học tiên tiến 
là tự chủ của trường đại học. Mặc 
dù đây là vấn đề được bàn thảo tới 
nhiều, cũng như được đề cập rất 
nhiều trong các văn bản pháp quy 
của Nhà nước nhưng đến hiện tại 
vẫn được xem là vấn đề “nóng”. 
Vậy cốt lõi của tự chủ đại học là 
gì? Nên trao quyền tự chủ cho các 
cơ sở giáo dục đại học như thế nào 
và cần thực hiện tự chủ như thế nào 
để đảm bảo mục đích của cuối của 
nó?
Trong số 20 quốc gia được khảo 
sát, Anderson & Johnson (1998) 
cho thấy nhóm các nước Anh - 
Mỹ có mức độ tự chủ giáo dục đại 
học cao nhất, tiếp đó là các nước 
châu Âu và cuối cùng là nhóm 
các nước châu Á (trừ trường hợp 
Singapore). Tuy nhiên, gần đây 
Nhật, Malaysia... cũng đã chuyển 
các đại học quốc lập sang cơ chế 
là một pháp nhân độc lập có quyền 
tự chủ cao; và hiện tại Trung Quốc 
cũng đang đi theo xu thế này. 
Ở VN, cần khẳng định rằng nói 
đến tự chủ là nói đến mối quan hệ 
giữa Nhà nước và cơ sở giáo dục 
đại học, tự chủ cao đồng nghĩa với 
mức độ can thiệp thấp của Nhà 
nước vào các công việc của cơ 
sở giáo dục đại học. Và, điều cần 
lưu ý là, tự chủ là quyền lợi của 
cơ sở do đó phải đi đôi với tự chịu 
trách nhiệm và tính giải trình cao 
sao cho đạt được các mục tiêu của 
nhà trường một cách có hiệu quả 
và minh bạch. Đặc biệt là trách 
nhiệm xã hội phải được thực hiện 
với một tinh thần cao nhất, vì đó 
là trách nhiệm đối với người học, 
phụ huynh, đội ngũ viên chức, nhà 
đầu tư/tài trợ, người sử dụng, cộng 
đồng, Nhà nước... gọi chung là 
những người có lợi ích liên quan.
Nhà nước cần mạnh dạn trao cơ 
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho 
các trường đại học trên cơ sở thực 
hiện ba nguyên tắc cơ bản của tự 
chủ đại học là tự chủ về học thuật, 
tự chủ về tổ chức và cán bộ, và tự 
chủ về tài chính. Tự chủ đại học 
chính là yếu tố cốt lõi của nền giáo 
dục hiện đại bởi nó thúc đẩy sự phát 
triển hệ thống theo sự vận động 
mang tính quy luật tự nhiên trong 
một môi trường giáo dục toàn cầu 
hóa có cạnh tranh lành mạnh, có sự 
định hướng rõ ràng của Nhà nước 
và được đảm bảo kiểm soát chặt 
chẽ về chất lượng. Cơ chế tự chủ, 
tự chịu trách nhiệm chính là chìa 
khóa cho đổi mới quản lý giáo dục 
đại học, giúp giải quyết hàng loạt 
các vấn đề trong hệ thống giáo dục 
đại học hiện nay cũng như trong 
tương lai.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu 
trách nhiệm các trường đại học sẽ 
phát huy được tối đa nguồn lực con 
người và cơ sở vật chất, thu hút tốt 
hơn các nguồn lực của xã hội đồng 
thời sử dụng hiệu quả hơn kinh phí 
của Nhà nước, mở rộng các hoạt 
động chuyển giao công nghệ và các 
dịch vụ khác để nâng cao năng lực 
tài chính cho phát triển bền vững, 
đảm bảo điều kiện thực hiện tốt 
các biện pháp nâng cao chất lượng 
đào tạo, nghiên cứu và tư vấn khoa 
học. 
Khi được giao cơ chế tự chủ, tự 
Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Giáo Dục & Đào Tạo
65
chịu trách nhiệm các trường đại học 
hoàn toàn có đủ năng lực để cạnh 
tranh với các trường đầu tư nước 
ngoài và các trường thứ hạng cao 
trong khu vực, giúp người học có 
thêm cơ hội lựa chọn cơ sở đào tạo, 
chương trình đào tạo chất lượng 
cao với chi phí hợp lý; giúp đào tạo 
nguồn nhân lực trình độ cao, thực 
hiện nhiệm vụ quốc gia và đáp ứng 
sát thực nhu cầu phát triển của kinh 
tế - xã hội đất nước.
3. hội đồng trường - Làm sao để 
phát huy?
Thời gian qua, theo thống kê 
của Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, trong số 414 (một 
thống kê khác của Vụ Tài chính 
hành chính sự nghiệp - Bộ Tài 
chính là 421) trường đại học, cao 
đẳng thì chỉ khoảng 20 trường đã/
từng thành lập Hội đồng trường. 
Câu chuyện “Hội đồng trường” 
tới đây chắc chắn sẽ tiêu tốn nhiều 
giấy mực khi Luật Giáo dục đại 
học có hiệu lực thi hành kể từ ngày 
01/01/2013. 
Thực tế thời gian qua cho thấy 
các Hội đồng trường thường không 
đủ quyền lực để ra các quyết định 
mà chủ yếu việc thành lập này là 
do cơ cấu tổ chức và bộ máy quản 
trị cần có; nói một cách thẳng thắn 
hơn, những Hội đồng trường đã/
từng được thành lập cũng chỉ mang 
tính hình thức và hầu như không 
có vai trò đáng kể trong quản trị 
trường đại học. Có quá ít Hội đồng 
trường được thành lập để giữ vai 
trò cốt yếu trong việc hoạch định 
các chính sách phát triển và quản 
trị của một trường đại học. Cũng 
cần nói thêm rằng Hội đồng quản 
trị của các trường đại học tư thục 
cũng không giống với khái niệm 
Hội đồng trường của đại học ở các 
nước tiên tiến trên thế giới vì bản 
chất hoạt động giống như hội đồng 
quản trị của các doanh nghiệp. 
Trong khi đó, Hội đồng quản trị 
của các trường đại học Mỹ là một 
tập thể mang tính chất công dân và 
nhiệm vụ chính yếu của họ là giúp 
trường đại học thực hiện tốt nhất 
việc phục vụ cho lợi ích của cộng 
đồng. Thành phần của Hội đồng 
trường theo quy định của Luật 
Giáo dục đại học VN (gồm: a. Hiệu 
trưởng, các Phó Hiệu trưởng, Bí 
thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn, 
Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản 
Hồ Chí Minh; đại diện một số 
khoa, đại diện cơ quan chủ quản cơ 
sở giáo dục đại học; và b. Một số 
thành viên hoạt động trong lĩnh vực 
giáo dục, khoa học, công nghệ, sản 
xuất, kinh doanh), nếu như được 
thành lập, sẽ khó lòng tránh khỏi 
trùng lặp với bộ máy quản lý hiện 
hành, làm cho việc quản trị chồng 
chéo lên việc quản lý.
Mô hình quản trị đại học của 
VN hiện nay đang (và sẽ) tồn tại 
song song một Hội đồng trường 
(hoặc Hội đồng quản trị) cùng một 
Ban chấp hành Đảng bộ để định 
hướng và giám sát toàn bộ hoạt 
động của nhà trường. Quyền quyết 
định cho các hoạt động quản lý của 
nhà trường chủ yếu do Ban giám 
hiệu (Hiệu trưởng và các Phó Hiệu 
trưởng) thống nhất. Phần lớn Ban 
Giám hiệu của các trường chỉ giới 
hạn công việc quản lý, lãnh đạo 
của mình thông qua việc chấp hành 
và thực hiện những nghị quyết của 
Ban chấp hành Đảng bộ. Như vậy, 
có thể thấy, Hội đồng trường của 
các trường đại học VN (tất nhiên 
trong đó có các trường đại học khối 
kinh tế) chỉ thực sự phát huy vai trò 
của mình khi định vị được mình 
đang ở đâu trong mối quan hệ giữa 
Đảng ủy và Ban giám hiệu. Điều 
đó cũng có nghĩa là tổ chức Đảng, 
phải chắc chắn rằng không làm thay 
công việc của Hội đồng trường.
4. Đâu là đặc thù của trường đại 
học khối kinh tế?
Thật khó đối với chúng tôi khi 
đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đâu 
là đặc thù của trường đại học khối 
kinh tế từ góc nhìn của nhà quản trị 
đại học. Có một sự thật là chúng tôi 
không tìm thấy bất cứ quốc gia nào 
phân biệt lĩnh vực đào tạo của từng 
đại học để từ đó có những phương 
cách quản trị thích hợp, bởi hầu hết 
các đại học trên thế giới đều đào 
tạo đa ngành/lĩnh vực.
Tuy vậy, trong đặc thù (lại đặc 
thù) của VN, chúng tôi sẽ cố gắng 
chỉ ra những nét riêng có mà các 
nhà quản trị cần quan tâm đối với 
một trường đại học khối kinh tế. 
Có thể bắt đầu bằng việc khoa học 
kinh tế không phải là một ngành 
thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, 
vì thế không nhất thiết Nhà nước 
phải đặt hàng các trường đào tạo 
theo “đơn”, thay vào đó xã hội sẽ 
nhập cuộc và can dự vào chương 
trình đào tạo của nhà trường để góp 
phần cho ra đời sản phẩm đào tạo 
đáp ứng sát nhu cầu của xã hội. Do 
vậy, tính xã hội hóa đối với chương 
trình đào tạo của các trường đại 
học khối kinh tế là rất cao; từ đó, 
việc chia sẻ kinh phí đào tạo giữa 
nhà trường và xã hội cũng cởi mở 
hơn rất nhiều.
Kế đến, các trường đại học khối 
kinh tế là các trường có nhiều/
hội đủ điều kiện nhất để tham gia 
việc hoạch định chính sách, góp 
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - 
xã hội cho từng địa phương, cho 
từng vùng và cho quốc gia bởi sự 
tường minh về kiến thức chuyên 
môn trong lĩnh vực mà trường tích 
lũy và nắm giữ. Các viện nghiên 
cứu trong một trường đại học khối 
kinh tế sẽ là địa chỉ đảm nhận trách 
nhiệm vinh dự này.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013
Giáo Dục & Đào Tạo
66
Trong bộ máy tổ chức của một 
trường đại học khối kinh tế cũng 
cần tính đến việc thành lập/cho ra 
đời các đơn vị xuất bản - thông 
tin kinh tế, các trung tâm dịch vụ 
và các công ty TNHH, công ty cổ 
phần. Đây chính là thế mạnh và nét 
đặc sắc cần khai thác và phát huy 
đối với một trường đại học chuyên 
đào tạo, nghiên cứu và tư vấn khoa 
học kinh tế.
Cuối cùng, mạng lưới cựu sinh 
viên kinh tế (Alumni) là thành 
phần cực kỳ quan trọng giúp cho 
các trường có nhiều cơ hội rõ rệt 
trong quá trình tìm kiếm các nguồn 
tài chính từ bên ngoài, cũng như 
xây dựng mối liên kết/tương tác 
với các doanh nghiệp. Từ mối liên 
kết/tương tác với các doanh nghiệp 
này, các trường sẽ bổ sung/gia tăng 
nguồn lực cho một giai đoạn phát 
triển kế tiếp. Rất có thể một số kỹ 
năng, một ngành học mới được 
thiết kế theo những nhu cầu thực 
tế của cộng đồng doanh nghiệp, 
sau khi có được kết quả khảo sát 
rõ ràng từ mối quan hệ luôn được 
duy trì giữa nhà trường và doanh 
nghiệp.
5. Một số đề xuất
Chúng tôi muốn nhắc lại một 
điều không bao giờ cũ, đó là vai 
trò quan trọng nhất của Nhà nước 
trong lĩnh vực giáo dục đại học là 
xác định tầm nhìn và chiến lược, 
bởi giáo dục đại học được công 
nhận rộng rãi là chìa khóa cho năng 
lực cạnh tranh kinh tế và sự thịnh 
vượng nói chung của mỗi quốc gia. 
Nếu có một chiến lược quốc gia về 
giáo dục đại học, thì chiến lược này 
sẽ là bộ khung để các trường xây 
dựng chiến lược cho riêng mình, 
nhằm đạt được mục tiêu của quốc 
gia trong bối cảnh của khu vực 
và của trường. Các trường sẽ chủ 
động bổ sung những ưu tiên chiến 
lược của chính mình để kết quả 
hoạt động có thể đáp ứng được cả 
hai mục tiêu của nhà trường và của 
quốc gia.
Hiện tại, cơ quan chủ quản của 
các trường đại học rất đa dạng và 
phong phú (!?). Chúng ta có thể 
thấy một số trường đại học thuộc 
Bộ Giáo dục và Đào tạo; một số 
khác thuộc các bộ, ngành chức 
năng; một số khác nữa thuộc Uỷ 
ban Nhân dân các tỉnh, thành; 
chúng ta cũng có các trường đại 
học thuộc các tổ chức đoàn thể, 
rồi có một số trường đại học thuộc 
các tập đoàn, tổng công ty. Chưa 
kể về mạng lưới đại học VN lại có 
sự xuất hiện của 2 đại học “Quốc 
gia” (TP.HCM và Hà Nội), cùng 
3 đại học “Vùng” (Huế, Đà Nẵng 
và Thái Nguyên). Với một mạng 
lưới chằng chịt cơ quan chủ quản 
như vậy, rõ ràng không dễ thực 
hiện một kế hoạch chiến lược phát 
triển các trường đại học VN với 
một định hướng thống nhất, càng 
không dễ xây dựng một chính sách 
tổng thể với sự đồng thuận về quy 
mô và định dạng của hệ thống.
Do vậy, theo chúng tôi, Chính 
phủ cần xây dựng lộ trình xóa bỏ 
cơ chế chủ quản như hiện tại, đưa 
đầu mối quản lý nhà nước tất cả 
các trường đại học về Bộ Giáo dục 
và Đào tạo; hủy bỏ chức năng kiểm 
soát và quản lý theo lối chi tiết của 
Nhà nước. Chính phủ và Bộ Giáo 
dục và Đào tạo sẽ xây dựng chính 
sách, hành lang pháp lý và trên hết 
là không làm thay và can thiệp vào 
công việc nội bộ của các trường, 
trên cơ sở trao quyền tự chủ và 
trách nhiệm xã hội/giải trình cho 
các trường (có thể bắt đầu bằng 
14 trường đại học công lập trọng 
điểm quốc gia hiện nay). Tiếp đến, 
cần củng cố và xác lập vai trò chủ 
đạo của Nhà nước trong việc đầu 
tư và hỗ trợ cho các trường, để các 
trường có thể phát triển trong một 
môi trường lành mạnh về học thuật 
và khai phóng, tránh hiện tượng 
“thương mại hóa giáo dục đại học” 
thông qua khẩu hiệu “đáp ứng nhu 
cầu xã hội” vốn chưa được khảo 
sát rõ ràng. Cần nhanh chóng thành 
lập cơ quan kiểm định chất lượng 
độc lập nhằm kiểm định, xếp hạng, 
sắp xếp và phân loại/phân tầng 
các trường đại học. Theo đó, chỉ 
các trường đại học theo hướng đại 
học nghiên cứu/tinh hoa mới được 
phép/chịu trách nhiệm đào tạo đến 
bậc tiến sĩ, nhằm cung cấp nguồn 
nhân lực có trình độ cao phục vụ 
cho nhu cầu quốc gia. Số còn lại, 
các trường đại học địa phương và 
các trường đại học không đủ nguồn 
lực để theo đuổi định hướng nghiên 
cứu, sẽ chịu trách nhiệm đào tạo 
bậc đại học đến tối đa là bậc cao 
học hệ ứng dụng nghề nghiệp.
Còn với riêng các trường đại 
học khối kinh tế thì sao? Đối với 
các trường đại học khối kinh tế, khi 
được Nhà nước giao quyền tự chủ 
gắn liền với trách nhiệm giải trình, 
cần thực hiện những nội dung cần 
thiết sau đây:
- Hoạch định và tổ chức thực 
hiện chiến lược phát triển nhà 
trường dài hạn và kế hoạch phát 
triển hàng năm trên cơ sở nhu cầu 
xã hội, nguồn lực hiện có và bổ 
sung của nhà trường, trên tinh thần 
đáp ứng nhu cầu xã hội, đảm bảo 
có hiệu quả để bù đắp chi phí và 
phát triển nhà trường;
- Hoạch định và tổ chức thực 
hiện các chiến lược truyền thông, 
tiếp thị một cách chuyên nghiệp 
và bài bản; tất nhiên việc xây dựng 
văn hóa của nhà trường và hệ thống 
nhận diện thống nhất là đương 
nhiên phải có;
- Bằng các giải pháp khác nhau 
Số 8 (18) - Tháng 01- 02/2013 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Giáo Dục & Đào Tạo
67
để nâng cao chất lượng đào 
tạo các bậc hệ, gia tăng 
công trình nghiên cứu khoa 
học có chất lượng, từng 
bước tham gia cộng đồng 
khoa học trên thế giới, đẩy 
mạnh hợp tác quốc tế làm 
nền tảng cho trao đổi giảng 
viên, cán bộ quản lý, sinh 
viên và công nhận trình độ 
đào tạo của nhauĐiều đó 
có nghĩa là thực hiện từng 
bước toàn cầu hóa trong 
giáo dục đại học;
- Xây dựng bộ máy quản 
lý và đội ngũ giảng viên 
chuyên nghiệp, có chương 
trình nâng cao chất lượng 
đội ngũ hàng năm, mạnh 
dạn đưa ra khỏi trường 
những cá nhân không đủ 
năng lực, phẩm chất; tìm 
kiếm những thầy giáo giỏi 
trong và ngoài nước để bổ 
sung vào đội ngũ giảng viên 
của trường;
- Lãnh đạo nhà trường, 
nhất là Hiệu trưởng, phải 
là người có trình độ chuyên 
môn, năng lực lãnh đạo, tư 
duy nhạy bén để lãnh đạo 
nhà trường đi đến thành 
công.
Nếu thực hiện được 
những điều chính yếu như 
trên, chúng tôi thiết nghĩ, 
các trường đại học VN nói 
chung, các trường khối kinh 
tế nói riêng sẽ vững vàng 
phát triển trong tương lai, 
góp phần rút ngắn khoảng 
cách giáo dục đại học của 
VN với các nước tiên tiến 
và tự tin thắng lợi ngay trên 
sân nhà.
Chúng tôi kết thúc bài 
viết này bằng việc đề xuất 
mô hình cho một trường 
đại học khối kinh tế tại VN mà kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho là 
phù hợp nhất (Hình 1). Ở mô hình đề 
xuất này, cần chú ý đến sự có mặt của 
các đơn vị xuất bản - thông tin kinh 
tế, các trung tâm dịch vụ và các công 
ty TNHH, công ty cổ phần như là đặc 
thù của trường đại học khối kinh tế mà 
Hình 1. Mô hình cho một trường đại học (khối kinh tế) tại VN 
Nguồn: Nguyễn Đông Phong & Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2012) 
Các khoa 
đào tạo 
Các phòng 
chức năng 
Các viện 
nghiên cứu 
Các công ty 
TNHH, cổ phần 
Các trung tâm 
dịch vụ 
Các ban 
chuyên môn 
Các đơn vị 
phục vụ 
đào tạo 
Các chương 
trình, dự án 
hợp tác 
quốc tế 
Các đơn vị 
xuất bản -
thông tin 
kinh tế 
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC 
(khối KINH TẾ) 
Hội đồng trường 
HIỆU TRƯỞNG 
và các Phó 
Hiệu trưởng 
Hội đồng Khoa học 
và Đào tạo 
Các Phân hiệu 
Định hướng 
Chỉ đạo, giám sát 
Phối hợp 
Tư vấn 
Tự chủ, giải trình 
chúng tôi vừa đề cập ở phần trên; 
bởi, chúng được tích hợp vào mô 
hình với vai trò vừa chuyển giao tri 
thức kinh tế cho cộng đồng vừa cung 
cấp ngân sách có thể cho nhà trường 
nhiều hoạt động đa dạng hơn, từ đó 
thúc đẩy phát triển những nguồn thu 
mới l
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 8 (18) - Tháng 01- 02/201368
Giáo Dục & Đào Tạo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Đề án Đổi 
mới giáo dục đại học VN (giai đoạn 
2006 - 2020). 
D. Bruce Johnstone (1998), The Financing 
and Management of Higher Education: 
A Status Report on Worldwide Reforms, 
UNESCO World Conference on Higher 
Education, Paris, France, October 5-9, 
1998.
D. Bruce Johnstone (2009), Những yêu cầu 
bức xúc và mặt hạn chế của phương 
thức “cùng chia sẻ kinh phí” trong giáo 
dục đại học, Bản dịch của Bùi Trần Chí, 
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội.
David Dapice, Nguyễn Xuân Thành & Ben 
Wilkinson (2005), Từ hiểm họa đến 
những hứa hẹn: Vấn đề chuyển đổi giáo 
dục đại học VN - Một số ý kiến trao 
đổi. Phạm Thị Ly dịch, Viện Nghiên 
cứu giáo dục, Trường Đại học Sư phạm 
TP.HCM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
dau-tu-tu-viet-nam-sang-myanmar-
co-the-tang-gap-4-lan-len-2-ty-usd-
20120321102622111ca33.chn
h t t p : / / d d d n . c o m .
vn/20120906101544317cat171/tim-
cach-cam-re-o-myanmar.htm
h t t p : / / d o a n h n h a n . v n e c o n o m y .
vn/20120620081631999P0C5/dau-tu-
vao-myanmar-can-tac-vo-uu.htm
c a m - n a n g / t u - v a n - t h u o n g -
mai/2012/09/1067792/dau-tu-vao-
myanmar-lac-quan-trong-than-trong/
h t t p : / / n l d . c o m .
vn/20120729102649556p0c1014/co-
hoi-lam-an-o-myanmar.htm
Dau-tu-Viet-Nam-o-Myanmar.html
trai-tham-do-don-nha-dau-tu-nuoc-
ngoai.html
hoi-dau-tu-vao-Myanmar.html
dau-tu-quay-tro-lai-Myanmar.html
viet-dua-nhau-sang-myanmar-dau-tu
dau-tu-vao-myanmar--khong-de-an.
html
su-kien/243-doanh-nghip-vit-nam-u-t-
vao-myanmar-gieo-ht-on-trai.html
ht tp : / /www.baocongthuong.com.vn/
p0c183n20233/viet-nam-myanmar-
nhung-co-hoi-phia-truoc.htm
song-dau-tu-cua-doanh-nghiep-viet-
nam-vao-myanmar.aspx
Myanmar/45/8609766.epi
Tin-BIDV/Ket-qua-hop-t--225;c-dau-
tu-cua-c--225;c-doanh-ngh.aspx
vao-myanmar-can-chuan-bi-ky
h t t p : / / w w w . m d e c . v n / i n d e x .
p h p ? o p t i o n = c o m _ c o n t e n t & v i e
w = a r t i c l e & i d = 1 5 9 2 : n h o n - n h i p -
x u c - t i e n - t h u o n g - m a i - v i e t - n a m -
myanmar&catid=179:xuc-tien-thuong-
mai&Itemid=235
doanhnghiep/chuyenlaman/83556/Dau-
tu-linh-vuc-gi-o-Myanmar?.html
sukien/68298/
h t tp : / /www.vcc i .com.vn/dau- tu- ta i -
chinh/20111221042448992/myanmar-
cap-phep-dau-tu-cho-nhieu-doanh-
nghiep-viet-nam.htm
vi/
Đại học Harvard (2007), Các kỹ năng quản 
lý hiệu quả - Manager’s Toolkit, NXB. 
Tổng hợp TP.HCM.
Đào Văn Khanh (2010), “Hướng đi nào cho 
đổi mới quản trị đại học VN?”, Báo Giáo 
dục và thời đại, ngày 27/5/2010.
Eliza G.C. Collin & Mary Anne Devanna 
(1994), Quản trị kinh doanh tinh giản, 
NXB Khoa học và kỹ thuật.
Harol Koontz, Cyril Odonnell & Heinz 
Weihrich (1994), Những vấn đề cốt 
yếu của quản lý, NXB Khoa học và kỹ 
thuật.
John Fielden (2008), Những xu hướng toàn 
cầu trong quản trị đại học, Phạm Thị 
Ly dịch, Viện Đào tạo quốc tế, Đại học 
Quốc gia TP.HCM.
Michel Amiel, Francis Bonnet & Joseph 
Jacobs (2000), Quản lý hành chính - 
Lý thuyết và thực hành, NXB Chính trị 
quốc gia.
Nguyễn Ngọc Thanh (2005), Đổi mới giáo 
dục đại học: Sự lựa chọn mô hình, Viện 
Nghiên cứu giáo dục, Trường Đại học 
Sư phạm TP.HCM.
Phạm Thị Ly (2008), Xây dựng một hệ thống 
quản trị đại học hiệu quả - Kinh nghiệm 
của Hoa Kỳ và khả năng vận dụng tại 
VN, Báo cáo tại hội thảo quốc tế Giáo 
dục so sánh tại New York, Hoa Kỳ.
Philip G. Altbach (2008), Trường đại học 
và toàn cầu hóa: Thực tế trong một thế 
giới bất bình đẳng, Phạm Thị Ly dịch, 
Viện Đào tạo quốc tế, Đại học Quốc gia 
TP.HCM.
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM (2011), 
Đề án thí điểm đổi mới cơ chế tự chủ, tự 
chịu trách nhiệm tại UEH.
Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Văn hóa 
- giáo dục - thanh niên - thiếu niên và 
nhi đồng của Quốc hội (2009), Hội thảo 
khoa học “Những vấn đề đặt ra đối với 
giáo dục đại học ở VN”, Báo Tuổi trẻ, 
ngày 23/12/2009.
Đầu tư nước ngoài tại Myanmar...
(Tiếp theo trang 62)

File đính kèm:

  • pdfquan_tri_dai_hoc_va_mo_hinh_cho_truong_dai_hoc_khoi_kinh_te.pdf