Quyết định sử dụng bảo hiểm y tế của người dân ở Việt Nam
TÓM TẮT
Sử dụng bảo hiểm y tế (BHYT) trong khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế thu hút sự quan tâm
của các chính sách vĩ mô của quốc gia trong xu thế dân số theo độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao.
Tuy nhiên, giải thích quyết định sử dụng BHYT của người dân dựa vào đặc điểm nhân khẩu học
trên phạm vi quốc gia ở Việt Nam chưa được nghiên cứu rộng rãi. Bài viết này sử dụng phương
pháp hồi quy probit và số liệu Điều tra mức sống dân cư năm 2012 (VHLSS 2012) để phân tích
các yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đển quyết định sử dụng BHYT. Kết quả cho thấy không có
sự khác biệt trong quyết định sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh đối với yếu tố dân tộc và giới.
Xác suất sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh xảy ra cao hơn ở nhóm người dân có thu nhập
thấp, sống ở thành thị, tuổi cao, trình độ học vấn thấp, và có bệnh nặng. Từ kết quả phân tích,
một số đề xuất giúp giảm rủi ro đạo đức khi sử dụng BHYT bao gồm: nâng cao chất lượng cơ sở
vật chất, đội ngũ cán bộ y tế tại các cơ sở y tế cấp thấp; khuyến khích và hỗ trợ các đơn vị cung
cấp bảo hiểm đa dạng hóa sản phẩm BHYT; tiến đến đa dạng hóa và chuyên nghiệp hóa các
kênh phân phối BHYT; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát và
phát triển các sản phẩm BHYT; cung cấp BHYT trực tuyến và đăng ký khám chữa bệnh sử dụng
BHYT bằng hình thức trực tuyến.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyết định sử dụng bảo hiểm y tế của người dân ở Việt Nam
92 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 QUYẾT ĐỊNH SỬ DỤNG BẢO HIỂM Y TẾ CỦA NGƯỜI DÂN Ở VIỆT NAM PHAN ĐÌNH KHÔI1,*, PHẠM MINH NGỌC2 NGUYỄN THỊ LƯƠNG1, NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG1 1 Trường Đại học Cần Thơ 2 Vietin Bank Cần Thơ *Email: pdkhoi@ctu.edu.vn (Ngày nhận: 29/08/2018; Ngày nhận lại: 05/12/2018; Ngày duyệt đăng: 14/01/2019) TÓM TẮT Sử dụng bảo hiểm y tế (BHYT) trong khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế thu hút sự quan tâm của các chính sách vĩ mô của quốc gia trong xu thế dân số theo độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ cao. Tuy nhiên, giải thích quyết định sử dụng BHYT của người dân dựa vào đặc điểm nhân khẩu học trên phạm vi quốc gia ở Việt Nam chưa được nghiên cứu rộng rãi. Bài viết này sử dụng phương pháp hồi quy probit và số liệu Điều tra mức sống dân cư năm 2012 (VHLSS 2012) để phân tích các yếu tố nhân khẩu học ảnh hưởng đển quyết định sử dụng BHYT. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt trong quyết định sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh đối với yếu tố dân tộc và giới. Xác suất sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh xảy ra cao hơn ở nhóm người dân có thu nhập thấp, sống ở thành thị, tuổi cao, trình độ học vấn thấp, và có bệnh nặng. Từ kết quả phân tích, một số đề xuất giúp giảm rủi ro đạo đức khi sử dụng BHYT bao gồm: nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ y tế tại các cơ sở y tế cấp thấp; khuyến khích và hỗ trợ các đơn vị cung cấp bảo hiểm đa dạng hóa sản phẩm BHYT; tiến đến đa dạng hóa và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối BHYT; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát và phát triển các sản phẩm BHYT; cung cấp BHYT trực tuyến và đăng ký khám chữa bệnh sử dụng BHYT bằng hình thức trực tuyến. Từ khóa: Bảo hiểm y tế; Khám chữa bệnh; VHLSS; Việt Nam. People’s decision to use medical insurance in Vietnam ABSTRACT Decision to use medical insurance for health care attracts macro-policy attention as a majority of population stays in the labor force in Vietnam. Although, sound understaing of people’s decision to use medical insurance for health care based on demographics nationwide is limited. This paper applying a probit model and VHLSS 2012 (Vietnam Household Living Standards Survey in 2012) to explain the people’s decision to use medical insurance for health care. The result showed that there is no difference in the decision of using the medical insurance between the Kinh and other ethnic groups, as well as between men and women. Besides, people who were poor, living in urban areas, elderly or seriously ill tend to use medical insurance more often than others. Some recommendations to overcome limited access and limited usage of medical insurance for health care include: improving medical facilities at lower levels of the health care system; encouraging diversification of health insurance products in order to further diversify and professionalize distribution channels of health insurance; applying information technology in managing, supervising and developing health care insurance products; shifting form traditional based health care insurance to online health insurance; and providing online registration system for health insurance users. Keywords: Health care; Medicalinsurance; VHLSS; Viet Nam. Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 93 1. Giới thiệu Thu nhập bình quân đầu người gia tăng kéo theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng gia tăng của đa số người dân. Dịch vụ chăm sóc sức khỏe có đặc điểm riêng biệt khác với hàng hóa thông thường bởi vì nhu cầu chăm sóc sức khỏe cũng như nguy cơ mắc bệnh của mỗi cá nhân khác biệt nhau, nên chi phí y tế gắn với dịch vụ chăm sóc sức khỏe thường khó dự đoán chính xác. Đồng thời, dịch vụ chăm sóc sức khỏe phụ thuộc chủ yếu vào các cơ sở y tế bởi vì nhu cầu khám chữa bệnh phụ thuộc rất lớn vào phương pháp điều trị do bác sĩ quyết định. Đặc biệt là dịch vụ chăm sóc sức khỏe gắn liền với sinh mạng nên dù người dân không đủ thu nhập để trang trải thì nhu cầu khám chữa bệnh cũng vẫn rất cấp thiết (Lê Quang Cường, 2008). Vì vậy, bảo hiểm y tế (BHYT) là một trong những lựa chọn được dùng để bù đắp rủi ro sức khỏe của người dân ở các quốc gia trên thế giới và không loại trừ ở Việt Nam. BHYT được xây dựng dựa trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro bệnh tật và chi phí khám chữa bệnh giữa những người tham gia. Ở Việt Nam, BHYT được cung cấp bởi công ty bảo hiểm của Nhà nước hoạt động vì mục tiêu lợi ích cộng đồng. Đến năm 2014, Luật BHYT quy định người tham gia BHYT trả mức phí bảo hiểm theo quy định, số tiền này sẽ được tổ chức BHYT chuyển vào quỹ BHYT và dùng để chi trả cho các cơ sở y tế theo hợp đồng khám chữa bệnh BHYT. Mức chi trả BHYT đối với cá nhân phụ thuộc vào đối tượng, cơ sở y tế và loại hình khám chữa bệnh. Nhìn chung, BHYT nhằm mục tiêu giảm gánh nặng chi phí y tế cho người bệnh. Tuy nhiên, vấn đề cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người có BHYT và sử dụng BHYT còn tồn tại những bất cập ở cả hai phía. Phía cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, nhiều cơ sở y tế phân biệt đối xử giữa hình thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bằng tiền mặt với hình thức khám chữa bệnh bằng BHYT (vấn đề lựa chọn lựa bất lợi – adverse selection). Những bệnh nhân thanh toán tiền mặt thường được chăm sóc tốt và được chú ý nhiều hơn so với những người có BHYT (Huynh và Pretorius, 2009). Cong và Mai (2014) và Nguyen (2011) phân tích các yếu tố tác động đến sự hài lòng của bệnh nhân khi điều trị tại các bệnh viện công và tư ở Việt Nam. Kết quả chỉ ra rằng các yếu tố hữu hình như thiết bị, dụng cụ y khoa, môi trường bệnh viện có vai trò quan trọng nhất trong việc kì vọng về chất lượng dịch vụ. Yếu tố có ảnh hưởng tiếp theo là “thái độ và y đức” và cuối cùng là “dễ dàng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe”. Bên cạnh đó, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tư cũng tồn tại một số vấn đề đáng quan tâm là người cung cấp muốn tối đa hóa lợi ích ngược lại với nguyện vọng của bệnh nhân. Thị trường cung cấp dịch vụ sức khỏe tư thường thao túng nhu cầu bệnh nhân cả về số lượng và chất lượng thuốc (Nguyen, 2011). Trong khi đó, hành vi sử dụng BHYT khám chữa bệnh liên quan đến vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard) xảy ra sau khi người dân được cấp thẻ BHYT. Nguyễn Thị Minh và Hoàng Bích Phương (2012) phân tích sử dụng số liệu VHLSS năm 2008 và 2012 cho thấy rủi ro đạo đức trong BHYT tự nguyện đã gia tăng về mức độ và diễn ra theo nhóm tuổi ở năm 2010 so với năm 2008. Tương tự, Nguyễn Văn Phúc và Cao Việt Cường (2014) sử dụng số liệu phỏng vấn trực tiếp người dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 03/2014 đến tháng 05/2014 cho thấy có hiện tượng lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức trong việc cấp và sử dụng BHYT tự nguyện trên địa bàn. Trong đó, những người dân có sức khỏe không tốt nằm trong số nhiều những người mua BHYT (lựa chọn bất lợi) và những người có BHYT tự nguyện đi khám bệnh nhiều hơn so với những người không có BHYT hoặc sở hữu các loại BHYT khác (rủi ro đạo đức). Thực trạng trên đặt ra thách thức lớn cho mục tiêu của chương trình BHYT toàn dân đến năm 2020, trong khi tỷ lệ bao phủ BHYT năm 2015 chỉ khoảng trên 70% và nhiệm vụ còn lại là phải mở rộng tỉ lệ BHYT cho 30% dân số còn lại. Tuy nhiên, nghiên cứu về hành vi sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh của người dân còn khá khiêm tốn. Các nghiên cứu trước đây (xem Ensor, 1995; Sepehri và cộng sự, 2006) phân tích chương trình BHYT ở giai 94 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 đoạn thử nghiệm hoặc phân tích vấn đề rủi ro đạo đức trong BHYT (Nguyễn Thị Minh và Hoàng Bích Phương, 2012; Nguyễn Văn Phúc và Cao Việt Cường, 2014). Trong khi chi phí giao dịch có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng BHYT của người dân, mặc dù vậy các nghiên cứu trước đây thường chưa tách biệt quyết định mua bảo hiểm với quyết định sử dụng BHYT. Bài viết này nhằm mục tiêu phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh của người dân ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để đề xuất hướng cải cách hoạt động của BHYT trong giai đoạn tới. Do vậy, nghiên cứu để hiểu hành vi sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh của người dân và các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh của người dân có ý nghĩa đối với hoạt động triển khai chương trình BHYT toàn dân trong giai đoạn hiện nay. Phần còn lại của bài viết bao gồm: mục 2 trình bày phương pháp nghiên cứu; mục 3 trình bày kết quả và thảo luận; mục 4 kết luận và kiến nghị đề xuất hướng phát triển BHYT ở Việt Nam. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Mô hình lý thuyết Mô hình quyết định mua BHYT dựa theo lý thuyết phúc lợi của Arrow (1963) rằng cá nhân chọn mua bảo hiểm sức khỏe dựa vào mục tiêu tối đa hóa lợi ích kỳ vọng dựa vào mức thu nhập và chi phí khám chữa bệnh trong điều kiện không chắc chắn. Sự lựa chọn của cá nhân đối với bảo hiểm được xác định dựa vào hàm hữu dụng kỳ vọng của Bernoulli (1783) đối với quyết định tiêu dùng trong điều kiện không chắc chắn. Theo đó, quyết định mua bảo hiểm y tế của người dân dựa trên sự cân đối giữa chi phí mua bảo hiểm y tế và lợi ích nhận được từ sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh. Giả định rằng, chi phí bảo hiểm một mặt làm giảm thu nhập, mặt khác làm giảm chi phí khám chữa bệnh mà người mua bảo hiểm phải gánh chịu. Propper và cộng sự (2001) đề xuất mô hình lợi ích kỳ vọng của người mua bảo hiểm trong điều kiện không chắc chắn. Với giá trị tài sản ban đầu w , hàm lợi ích kỳ vọng của cá nhân trong trường hợp không có BHYT có dạng: 0 Max[ ( )]i i i i iU w y c (1) và trong trường hợp có BHYT có dạng 1 Max[ ( )]i i i i i iU w y c (2) trong đó, 0 iU và 1 iU là lợi ích kỳ vọng của cá nhân trong trường hợp không mua BHYT và có mua BHYT; iw là giá trị tài sản ban đầu; iy và ic là thu nhập và chi tiêu; j là phí bảo hiểm; i là chi phí khám chữa bệnh kỳ vọng. Bất cân xứng thông tin hiện diện trong hợp đồng bảo hiểm dẫn đến vấn đề lựa chọn bất lợi (adverse selection) và rủi ro đạo đức (moral hazard). Trong trường hợp ex-ante, cá nhân dựa vào kết quả so sánh lợi ích kỳ vọng của hai trạng thái 0 iU và 1 iU để quyết định mua BHYT. Mức độ không chắc chắn của sức khỏe làm xảy ra rủi ro tài chính khi chi phí y tế vượt qua một ngưỡng thu nhập. Chaudhuri và Roy (2008), Wagstaff và Lindelow (2008) lập luận rằng chi phí y tế vượt ngưỡng thu nhập trung bình của người dân được xem là “thảm họa” làm gia tăng nhu cầu sử dụng BHYT. Bên cạnh đó, lợi ích kỳ vọng từ BHYT còn phụ thuộc vào chất lượng dịch vụ y tế. Besley và cộng sự (1999) chỉ ra rằng chất lượng khám chữa bệnh là tăng nhu cầu sử dụng BHYT trong khi các chi phí tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế và sự sẵn có của các cơ sở trong một khu vực địa phương có ảnh hưởng giảm nhu cầu sử dụng BHYT của cá nhân. Gần đây, Abimbola và cộng sự (2015) chỉ ra rằng chi phí giao dịch có ảnh hưởng đến quyết định sử dụng BHYT của người dân. Trong trường hợp ex- post, cá nhân sử dụng BHYT khám chữa bệnh khi lợi ích do sử dụng BHYT lớn hơn lợi ích không sử dụng BHYT. 2.2. Mô hình ước lượng Gọi *U là chênh lệch lợi ích giữa (2) và (1), khi đó *U được viết lại dưới dạng: * * * 0 if 0 1 if 0 i i i i i i U U I U = x (3) trong đó, * iU được đo lường thông qua biến phụ thuộc nhị phân iI ( iI nhận giá trị bằng 1 nếu cá nhân sử dụng BHYT trong khám chữa Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 95 bệnh và ngược lại iI bằng 0). ix là véc-tơ tập hợp các biến nhân khẩu học quan sát được giải thích cho các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân quyết định sử dụng BHYT khám chữa bệnh. Các yếu tố này bao gồm đặc điểm của cá nhân, đặc điểm thu nhập và chi tiêu, chất lượng dịch vụ y tế, và chi phí khám chữa bệnh kỳ vọng (theo Nguyễn Văn Phúc và Cao Việt Cường, 2014). i là sai số ngẫu nhiên, và là véc-tơ các tham số ước lượng. Vì mức chênh lệch lợi ích của cá nhân, * iU , không quan sát được, các hệ số có thể được ước lượng bằng mô hình xác suất với biến phụ thuộc là biến nhị phân Papke& Wooldridge (1993). Theo đó, các yếu tố tác động đến việc sử dụng BHYT được phân tích bằng mô hình probit, bao gồm: tuổi, tuổi bình phương, dân tộc, số lần khám, thành thị, giới tính, thu nhập bình quân, cơ sở y tế, vùng, loại hình bảo hiểm, trình độ học vấn. Xác suất của cá nhân sử dụng BHYT khám chữa bệnh có dạng: *Pr( 1| ) ( 0 | ) ( 0) ( ) ( ) ( ) i i i i i i i i i i I Pr w Pr Pr Pr x x x x x x (4) Trong đó, ( )i là hàm phân phối tích lũy chuẩn (cdf), với ( )i là hàm mật độ phân phối chuẩn (pdf). Tuy nhiên hệ số ước lượng thường không được sử dụng trực tiếp để giải thích ý nghĩa của các biến độc lập trong mô hình (Wooldridge, 2002). Tác động biên sẽ được tính toán và được sử dụng để giải thích ý nghĩa của mô hình thay cho các hệ số ước lượng , dựa theo công thức: ( ) ( )i i k ikx (5) Các hệ số và hiệu ứng biên ( )i k từ mô hình quyết định tham gia bảo hiểm y tế được ước lượng bằng phương pháp ước lượng hợp lý tối đa (MLE) dựa theo Greene (2003). 2.3. Số liệu Bộ số liệu thu thập thông tin mức sống dân cư từ VHLSS 2012 được Tổng cục Thống kê thu thập vào tháng 3, 6, 9 và 12 trong năm 2012 từ 3.133 địa bàn ở Việt Nam được sử dụng. Thông tin khảo sát bao gồm hai phần: thứ nhất, phần dành cho hộ dân cư có các thông tin về các yếu tố nhân khẩu học, di cư, giáo dục, y tế, thu nhập, chi tiêu, đồ dùng lâu bền, nhà ở và tham gia các chương trình trợ giúp ở cấp độ hộ gia đình; và thứ hai, phần dành cho xã thu thập các thông tin phản ánh điều kiện sống trong phạm vi xã ảnh hưởng đến mức sống của hộ dân cư. Các biến trong mô hình nghiên cứu được lấy từ phần khảo sát hộ gia đình. Cụ thể, các biến được trích từ Mục 1 có nội dung về thành viên hộ gia đình, Mục 2 có nội dung về giáo dục, Mục 3 có nội dung về y tế trong bộ số liệu VHLSS năm 2012. 3. Kết quả và thảo luận 3.1. Thực trạng mua BHYT của người dân Số liệu VHLSS 2012 cho thấy có 12.348 người dân có BHYT trong tổng số 17.139 quan sát, tỉ lệ bao phủ của BHYT là khoảng 72%. Trong đó, số người sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh là 8.338 người, tỷ lệ sử dụng BHYT là 68% trong tổng số người có BHYT (Bảng 1). Bảng 1 Thực trạng về việc sử dụng BHYT khi khám chữa bệnh Không có bảo hiểm Bảo hiểm bắt buộc Bảo hiểm tự nguyện Bảo hiểm cho người nghèo Tổng Số lượt người không sử dụng BHYT 4,791 705 1,533 1,772 8,801 Tỉ lệ không sử dụng BHYT (%) 54% 8% 17% 20% 100% Số người có sử dụng BHYT 0 1,335 2,575 4,428 8,338 Tỉ lệ có sử dụng BHYT (%) 0% 16% 31% 53% 100% Tổng 4,791 2,040 4,108 6,200 17,139 Nguồn: VHLSS 2012. 96 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Ch ... Đvt: Số quan sát Bảo hiểm bắt buộc Bảo hiểm tự nguyện Bảo hiểm cho người nghèo Tổng Sử dụng BHYT tại các cơ sở y tế 1,335 2,575 4,428 8,338 Trung tâm y tế 246 715 2,265 3,226 Bệnh viện tư 152 349 382 883 Bệnh viện huyện 416 805 1,128 2,349 Bệnh viện cấp cao 521 706 653 1,880 Sử dụng BHYT theo thu nhập 1,335 2,575 4,428 8,338 Thu nhập nhóm 1 12 193 1,507 1,712 Thu nhập nhóm 2 68 504 1,112 1,684 Thu nhập nhóm 3 204 600 691 1,495 Thu nhập nhóm 4 382 696 590 1,668 Thu nhập nhóm 5 669 582 528 1,779 Sử dụng BHYT theo vùng 1,335 2,575 4,428 8,338 Đồng bằng sông Hồng 304 310 571 1,185 Trung du và miền núi phía Bắc 229 217 1,105 1,551 Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 269 653 994 1,916 Tây Nguyên 77 110 397 584 Đông Nam Bộ 227 302 312 841 Đồng bằng sông Cửu Long 229 983 1,049 2,261 Nguồn: VHLSS 2012 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 99 Xét theo các mức thu nhập, các nhóm có thu nhập thấp nhất (nhóm 1 và nhóm 2) thường sử dụng loại bảo hiểm cho người nghèo nhiều nhất, các nhóm có thu nhập trung bình (nhóm 3 và nhóm 4) thường dùng thẻ bảo hiểm tự nguyện và nhóm thu nhập cao nhất (nhóm 5) lại có tỷ trọng dùng thẻ bảo hiểm bắt buộc cao nhất. Trong đó, bảo hiểm cho người nghèo là loại bảo hiểm được sử dụng nhiều nhất và tỷ trọng sử dụng loại thẻ BHYT này có xu hướng giảm khi thu nhập của quan sát tăng lên. Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm có tỉ trọng sử dụng thấp nhất, tuy nhiên, việc sử dụng loại bảo hiểm này có chiều hướng tăng khi thu nhập tăng, điều tương tự cũng được nhận thấy đối với loại thẻ bảo hiểm tự nguyện (Bảng 5). Nhìn chung, BHYT cho người nghèo được sử dụng nhiều ở tất cả các vùng miền. Trong đó, khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên có tỉ lệ sử dụng BHYT người nghèo cao nhất (chiếm khoảng 70%). Ngoài ra, BHYT bắt buộc được sử dụng với tỉ lệ không cao và có sự khác biệt nhất định giữa các khu vực. Cụ thể, khu vực Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có tỉ lệ sử dụng BHYT người nghèo thấp nhất và đồng thời cả hai khu vực này có xu hướng sử dụng BHYT bắt buộc và tự nguyện cao hơn các khu vực khác trong cả nước. 3.4. Kết quả ước lượng Các kết quả kiểm định ở Bảng 5 cho thấy mô hình không bị đa cộng tuyến (chỉ số VIF dao động từ 1,03 đến 3,59) và không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi (kiểm định Breusch-Pagan có giá trị p-value = 0,00). Thêm vào đó, kiểm định Hosmer-Lemeshow có giá trị (p-value = 0.03) cho kết luận mô hình phù hợp với dữ liệu và tỉ lệ dự báo đúng của mô hình là 72,85%. Hệ số ước lượng của tuổi có giá trị dương và có ý nghĩa ở mức 1% cho thấy tuổi càng cao thì nhu cầu chăm sóc sức khỏe và quan tâm đến chi phí càng cao (khi tuổi tăng thêm 1 đơn vị thì xác suất sử dụng thẻ BHYT sẽ tăng 0,56 điểm phần trăm). Kết quả này phù hợp với xu hướng sử dụng BHYT theo thời gian nhằm tiết kiệm chi phí. Tuy vậy, kết quả này trái với kỳ vọng của các nhà cung cấp BHYT bởi vì biểu phí BHYT cho thấy tuổi và phí bảo hiểm có mối tương quan dạng . Trong khi đó, kết quả ước lượng cho thấy tuổi và xác suất sử dụng BHYT có mối tương quan phi tuyến tính dạng do hệ số ước lượng của tuổi bình phương có giá trị âm và có ý nghĩa ở mức 1%. Mặc dù vậy, mức tác động biên của tuổi bình phương là không đáng kể. Hệ số ước lượng của người dân sống ở thành thị có giá trị dương với mức ý nghĩa 1% và có giá trị tác động biên là 0,03. Như vậy, người dân sống ở thành thị có xác suất sử dụng BHYT cao hơn người dân ở nông thôn là 3,44 điểm phần trăm. Kết quả này phản ánh khả năng tiếp cận dịch vụ y tế ở thành thị tốt hơn ở nông thôn nên phần trăm số quan sát có thẻ BHYT cũng như có sử dụng loại thẻ này trong thanh toán khám chữa bệnh cao hơn nhóm đối tượng ở nông thôn. Kết quả tương tự được chỉ ra bởi Ali (2009) và Kirdruang (2011) rằng khoảng cách đến các bệnh viện công càng xa thì người dân có xu hướng sử dụng các dịch vụ y tế gần xung quanh khu vực sinh sống. 100 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 Bảng 6 Các yếu tố tác động đến việc sử dụng thẻ BHYT Hệ số ước lượng ( ) Sai số chuẩn đã điều chỉnh (Adj. Error) Hiệu ứng biên (M.E) Tuổi 0,0160*** 0,0025 0,0056 Tuổi bình phương - 0,0001*** 0,0000 - 0,0000 Dân tộc - 0,0246 0,0463 - 0,0085 Thành thị 0,0997*** 0,0302 0,0344 Giới tính - 0,0054 0,0254 - 0,0019 Trình độ học vấn Tiểu học - 0,0787** 0,0401 - 0,0277 Trung học cơ sở - 0,0463 0,0447 - 0,0163 Trung học phổ thông - 0,1111** 0,0509 - 0,0395 Đại học trở lên 0,0106 0,0669 0,0037 Thu nhập của hộ Thu nhập bình quân 2 - 0,0209 0,0446 - 0,0073 Thu nhập bình quân 3 - 0,1237*** 0,0464 - 0,0439 Thu nhập bình quân 4 - 0,0720 0,0470 - 0,0253 Thu nhập bình quân 5 - 0,1330*** 0,0492 - 0,0471 Vùng miền Đồng bằng sông Hồng - 0,2776*** 0,0419 - 0,1008 Trung du và miền núi phía Bắc - 0,1033** 0,0485 - 0,0366 Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung - 0,0933** 0,0372 - 0,0329 Tây Nguyên - 0,1113** 0,0539 - 0,0397 Đông Nam Bộ - 0,1596*** 0,0450 - 0,0572 Loại cơ sở y tế Bệnh viện huyện - 0,1784*** 0,0385 - 0,0635 Bệnh viện cấp cao - 0,5253*** 0,0400 - 0,1932 Bệnh viện tư - 1,1966*** 0,0415 - 0,4469 Thầy thuốc truyền thống - 1,3417*** 0,0536 - 0,4971 Loại hình bảo hiểm Bảo hiểm bắt buộc - 0,0860** 0,0470 - 0,0304 Bảo hiểm tự nguyện - 0,1257*** 0,0324 - 0,0442 Số lần khám 0,0610*** 0,0089 0,0212 Hệ số chặn 0,7474 Số quan sát 12.348 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 101 Hệ số ước lượng ( ) Sai số chuẩn đã điều chỉnh (Adj. Error) Hiệu ứng biên (M.E) Wald chi2(27) 1.788,9 Prob > chi2 0,0000 Pseudo R2 0,1376 VIF trung bình 3,48 Kiểm định Breusch-Pagan p-value = 0,00 Kiểm định Hosmer-Lemeshow p-value = 0,03 Tỷ lệ dự đoán đúng của mô hình 72,85% Ghi chú: ***,**: hệ số có ý nghĩa ở mức 1%, 5% Hệ số ước lượng của mức thu nhập bình quân (mức 3 và mức 5) có mối tương quan nghịch với xác suất sử dụng BHYT và có ý nghĩa ở mức 1%. Kết quả chỉ ra rằng thu nhập của của người dân ở mức càng cao thì tỉ lệ sử dụng BHYT càng thấp hơn so với nhóm thu nhập thấp (mức 1). Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Sepehri et al. (2009) với kết luận rằng khi thu nhập càng thấp thì người dân càng có xu hướng dùng thẻ BHYT để giảm chi phí phát sinh trong quá trình khám chữa bệnh và người có trình độ học vấn cao có xu hướng không sử dụng BHYT trong quá trình khám chữa bệnh. Hệ số ước lượng của trình độ học vấn cho kết quả không nhất quán giữa các bậc. Tương tự, khi đối tượng có trình độ học vấn (tiểu học, trung học phổ thông) thì tỉ lệ sử dụng BHYT không cao hơn nhóm đối tượng không có bằng cấp. Hệ số ước lượng của yếu tố vùng miền có ý nghĩa và có mối tương quan nghịch với xác suất sử dụng BHYT. So với vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), xác suất sử dụng thẻ giảm xấp xỉ 4 điểm phần trăm đối với 3 khu vực: Trung du và miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên. Trong khi đó, xác suất sử dụng BHYT tại Đông Nam Bộ giảm 5,72 điểm phần trăm và 10,08 điểm phần trăm đối với khu vực Đồng bằng sông Hồng. Kết quả cho thấy có sự khác biệt trong xu hướng sử dụng BHYT giữa các khu vực, trong đó, khu vực ĐBSCL có xác suất sử dụng BHYT cao hơn các khu vực khác. Hệ số ước lượng của loại cơ sở y tế có tương quan nghịch và có ý nghĩa ở mức 1%. Lấy trung tâm y tế làm cơ sở so sánh, xác suất sử dụng BHYT ở các cơ sở y tế còn lại đều thấp hơn so với ở trung tâm y tế. Kết quả này phản ánh được thực trạng khám chữa bệnh sử dụng BHYT ở tuyến cơ sở của Việt Nam hiện nay. Theo đó, đơn vị cung cấp BHYT ràng buộc điều kiện khám chữa bệnh ban đầu ở cấp cơ sở trước khi chuyển tuyến. Kết quả này phần nào phản ánh vấn đề sàng lọc người dân tham gia BHYT trong giai đoạn trước khi giao dịch được thực hiện. Ràng buộc này có thể làm giảm lợi ích của người mua BHYT trong khám chữa bệnh đồng thời hạn chế được người dân dùng BHYT ở các tuyến trên và khám chữa bệnh vượt tuyến. Hệ số ước lượng của loại hình bảo hiểm có tương quan nghịch và có ý nghĩa trong mô hình. Lấy loại hình bảo hiểm cho người nghèo làm cơ sở so sánh, BHYT dành cho người nghèo bao gồm các loại bảo hiểm cho trẻ em và những người thuộc đối tượng nghèo, cận nghèo, diện chính sách có xác suất sử dụng BHYT nhiều hơn các đối tượng khác để nhằm giảm bớt gánh nặng trong chi phí khám chữa bệnh. Kết quả này tương đồng với các kết quả của Sepehri và cộng sự (2009) và Kirdruang 102 Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 (2011) và phù hợp với kỳ vọng của chính sách BHYT của Việt Nam. Sử dụng số lần khám bệnh để chỉ tình trạng bệnh của người dân có BHYT, kết quả cho thấy số lần khám tăng 1 đơn vị làm cho xác suất sử dụng thẻ BHYT tăng lên 2,12 điểm phần trăm. Kết quả này được cho là phù hợp với hành vi sử dụng BHYT tại Việt Nam và trên thế giới. Kirdruang (2011) chỉ ra rằng những người có bệnh nặng mãn tính ở các nước đang phát triển thường tận dụng tối đa BHYT để giảm bớt chi phí. 4. Kết luận và khuyến nghị Kết quả phân tích cho thấy tỉ lệ ¾ người dân ở Việt Nam hiện đang có BHYT. Tuy nhiên, chỉ khoảng 70% người dân có sử dụng BHYT trong khám chữa bệnh. Trong đó, người nghèo chủ yếu sử dụng BHYT ở các cơ sở khám chữa bệnh ở tuyến cơ sở (trung tâm y tế, bệnh viện huyện). Trong khi thu nhập của người dân tăng làm tăng khả năng chi tiêu cho y tế, làm giảm nhu cầu BHYT cho người nghèo trong khi nhu cầu BHYT tự nguyện và bắt buộc gia tăng. Theo thống kê, các cá nhân có xu hướng sử dụng BHYT tại các cơ sở y tế cấp thấp nhưng lại chi cho khám chữa bệnh nhiều hơn (gần 10 lần) tại bệnh viện cấp cao. Kết quả phân tích chỉ rằng quyết định sử dụng BHYT khám chữa bệnh của người dân phụ thuộc vào các yếu tố: thu nhập, sống ở thành thị, trình độ học vấn, tuổi, và số lần khám bệnh trong năm. Trong khi đó, dân tộc và giới tính không có ý nghĩa thống kê. Nói cách khác, không có sự khác biệt trong việc sử dụng BHYT giữa người Kinh và các dân tộc khác, giữa nam và nữ. Một số khuyến nghị nhằm hướng đến mục tiêu gia tăng tỉ lệ tham gia BHYT và sử dụng BHYT đúng theo hợp đồng bảo hiểm cho người dân bao gồm: (i) nâng cao vai trò của Chính Phủ và cơ quan quản lý nhà nước về phía cung BHYT trong lộ trình nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ y tế tại các cơ sở y tế cấp thấp; ban hành chính sách đãi ngộ cán bộ y tế khi công tác tại các địa phương vùng sâu vùng xa, tại các cơ sở y tế cấp huyện, xã và đẩy mạnh việc triển khai thi hành luật BHYT tại các địa phương; và (ii) Chính phủ nên ban hành cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đa dạng hóa sản phẩm BHYT nhằm đáp ứng nhu cầu bảo hiểm đa dạng của các tổ chức và cá nhân; tiến đến đa dạng hóa và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối BHYT, (iii) tỉ lệ tham gia và sử dụng BHYT phụ thuộc vào nguồn cung BHYT và thông tin trên thị trường, do vậy chúng ta cần xây dựng cầu nối hiệu quả giữa các đơn vị cung cấp BHYT và người dân thông qua cơ chế minh bạch và đơn giản hóa thông tin; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, giám sát và phát triển các sản phẩm BHYT; tiến đến cung cấp BHYT trực tuyến và đăng ký khám chữa bệnh sử dụng BHYT bằng hình thức trực tuyến Tài liệu tham khảo Ali, S. I. (2009). Measuring the impact of Voluntary Health Insurance on out of pocket costs and socioeconomic-related inequality: methodological challenges and potential solutions with an application to Vietnam (Doctoral dissertation, University of York). Abimbola, S., Ukwaja, K. N., Onyedum, C. C., Joel Negin, J., Jan, S., and Martiniuk, A. L.C., (2015). Transaction costs of access to health care: Implications of the care-seeking pathways of tuberculosis for health system governance in Nigeria. Global Puplic Health, 10(9), 1060-1077. Arrow, K. J. (1963). Uncertainty and the Welfare Economics of Medical Care. American Economic Review, 53(5), 941-973. Phan Đình Khôi và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 14(1), 92-103 103 Besley, T., Hall, J., & Preston, I. (1999). The demand for private health insurance: do waiting lists matter?. Journal of public economics, 72(2), 155-181. Chaudhuri, A., & Roy, K. (2008). Changes in out-of-pocket payments for healthcare in Vietnam and its impact on equity in payments, 1992–2002. Health Policy, 88(1), 38-48. Cong, N. T., & Mai, N. T. T. (2014). Service Quality and its Impact on Patient Satisfaction: An Investigation in Vietnamese Public Hospitals. Journal of Emerging Economies and Islamic Research (JEEIR), 2(1). Ensor, T. (1995). Introducing health insurance in Vietnam. Health Policy and Planning, 10(2), 154-163. Huynh, T., & Pretorius, R. (2009). Vietnamese medical education and development of family medicine in Vietnam (No 052009). VMGUS Publication. Kirdruang, P. (2011). Essays in Economics of Public Health Insurance in Developing Countries: Evidence from Thailand and Vietnam (Doctoral dissertation, University of Minnesota). Lê Quang Cường (2008). Chăm sóc sức khỏe và thị trường y tế. Viện chiến lược và chính sách kinh tế. [online] Available at: < THi-TRuoNG-y-Te-t67-1070.html>.[Ngày truy cập: 28 tháng 12 năm 2015] Nguyen, H. (2011). The principal-agent problems in health care: evidence from prescribing patterns of private providers in Vietnam. Health policy and planning, 26 (suppl 1), i53-i62. Nguyễn Thị Minh và Hoàng Bích Phương (2012). Rủi ro đạo đức trong BHYT tự nguyện và nhân khẩu học tại Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 179, 58-63. Nguyễn Văn Phúc và Cao Việt Cường (2014). Thông tin bất cân xứng, lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức: Nghiên cứu trường hợp mua và sử dụng thẻ BHYT tự nguyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Kinh tế và Phát triển. Số 208, tháng 10/2014, trang 9-16. Papke, L. E., & Wooldridge, J. (1993). Econometric methods for fractional response variables with an application to 401 (k) plan participation rates. Journal of Applied Econometrics, 11, 619-632. Propper, C., Rees, H., & Green, K. (2001). The demand for private medical insurance in the UK: a cohort analysis. The Economic Journal, 111(471), 180-200. Sepehri, A., Sarma, S., & Serieux, J. (2009). Who is giving up the free lunch? The insured patients’ decision to access health insurance benefits and its determinants: Evidence from a low-income country. Health Policy, 92(2), 250-258. Sepehri, A. (2013). How much do I save if I use my health insurance card when seeking outpatient care? Evidence from a low-income country. Health policy and planning, 29(2), 246-256. Wagstaff, A., & Lindelow, M. (2008). Can insurance increase financial risk?: The curious case of health insurance in China. Journal of health economics, 27(4), 990-1005.
File đính kèm:
- quyet_dinh_su_dung_bao_hiem_y_te_cua_nguoi_dan_o_viet_nam.pdf