Sổ tay dưỡng sinh Ohsawa
TỶ LỆ QUÂN BÌNH TRONG MỘT NGÀY:
Khoảng từ 70- 90% đồ ngũ cốc nguyên
cám, từ 30-10% rau củ xào, kho và hấp
- Ngũ cốc gồm : Lúa mì, gạo lứt, kê, bắp,
bo bo, lúa mạch, đại mạch, hắc mạch, kiều
mạch, v.v
- Các loại rau quả và gia vị nên dùng:
+ Cà rốt, củ cải, bí ngô, hành tỏi, kiệu
tây, bắp su trắng, rau dền, rau xà-lách-son,
rau má, rau bồ ngót, cải bẹ xanh v.v (rau
củ mọc thiên nhiên và rau củ sạch không sử
dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu).2
+ Nước uống: Nước thiên nhiên, trà
Bancha, trà gạo lứt, trà củ sen, trà bồ công
anh, đậu đỏ rang + gạo lứt rang.
+ Chất béo: Dầu mè, dầu phộng (mức
tối đa là một muỗng canh dầu một người
một ngày).
+ Trái cây: Trái gấc, dâu tây, hạt dẻ,
trái cây thiên nhiên và đúng mùa, trái táo.
+ Đường: Nếu sức khỏe ổn định thì có
thể sử dụng đôi chút đường đen, đường thốt
nốt, đường phèn, mạch nha
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sổ tay dưỡng sinh Ohsawa
1SỔ TAY DƯỠNG SINH OHSAWA TỶ LỆ QUÂN BÌNH TRONG MỘT NGÀY: Khoảng từ 70- 90% đồ ngũ cốc nguyên cám, từ 30-10% rau củ xào, kho và hấp - Ngũ cốc gồm : Lúa mì, gạo lứt, kê, bắp, bo bo, lúa mạch, đại mạch, hắc mạch, kiều mạch, v.v - Các loại rau quả và gia vị nên dùng: + Cà rốt, củ cải, bí ngô, hành tỏi, kiệu tây, bắp su trắng, rau dền, rau xà-lách-son, rau má, rau bồ ngót, cải bẹ xanh v.v (rau củ mọc thiên nhiên và rau củ sạch không sử dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu). 2+ Nước uống: Nước thiên nhiên, trà Bancha, trà gạo lứt, trà củ sen, trà bồ công anh, đậu đỏ rang + gạo lứt rang. + Chất béo: Dầu mè, dầu phộng (mức tối đa là một muỗng canh dầu một người một ngày). + Trái cây: Trái gấc, dâu tây, hạt dẻ, trái cây thiên nhiên và đúng mùa, trái táo. + Đường: Nếu sức khỏe ổn định thì có thể sử dụng đôi chút đường đen, đường thốt nốt, đường phèn, mạch nha. 3NHỮNG THỨC UỐNG, MÓN ĂN NÊN TRÁNH DÙNG ĐẾN LÀ: + Tất cả các loại cà, măng, giá, nấm, khoai tây, đậu leo, rau bá hợp, dưa gang, bắp su đỏ, củ cải đường. + Bơ, sữa, đồ ăn chế bằng phó-mát. + Trái cây: Các đồ ăn tươi sống và đường (trong lúc đang trị bệnh). + Gia vị: Tiêu, ớt, cà-ri. + Nước uống: Luôn luôn uống nước ấm (khoảng 370C) và khoảng 3 xị (0,75 lít) trở lại mỗi ngày. SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ ĐIỀU CẦN LƯU Ý: - Về tâm trạng: Không vui, không khỏe thì không nên ăn và cũng không được nấu ăn. 4- Về đại tiện: phân luôn màu vàng, chặt, không rã nát và đúng giờ vào buổi sáng. Nếu là phân khác thì âm hơn, hoặc dương hơn thì cần phải điều chỉnh lại. - Về tiểu tiện: Phụ nữ không đi tiểu quá 3 lần trong ngày. Nam không đi quá 4 lần trong ngày. Lưu ý: Đường ruột đang tốt là một ngày chỉ đi đại tiện một lần vào buổi sáng và chỉ nên súc miệng một lần vào buổi tối (bột chà răng Dentie). - NƯỚC UỐNG: Một người quá âm, hay bệnh về gan thì nên sử dụng trà gạo lức rang và trà bồ công anh. 5- Trà củ sen tốt cho người bệnh phổi. Trà Bancha tốt cho bệnh tim mạch, đường ruột, bao tử (tốt nhất là được sự hướng dẫn của người có kinh nghiệm đã sử dụng từ trước hoặc Thầy). - DẦU MÈ GỪNG: Giã nát, hoặc mài gừng tươi, vắt lấy nước cốt trộn đều với một lượng dầu mè tương đương. Dùng xoa hay đánh gió khi cảm sốt, xoa bóp khi nhức mỏi, tức, trặc, đau bụng, sưng u, bôi lên vết lở ở tai, mũi, ghẻ lác, xức dầu trị gầu và rụng tóc, chỉ nên làm vừa dùng trong 2-3 ngày, vì để lâu gừng thối, có mùi khó chiụ, có thể dùng xen kẽ với áp nước gừng. - CAO HẠ NHIỆT: Ngâm đậu nành với 6nước cho mềm, giã nát và trộn thêm ít bột cho khỏi nhão rồi đem đắp lên trán để hạ sốt, (xem chừng thân nhiệt hạ còn 38,50C thì lấy ra ngay) hoặc đắp những chỗ viêm nhức (không dùng trong trường hợp ban, sởi, tót, rạ, đậu mùa). - BỘT GẠO LỨT SỐNG: Nhai nhỏ gạo lứt sống và hạt muối sống, hoặc giã thành bột mịn trộn nước và tí muối cho dẻo, đem đắp vào vết thương, vết lở loét, ghẻ chốc. NHỮNG TRỞ NGẠI TRONG DƯỠNG SINH Trị liệu theo phương pháp Thực Dưỡng 7thiên về giáo dục, chữa con người hơn là chữa bệnh. Nghĩa là giúp bệnh nhân tự suy xét lại bản thân mình về mọi mặt từ thể chất đến tinh thần, hầu tránh đi những việc làm có hại cho mình và cho người khác, đồng thời tổ chức được một nếp sống lành mạnh, vui tươi và hữu ích hơn. Bởi vậy, nếu sử dụng phương pháp Thực Dưỡng thuần túy để chữa bệnh có tính cách tạm thời, thường sẽ không thành công theo ý muốn, sau đây là một số trở ngại cho việc áp dụng phương pháp này trong trị liệu: 1.QUÁ MUỘN: Đối với những trường hợp quá muộn, nghĩa là cơ thể đã suy thoái trầm trọng, ví dụ như đến mức cùng thì 8phương pháp Thực Dưỡng, một đường lối trị bệnh dựa vào cơ thể miễn nhiễm tự nhiên, có thể không đủ thời gian cứu con bệnh. Tuy nhiên, nếu áp dụng phương pháp này, những bệnh nhân quá muộn vẫn hưởng được nhiều lợi ích như không bị đau đớn hành hạ và ra đi êm thắm. 2. THIẾU NIỀM TIN VÀ Ý CHÍ: Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào những hướng dẫn của phương pháp này, bệnh nhân rất dễ sai phạm hoặc bỏ dỡ nửa chừng do ý kiến của những người không am hiểu vấn đề, hoặc dễ bị lôi cuốn bởi những món ăn thức uống. 93. THIẾU NGHIÊN CỨU: Niềm tin và ý chí được củng cố qua sự nghiên cứu lý thuyết sách báo Thực Dưỡng và học hỏi những người có kinh nghiệm, nhất là những người đồng bệnh đã và đang theo phương pháp này. Đồng thời phải lưu tâm theo dõi những chuyển biến của cơ thể và vận dụng những điều đã nghiên cứu, học hỏi để lấy kinh nghiệm cho bản thân. 4. KHÔNG ĐƯỢC GIA ĐÌNH, THÂN NHÂN HỖ TRỢ: Nếu những người trong gia đình bệnh nhân, nhất là những người có phận sự chăm sóc trực tiếp không hiểu biết, hoặc không đồng tình ủng hộ, thì có thể vì lòng “thương” sẽ làm “hại” 10 diễn tiến cải thiện sức khỏe theo Phương pháp Thực Dưỡng. 5. NHỮNG SAI LẦM KHÁC: Ngoài những sai lầm đã nói như: nhai không kỹ, ăn nhiều, uống nước nhiều, nhịn ăn không cẩn thận, v.v Người mới thực hành thường mắc một số sai lầm khác như: - Dương quá độ: Nhiều người lầm tưởng yêu cầu của Thực Dưỡng là “càng dương càng tốt”, nên ra sức ăn thật mặn, cố nhịn nước dù khát, vận động thể lực tối đa, hoặc ăn toàn các món nướng, rang, chiên dù đang trong mùa hè v.v Sự việc này có thể vượt mức chịu đựng của cơ thể, gây ra tình trạng kiệt sức, hoặc những phản ứng mãnh liệt 11 dẫn đến sự “phá giới” vô cùng nguy hiểm. Các bạn nhớ cho chủ trương của phương pháp Thực Dưỡng là quân bình và điều độ. - Không biết linh động: Thường đây là những người không chịu đọc sách báo Thực Dưỡng và thiếu tìm hiểu thực tế. Ví dụ trẻ con và người già răng yếu không biết nấu nhừ, hoặc xay, giã nhỏ vật thực trước khi ăn, hoặc không biết chế biến thực phẩm cho dễ ăn, hoặc có người cứ ăn mãi gạo lứt muối mè lâu ngày sinh chán, v.v. 12 Trong vũ trụ này, mọi sự vật đều vận động và biến hóa không ngừng, nào ngày đêm đắp đổi, nào bốn mùa luân chuyển, khi nắng khi mưa và cuộc sống con người cũng đa dạng. Vì vậy để có thể tồn tại, sống vui qua năm tháng của đời người, chúng ta không nên đóng khung vào một khuôn mẫu hoặc một công thức cố định, mà phải biết thích ứng với mọi đổi thay, khác biệt của từng cá nhân theo thời gian và không gian. Đồng thời cũng nên biết không có hiện tượng nào thuần Âm hoặc thuần Dương, mà bao gồm cả Âm lẫn Dương. Trong sinh hoạt hàng ngày cũng như trong chữa trị bệnh, chúng ta tuân theo nguyên lý này; lẽ dĩ nhiên có lúc Dương hơn và có lúc cần Âm hơn. 13 Phép Dinh Dưỡng Cần Được Tuân Thủ Triệt Để Từ Ba Tuần Đến Một Tháng Vài phản ứng có thể xảy ra cần được biết đến vào thời kỳ đầu sau khi áp dụng phương pháp dinh dưỡng này: - Cảm giác suy nhược, cảm thấy chân bị bại liệt từng phần, do nơi nguồn gốc tâm linh và cũng do nơi giảm thiểu số lượng huyết dịch lưu thông trong cơ thể, sau khoảng 15 ngày đến 1 tháng, trạng chứng này sẽ mất đi. - Thường tim đập chậm lại, nhất là khi ta dùng một số lượng muối khá nhiều, vô hại. - Đau đầu thường xảy ra vào những ngày đầu trong thời gian ăn số 7. 14 - Trạng thái buồn nôn, cũng thường hay mửa cả đồ ăn và mật (đảm trấp), ớn cơm (nói chung các đồ ăn ngũ cốc). Đừng ngại. cứ ăn ít lại, vài ngày sau sẽ ăn ngon trở lại, vẫn cứ làm việc như bình thường. - Chảy máu cam, máu mũi, đôi khi thổ huyết, hoặc tiện huyết (phân có vấy máu). Cũng gặp trường hợp chảy máu tai; hầu hết các trạng thái khủng hoảng này đều được cải thiện sau đó. - Nhất là ở thiếu nữ thường có sự ngưng chỉ kinh nguyệt, thay đổi từ 1 đến 6 tháng, sau đó kinh nguyệt sẽ trở lại. - Về phía nam giới, đôi khi có trạng chứng bất lực trong một thời gian ngắn, có thể cũng cùng một trạng chứng như trên. 15 - Rất thường xảy ra trường hợp táo bón vào lúc đầu do nơi sự thiếu nước và do sự giảm thiểu số lượng thực phẩm, nhưng không có gì đáng quan tâm, chớ dùng thuốc nhuận trường, không có nguy hại vì không có chất đạm động vật. Chịu khó chờ đợi, sự đi tiêu sẽ được điều hòa trở lại. Trong một thời kỳ nào đó, phân không có mùi hôi thối gì cả. - Trong tháng đầu, hầu hết đều gầy hẳn xuống. - Ở những người mắc bệnh phong thấp thường có sự gia tăng đau nhức và sưng khớp xương tạm thời. 16 - Về phương diện tinh thần, hình như luôn có một thời kỳ hay nổi xung (dễ phát cáu), chán đời do một số nơi cảm giác khát nước đến bắt khó chịu. Người ta thường hay bỏ cuộc vào thời kỳ này, việc rất thường thấy; cần phải tiên liệu trước để chịu đựng. - Giấc ngủ bị rút ngắn lại, thường có mộng mị liên miên vào lúc đầu, đôi khi rất nhanh; nhưng trái lại, không hề có sự mất ngủ. - Thường thường nước tiểu có màu rất đậm và chứa nhiều chất lạ. Cả đến khi khối lượng nước tiểu trong trở lại, nhưng vẫn phải giữ cho được màu vàng sẫm. Đôi khi có trường hợp sưng bọng đái nhẹ. 17 - Đôi khi có phản ứng cảm sốt bất thình lình trong vòng 24 - 48 giờ, rồi dứt đi cũng thình lình như thế mà không thấy có dấu hiệu chi hết. - Mặc dù có cảm giác mệt mỏi lúc đầu, cũng cần phải tiếp tục công việc và cố gắng tập một vài cử động thể dục hàng ngày. - Sự tiếp tục dùng thức ăn thuộc động vật trong khi giảm uống và ăn nhiều muối thêm sẽ rất có hại. GIẢI ĐÁP MỘT SỐ THẮC MẮC THÔNG THƯỜNG LIÊN QUAN ĐẾN TÂM TRẠNG - Ngại thiếu chất đạm thuộc động vật ? 18 Các chất đạm thực vật đã có đủ, các amino acid trong loại ngũ cốc và rau quả như: biển đậu, đậu xanh chẳng hạn đủ bổ túc cho sự thiếu thốn ấy. Một vài loại thảo mộc có giá trị bổ túc cho đồ ăn ngũ cốc hơn hẳn các món ăn thịt cá, hoặc sữa như bánh dầu mè (xác mè sau khi ép lấy dầu rồi), hay xác dầu hướng dương (14) (công cuộc khảo cứu của bà Randouin). Nó chỉ thua có mỗi một thứ chất đạm ở trứng mà thôi. Các đồ ăn bổ túc cho loại ngũ cốc là những đồ ăn mang tới cho cơ thể những chất không có trong ngũ cốc. - Sợ thiếu sinh tố C chăng ? Các cuộc khảo cứu thảo mộc mới đây ở 19 Nhật và ở Anh đã chứng tỏ rằng trong các loại ngũ cốc (provitamin C) sự chịu nóng tới ngoài 150oC và cơ thể người ta có thể tổng hợp và huyển hóa nó thành sinh tố C. Ngoài ra trong các thức ăn, thực dụng như ngò tây và bồ công anh chẳng hạn, người ta cũng nhận thấy có nhiều sinh tố C trong cám hay cà chua và được kèm với một hàm lượng phong phú tương đương sinh tố A. Các sinh tố khác thì đều có đầy đủ cả. Đại loại như sinh tố B và PP có nhiều trong các loại ngũ cốc và sinh tố E trong mầm ngũ cốc. Về sinh tố D thì trong mầm các loại ngũ cốc còn nguyên cám và trong bột kiều mạch. 20 Còn lại các sinh tố thuộc nhóm F do nơi các acid béo không bão hòa trong các loại dầu thảo mộc sinh ra. Các acid béo giúp đắc lực cho sự biến hóa chất Cholesterol ở cơ thề người. Các thức loại nên dùng: dầu mè (vừng), dầu hướng dương (18) và cả dầu ôliu nữa. Trong các chất béo có nguồn gốc động vật (mỡ heo, bò,) và chất magarine đều có tác dụng độc hại. (Công cuộc khảo cứu của bà Randouin đăng tải trong Kỷ Yếu của Viện Vệ Sinh Thực Phẩm năm 1957). - Nghi ngại sự hạn chế uống nước sẽ làm cho thận mệt chăng? Trái hẳn lại, chúng ta hãy nhớ lại những 21 kết quả tuyệt hảo trong thực chế khô của Volhard trong việc chữa trị chứng sưng thận cấp tính khuyếch tán. (Người Đức đã dùng từ 7 đến 10 ngày để áp dụng thực chế khô này). Ngoài ra, thận tạng có khả năng bài tiết chất muối (NaCl) trội hơn khả năng người thường tưởng tới. Thận tạng của người có thể thải ra cứ mỗi lít nước tiểu là 30gram muối (NaCl) và còn hơn thế nữa. Cho dù ăn 4,5 muỗng canh muối mè mỗi ngày cũng không dung chứa tới trên 10 gram muối (NaCl) mỗi ngày, đó là điều rất bình thường. KẾT LUẬN: Cơ bản của thực chế này là đúng theo cơ 22 bản các phép dinh dưỡng cổ truyền của phần đông dân chúng nông thôn vạm vỡ ở Châu Âu, ở các xứ Đông phương, nhất là ở miền cực Đông. Sự quân bình dinh dưỡng ấy đã bị đảo lộn ở Tây phương. Ở đây chỉ có thể sửa đổi gia giảm một cách rất khôn ngoan. Các yếu tố có thể điều chỉnh được trong phép ăn này tùy theo tạng thể hoặc căn bệnh, là số lượng nước và muối, rồi đến tỉ độ tương quan về số lượng đồ ăn ngũ cốc và rau quả là sự chọn lựa một số ngũ cốc hoặc rau quả và dĩ nhiên thời kỳ cần phải thay đổi các tỉ lượng giữa những yếu tố này cho thích hợp với người bệnh và cơ địa của mỗi người. 23 PHÂN ĐỊNH ÂM DƯƠNG MÓN ĂN VÀ THỨC UỐNG Chú ý : Âm có ký hiệu () Âm hơn hết Âm nhiều Âm Dương có ký hiệu ( ) Dương hơn hết Dương nhiều Dương 24 Ký hiệu Âm Các loại cà, khoai tây, măng, giá, nấm. Dưa leo, bắp chuối, khoai mì, môn tím. Mồng tơi, su xanh, khoai mỡ tím, khoai lang, mứt biển. Bầu, đậu ve, đậu đũa, rau dền, khoai mỡ trắng. Gừng, ớt, tiêu, chanh, nước me, cà-ri, chao, giấm gạo. Mẻ (cơm chua), tương cải, va-ni, rau răm. Bơ mè, tỏi, rau cần, rau húng quế. Kem lạnh, nước đá, thức uống có đường, rượu, cà phê. Nước trái cây, bia. Trà đọt, nước khoáng, nước lã. Đường cát Đường thốt nốt, đường thô (vàng, đen, nâu), đường trái cây. 25 Ký hiệu Dương Gạo lức, gạo tẻ. Kê, gạo mì đen, nếp, các loại gạo mạch, bo bo (ý dĩ), bắp (ngô). Đậu ván Đậu đỏ lớn hạt, xích tiểu đậu Củ sắn dây, khoai mài. Diếp quắn đắng, lá bồ công anh, rau đắng, xà lách son, rau má, củ sam, cà rốt, bí rợ. Bắp cải, bông cải, củ cải trắng, cải cay (cải bẹ xanh), cải ngọt, cải tần ô, rau câu chỉ, phổ tai, khổ qua, su hào Muối tự nhiên. Quế, hồi, hoắc hương, rau mùi, hành, kiệu, poa rô, rau dấp cá, ngò, nghệ, tương đậu nành. Trà rễ đinh lăng, nhân sâm. Cà phê thực dưỡng, trà củ sen, trà sắn dây. Trà ba năm, sữa thảo mộc. Mạch nha, chất ngọt hạt ngũ cốc. 26 CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨT VÀ RANG MÈ * Ghi chú: Tất cả gạo trước khi nấu cơm đều phải ngâm trong nước ấm 400C đúng 22 tiếng và dùng nước đó để nấu thì cơm sẽ mềm, ngon và bổ hơn là không ngâm gạo. PHÂN LƯỢNG GẠO LỨT, NƯỚC, VÀ MUỐI: Một lon gạo (lon sữa bò tương đương 250gr gạo) + 1,5 lon nước + một phần tư muỗng cà phê muối hầm (Chú ý: 1 muỗng cà phê muối hầm cho 1 kg gạo, cho muối vào trước khi nấu cơm. Không được dùng muối i-ốt và muối bọt, muối đã chế biến). Nếu khô thì thêm nước. Lượng nước có thể thêm bớt tùy loại gạo. CÁCH NẤU GẠO LỨT BẰNG NỒI THƯỜNG: Không được nấu bằng nồi cơm điện: 27 Nấu nước sôi, đổ nước, gạo đã ngâm và muối vào nồi với tỷ lệ như trên, khuấy đều, đậy nắp, nấu cho sôi bùng lên rồi tắt lửa, Nhắc nồi xuống vẫn đậy nắp để 15 phút. Sau đó, nhắc nồi lên bếp, nấu tiếp 20 phút nữa lửa nhỏ cho đến khi chín. CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨT BẰNG NỒI ÁP SUẤT: Một gạo + một rưỡi nước (đong bằng lon sữa bò) + một phần tư muỗng cà phê muối hầm. Cho gạo, nước đã ngâm và muối vô nồi một lượt. Nấu sôi xì hơi, tắt lửa. Để yên 15 phút. Sau đó, nấu tiếp khoảng 15 phút lửa nhỏ cho đến khi chín. 28 CÁCH NẤU CƠM GẠO LỨT TỐT NHẤT: * CHƯNG CÁCH THỦY BẰNG NỒI ÁP SUẤT: Một chén gạo lứt ngâm với hơn một chén nước. Nếu cơm khô, thêm nước; nếu cơm nhão, bớt nước (1kg gạo lứt + 1 muỗng cà phê muối hầm). Gạo lứt (đã ngâm) + nước đã ngâm (không thay nước mới) + muối để vô tô và đặt tô này vào nồi áp suất có nước, Nước trong nồi áp suất cho vừa đủ để khi nấu sôi lên không bị tràn nước vào tô gạo. Bật lửa, chưng cách thủy tô gạo lứt đã có nước, đến khi nghe sôi kêu nồi đợt đầu 10 phút, tắt lửa, để yên đó. Sau 20 phút, bật lửa lên nấu tiếp, nghe sôi kêu nồi đợt hai 10 phút thì ... tương pha đều với nước trà có vị ngọt là đúng. Nếu còn nghe mặn thì thêm nước, còn lạt là do đổ nhiều nước. 20. VIÊM XOANG MŨI: 1 nắm lá Trầu lươn nấu với một lít nước. Khi nước sôi, đổ vào 1 chung rượu đế trắng. Trùm khăn xông mũi. Cỏ lông heo hay Cỏ hôi, lá có 3 màu: xanh, trắng, vàng, bông màu vàng. Lấy bông của cỏ giã chung với một chút muối, chế thêm một ít nước. Nhỏ 2 giọt nước này vào 1 bên mũi, thở cho thông xong, nhỏ tiếp 2 giọt vào lỗ mũi kia. Đừng nhỏ một lúc hai lỗ mũi sẽ bị nghẹt thở. 53 Nếu không muốn chữa theo cách xông như trên thì ăn cơm lứt với muối mè theo số 7 và đắp nước gừng ở phần mũi đến trán cũng hết bệnh. (xem cách đắp nước gừng tại phương thức số 2) và nhỏ dầu mè lâu năm vào mũi ngày 3 lần mỗi lần 2 giọt. 21. ĐAU NHỨC VÌ SANH ĐẺ ĐI NHIỀU: Ăn Gạo lứt rang để hút ẩm và xông theo cách chỉ ở bài số 1 trang 39 và ngâm mông theo bài số 4 trang 42 từ 10 ngày đến 2 tuần. 54 22. NHỨC ĐẦU KHI ĐANG ĂN SỐ 7: Ăn Bột sắn theo cách chỉ ở bài số 5 trang 43. Nhức đầu nhiều, áp nước gừng theo bài số 2 trang 39. 23. BỆNH ÓI VÌ SAY XE: Dán một Trái mơ muối lên rốn. Ngậm một trái mơ muối trước khi lên xe (mơ đã muối 3 năm). 24. NƯỚC UỐNG TĂNG CƯỜNG SINH LỰC: 2 củ nhỏ Lão sơn sâm + 10 lá Trà ba năm + 10gram Câu kỉ + nửa xị nước (=1/8 của 1 lít). Tất cả chưng sôi trong 30 phút, rồi chắt nước này ra chén. Sau đó, cho nửa xị nước vào hỗn hợp này để chưng tiếp lần hai,cũng sôi trong 30 phút là được và chắt nước 2 ra chén. Uống trong ngày lúc nào cũng được. 55 25. BỔ PHỔI – BỆNH LAO – HO RA MÁU VÀ BỒI BỔ SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KIỆT SỨC: 1 Củ sen (tương đương 200gr) + Cà rốt bằng với củ sen (200gr) + ¼ Củ cải trắng 20gr (nhiều củ cải trắng sẽ bị đau thận) + 1 lóng Ngưu báng độ 5 phân 20gr + vài lát gừng. Tất cả những thứ này xay hoặc ép được khoảng một chén nước. Một muỗng canh Bột sắn dây và một muỗng nước khuấy cho tan để bột khỏi bị ốc trâu. Sau đó trộn ly nước hỗn hợp đã xay với bột sắn dây đã hòa tan nước, trộn đều rồi đặt lên bếp khuấy cho chín bột, cho vào 1 muỗng cà phê nước tương Tamari khuấy tiếp cho đều. Ăn nóng rồi trùm mền liền cho ra mồ hôi. Dùng liên tục trong 10 ngày để bổ phổi. Nếu bị ho lao hoặc ho ra máu, dùng liên tục trong một tháng rưỡi sẽ bình phục (nếu uống lâu ngày da sẽ đẹp hơn). 56 26. SƯNG NƯỚU (LỢI) RĂNG (đang ăn dưỡng sinh): 1 muỗng canh bột sắn dây khuấy với nửa chén nước cho tan, nấu chín xong cho vào một muỗng cà phê nước tương Tamari khuấy tan. Ăn nóng, đồng thời thoa bột Denti lên nướu răng. 57 27. BỆNH VIÊM RUỘT ĐI CHẢY THƯỜNG XUYÊN: 1 nắm Trà dây (ở Cao Bằng) (tương đương một muỗng canh), đổ nước sôi vào trà, chắt bỏ nước đầu, sau đó đổ một phần tư xị (0,06 lít) nước sôi vào ngâm cho ra trà, uống hết một phần tư xị nước trà này lúc bụng đói buổi sáng. Sau đó, đổ nửa lít nước sôi vào xác trà này để vào bình thủy, uống nóng suốt ngày. Ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7, ngậm 1/8 trái Chanh muối lâu năm vào buổi sáng lúc bụng đói đồng thời bỏ 1/8 trái chanh muối vào Bột sắn dây khuấy đều và ăn vào buổi tối và phải nhai thêm Cốm lứt rang trong ngày tùy thích (bất cứ lúc nào, nhai nhiều thì mau cầm). 28. SA RUỘT – SA TỬ CUNG: Cuống bí rợ chẻ ra làm 4 phơi khô, sao vàng, khử thổ. Nấu 10 cuống bí khô với 2 lít nước, nấu còn 2 xị (0,5 lít) uống mỗi ngày. 58 29.TÁI TẠO MEN RUỘT – LAO RUỘT: Đau ruột do uống trụ sinh nhiều, khuấy Bột sắn dây để ăn trước khi ngủ theo cách chỉ ở phương thức số 5. Nếu ăn bột sắn dây theo cách như vậy, nhưng khuấy bột còn đục (chưa chín) thì chữa bệnh lao ruột. 30. BỆNH SỎI THẬN: Chọn Chuối hột già thật nhiều hột dày đặc và chuối có vị ngọt. * Cách làm: - Chuối hột: sắt mỏng, phơi khô, rang chín rồi xay thành bột. - Hạt đười ươi: rang chín rồi xay thành bột. Trộn 2 thứ bột với nhau theo tỉ lệ 4 chuối hột : 1 đười ươi. 59 * Cách uống: sáng uống 1 một muỗng canh, sau 9 giờ tối uống 2 muỗng canh. * Mỗi ngày ăn thêm 1 nắm rau muống luộc chấm Tamari tỏi. Nếu sạn nhỏ, ăn Gạo lức muối mè theo số 7, uống Trà đậu đỏ rang và Gạo lứt rang phân lượng bằng nhau nấu với nửa lít nước. Đậu đỏ luộc sơ bỏ nước đầu, rồi rang đậu cho vàng đậm để vô lọ đựng uống dần. Đắp nước gừng ban ngày, dán Cao khoai sọ ban đêm ở vùng thận (xem bài số 2 và số 3) 31. BỆNH TIỂU ĐƯỜNG: Ăn cơm gạo lứt mè theo số 7 và uống nước Trà đậu đỏ rang. Đậu đỏ nấu sôi rồi bỏ nước, lấy đậu rang cho vàng đậm để nguội đựng trong hủ. Cân lượng đậu đỏ và nước tùy theo Thầy định. 32. BỆNH TIM – TẮT NGHẼN ĐỘNG MẠCH- ĐAU THẦN KINH TỌA: Một ngày ăn cơm gạo lứt với muối mè, 60 cộng thêm hai muỗng cà phê nước Tương tỏi, ăn luôn cả tỏi, kèm với một món ăn tùy ý (trừ thịt) và chỉ ăn một món ăn trong bữa ăn thôi. Ăn lượng cơm tùy ý. Nước uống: Lá Trà ba năm cho bệnh thần kinh tọa. Gạo lứt rang, đậu đỏ rang cho bệnh tim mạch. 33. TRĨ: Rang Hạt gấc rồi xay nhuyễn pha vào Dấm tây cho sền sệt, dùng lông ngỗng chấm vào để xức. Ăn gạo lức mè theo số 7. Nếu bón, ăn thêm một trong ba cách sau đây: Cách 1: 1 lon Gạo lứt (250gram) + 1 nắm Đậu đỏ + 10gram Phổ tai, tất cả nấu chung thành cơm. (Đậu đỏ luộc sơ bỏ nước rồi mới nấu cơm). 61 Cách 2: Ăn thêm 200gram Bí đỏ Cách 3: Ăn Canh rong biển nấu với Rau xà lách son hoặc rau má, rau bồ ngót, v.v 34. LOÃNG XƯƠNG, PHONG THẤP, THẤP KHỚP, THẤP ĐA KHỚP, THOÁI HÓA CỘT SỐNG, v.v (BỆNH LIÊN QUAN ĐẾN XƯƠNG): Ăn gạo lức muối mè theo số 7 buổi sáng và trưa. Chiều ăn gạo lức rang với mè rang không muối thay cơm (số lượng tùy thích). Uống nước gạo lức rang. Xem cách rang gạo lứt dùng để ăn trang 33, và cách rang gạo lứt dùng để uống trang 35. 62 35. BỆNH LẠNH NHỨC XƯƠNG Ở NÚI: 1 lon nếp (250gram) nấu với 4 hạt Bạch quả (Bạch quả đập bỏ vỏ lấy hột), ăn xôi này sẽ thấy ấm hơn, không bị nhức xương . Ngoài ra, giã Tiêu sọ cho dập để ở lòng bàn chân rồi mang vớ vào cũng có tác dụng chống lạnh . 36. TEKKA – THỨC ĂN BỔ DƯỠNG: 2kg Ngưu báng + 2kg Củ sen + 3kg Cà rốt + 1kg Củ cải trắng + 1kg Tương Miso + ½ lít Dầu mè + 300gram Gừng. Cách thứ 1: Những củ trên để nguyên vỏ, rửa sạch, ngâm nước muối 10 phút. Vớt ra để cho ráo, cắt mỏng mỗi thứ riêng từng nhóm, xay sinh tố cho nhuyễn mỗi thứ, rồi vắt lấy nước cốt, xác để riêng, cốt để riêng, hoặc ép lấy nước cốt. Sau đó bắc nước cốt lên khuấy tiếp, đều tay trong 6-8 giờ, để cho nước sắc kẹo lại (lúc nước chưa sắc kẹo lại 63 thì nước bị đục đến lúc sắc kẹo lại thì thấy nước lợn cợn nửa trong nửa đục. Khi nước sắc kẹo lại thì rất ngọt. Phải chú ý công đoạn này vì nếu lửa lố thì sẽ bị đắng. Tương miso và dầu mè đổ chung nhau xào khoảng 10’ đến 15’ để cho Tương Miso thơm mới hòa vào nước nấu kẹo trước. Tiếp tục khuấy đều hỗn hợp này cho tới khi sệt kẹo lại. Lúc này dầu tươm ra phía ngoài là đúng, dầu còn lầy lộn lại phải xào tiếp. Đó là cách làm số 1 bỏ xác. Cách thứ 2: Lấy xác: vẫn thắng kẹo nước cốt và xào tương miso + dầu mè như trên. Sau đó lấy toàn bộ xác, hỗn hợp này xào riêng cho tới chín thơm và không được quá khét. Xong rồi trộn hỗn hợp này với tương Miso đã xào dầu mè vào nước cốt thắng kẹo trên cùng 1 chảo rồi tiếp tục xào trộn đều cho tới khi dầu tươm ra ngoài là đúng. Xong 62 bis 64 rồi đậy nắp để nguội, sau đó bỏ vào keo thủy tinh, ép xuống để dầu mè nổi trên mặt hoàn toàn là đúng. Nếu dầu mè ít, có thể bỏ thêm trên mặt vào khoảng 1 phân mới để dành ăn trong 3 tháng (không bỏ trong tủ lạnh). Đây là thức ăn thượng phẩm mà tiên sinh hay ca ngợi là thức ăn rất bổ dưỡng dùng để nêm nấu tất cả các loại thực phẩm dưỡng sinh hoặc trộn trực tiếp với cơm hoặc cháo để ăn. Giúp ích tăng cường sức khỏe cho những người yếu, giúp đủ sữa cho những bà mẹ cho con bú mỗi ngày chỉ dùng 2 muỗng canh và hỗ trợ tích cực cho bệnh lao phổi, ung thư, tiểu đường, tim mạch và các bệnh âm khác. 37. CHÁO BỔ DƯỠNG: Nửa lon Gạo lứt (125gram) + 1 nắm Đậu đỏ (đã nấu sôi sơ, bỏ nước) + 30 Hạt sen + 10gram Phổ tai + 100 gram Bí đỏ + 1 nắm Hạt kê + 20 Hạt 63 65 hạnh nhân + 1 Trái óc chó (6 miếng) + một muỗng canh yến mạch + một chút muối cho vừa ăn. Nếu đi phân nhão thì bớt một nửa bí đỏ. Tất cả nấu thành cháo dùng thay sữa cho trẻ em và người lớn tuổi. Ăn cháo này với Tekka. * Cách nấu: Buổi tối, ngâm đậu đỏ, hạnh nhân, hạt óc chó và hạt sen với nước sôi có bỏ chút muối mặn trong 5 phút. Vớt ra bỏ chung với gạo lứt và hạt kê vô nồi áp suất nấu sôi 45 phút. Tắt lửa để nguyên tới sáng mở nắp, vừa nấu vừa khuấy trong 15 phút là cháo nhừ. 38. CHỮA UNG THƯ: Uống nước lá Trinh nữ hoàng cung chưng cách thủy và lá Trà bồ công anh và ăn Gạo lứt muối mè theo số 7. 64 66 *Chưng cách thủy lá Trinh nữ hoàng cung: 1 lá tươi Trinh nữ hoàng cung không được cắt bằng dao hay kim loại, phải dùng tay xé lá bỏ vô chén sạch và không đổ nước vô chén. Đổ nước vào nồi có nắp đậy bằng thủy tinh, rồi để chén có lá Trinh nữ hoàng cung vào nồi nước này để chưng cách thủy. Cho lượng nước trong nồi vừa đủ để nước sôi không tràn vô chén. Chưng cách thủy sau khi nước sôi độ 5 phút là được. Sau đó tắt lửa, để yên 5 phút sau mới được mở nắp nồi. Chú ý: mở nắp thủy tinh cho khéo để đừng bị đổ mất nước mồ hôi trên nắp nồi và nghiêng nắp nồi cho nước mồ hôi đọng trên nắp chảy vào chén có lá Trinh nữ hoàng cung. Đậy nắp nồi lại và tiếp tục chưng cách 65 67 thủy chén lá này lần thứ 2, cũng chưng sau khi nước sôi 5 phút là được. Tắt lửa, để yên 5 phút sau mới được mở nắp nồi. Cũng như lần 1, mở nắp thủy tinh có đọng mồ hôi nước và nghiêng nắp cho nước mồ hôi chảy vào chén có lá trinh nữ hoàng cung. Tiếp tục bật lửa lên để chưng chén lá này lần thứ 3, cũng chưng như 2 lần trước. Cho lá Trinh nữ hoàng cung đã chưng cách thủy 3 lần vào 1 cái khăn nhỏ, rồi vắt lấy nước cốt lá này, được chừng 2 muỗng cà phê. Uống nước cốt lá này sau bữa ăn chừng 30 phút (bữa ăn nào cũng được) không được uống lúc bụng đói. Một ngày chỉ được uống 1 lá trinh nữ hoàng cung chưng cách thủy như trên, không được uống nhiều hơn 1 lá. 66 68 * Nấu trà bồ công anh: 5gram lá Bồ công anh nấu với 1 lít nước, sắc lại còn 3 xị (0,75 lít) uống trong ngày. 7 69 39. XỔ CHẤT ĐỘC: 1 Củ cải trắng (tươi) 100gram ép lấy nước cốt (không cho thêm nước). Uống nước cốt này vào buổi lk bbsáng sớm lúc chưa ăn gì. Cách xổ này dành cho người ăn mặn bắt đầu ăn theo phương pháp dưỡng sinh (Người ăn chay trường không cần xổ theo cách này). Uống nước cốt này trong vòng một tuần. Nếu người lớn tuổi chỉ uống 4 hay 5 ngày thôi. 40. TAN MÁU BẦM TRONG NÃO VÀ BỊ ĐỘNG KINH: Thuốc bắc: Hoàng Liên 2 chỉ, Hoàng Cầm 2 chỉ, Đại Hoàng 1 chỉ, nấu với 3 chén nước, sắc lại còn 8 phân, để nguội uống buổi sáng. Nấu nước nhì, 2 chén còn 6 phân, để nguội, uống buổi chiều. 68 70 41. LOÉT BAO TỬ: 1 muỗng canh Dầu mè + 1 phần tư muỗng cà phê bột Denti hòa chung uống một lần trong khoảng từ 7 đến 9 giờ sáng. 1 muỗng canh Trà dây đổ vô bình thủy có 3 xị nước sôi (= 0,75 lít) để cho ra trà uống suốt ngày. Buổi sáng , lấy ¼ muỗng café bột Denti (loại trị bệnh) + 1 muỗng canh Dầu mè, uống xong rồi mới ăn cháo gạo lứt với muối mè. Buổi trưa và chiều ăn cơm gạo lứt muối mè theo số 7. 42. CÁCH LỌC GAN: - Nếu bị bệnh gan siêu vi B, C, hay xơ gan: Lấy 10gram Phan tả Diệp. - Nếu bị khối u gan: Lấy 12gram Phan Tả Diệp. Nấu lá này với 3 chén nước, sắc còn 8 phân, uống trước 6 giờ sáng. 69 71 - Đối với bệnh gan siêu vi B, C, hay xơ gan: Uống liên tục lá thuốc này khoảng 20 ngày. Ngoài ra uống thêm bài thuốc gan bài 12 trang 48. - Đối với bệnh ung thư gan: phải uống lá thuốc này liên tục 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm một xị rưỡi ( = 0.375 lit) nước lá Trà ba năm. Khi uống lá thuốc này, sẽ đi xổ liên tục mỗi ngày từ phân đen sang phân xanh, đến khi đi phân vàng thì không uống lá thuốc này nữa vì gan đã được lọc sạch. Nếu thấy sức khỏe yếu thì ngưng không dùng lá thuốc này nữa. 0 72 Nếu thấy sức khỏe tốt thì uống tiếp để xổ cho đến khi đi phân vàng thì ngưng. Sau khi gan đã sạch, chưng cách thủy 2 củ nhỏ Lão sơn sâm đã giã nát + 10 lá Trà ba năm + 5 gram hạt Câu kỉ + nửa xị nước, chưng trong 30 phút. Sau đó chắt nước này ra chén. Rồi chế thêm nửa xị nước vào hỗn hợp này cũng chưng trong 30 phút là được. Uống nước này ban ngày để tăng cường sức khỏe trong 10 ngày. Ngoài ra, uống thêm 2 xị nước (= nửa lít nước) lá Trà ba năm trong ngày. Sau khi xổ xong và trước khi ăn lại theo phương pháp dưỡng sinh số 7. 1 73 Cần uống nước bột sắn dây với nước tương Tamari để cải thiện đường ruột do quá trình đi tiêu chảy khi lọc gan (bài số 5 trang 43). Nếu muốn kiểm tra xem gan đã tốt chưa, sau 3 tuần kể từ ngày đi phân vàng có thể đi xét nghiệm gan. . 2 74 43. BƯỚU CỔ: 1 nắm lá Bùm sụm giã nát vắt lấy nửa chén nước cốt, uống nước cốt này vào buổi sáng sau khi ăn sáng. Còn xác lá xào với 1 muỗng canh dấm, xào cho nóng, rồi bó xác lá này vô cổ, bó hai tiếng. Một ngày bó 1 lần. Bó trong 10 ngày. Ngoài ra lấy trái Đu đủ non bằng cườm chân đâm thủng tới ruột rồi bỏ vô 30 Hạt tiêu khô, hơ trên lửa rồi lăn lên cổ, khi trái đu đũ hết nóng thì hơ trái nóng lại và lăn tiếp lên cổ. Lăn như vậy từ 7 tới 9 lần trong một đợt. Một ngày lăn 3 đợt. Lăn như vậy trong 4 tuần. Ăn gạo lứt muối mè theo số 7. Lấy 15 lá trà để vào bình thủy 3 xị nước sôi cho ra trà uống cả ngày. 73 75 44. MẮT MỜ - MẮT CẬN THỊ - MẮT VIỄN THỊ - MẮT LOẠN THỊ - CÁC BỆNH VỀ MẮT: Phục linh 3 chỉ, Bạch truật 3 chỉ, Quế 2 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, tất cả nấu với 3 chén nước sắc còn 8 phân. Nước thứ nhì nấu với 2 chén nước sắc thành 6 phân. Uống liên tục 10 ngày, 10 thang thuốc này rồi ngưng. Nếu chưa hết bệnh thì nghỉ 10 ngày rồi uống lại 10 ngày như vậy. Nấu cơm Gạo lứt với 5 Hạt gấc và ăn cơm gấc này với muối mè theo số 7. 4 76 45. DÙNG NƯỚC MƠ MUỐI LÂU NĂM ĐỂ NẤU CANH CHUA RẤT TỐT: Không nên nêm canh với muối nữa vì mơ đã mặn, không nên dùng me. 46. KHÔNG NGHIỀN MÈ HOẶC CHẾ BIẾN THỨC ĂN GẦN NGƯỜI BỆNH: Vì sẽ bị hút âm vào thức ăn, làm giảm tác dụng tốt của thức ăn. 5 77 47. KHI ĐI DU LỊCH: (Đang ăn dưỡng sinh): Nên đem theo gạo rang để chế nước sôi vào cho thành cơm hoặc cháo để ăn với mè nguyên hột, không trộn muối. Ăn gạo rang hay cháo gạo rang phải kèm với mè để không bị bón. Nếu không có gạo rang có thể ăn cơm trắng với rau chấm muối (nếu không có nước tương Tamari). 48. BÀI SỮA ÔNG THẦY 30 Hạt sen ngâm nước muối nóng 20 Hạt hạnh nhân 5 phút trước khi xay 6 Hạt óc chó 2 Muỗng canh mè rang 1 muỗng canh yến mạch (kiều mạch, lúa mạch) 76 78 Cách thực hiện: Tất cả đem xay nhuyễn thành bơ. Xong rồi, cho thêm vào ½ chén nước sôi để nguội, tiếp tục xay nhuyễn 3 phút. Lấy 3 muỗng cà-phê bột sắn dây khuấy chín cho sôi. Xong rồi lấy các hạt và nước đã xay ở trên đổ vào nồi bột sắn dây đang sôi, khuấy đều tay cho đến khi sôi bùng lên là thành sữa. Đổ vào bình thủy uống trong ngày. Nêm chút muối cho vừa uống. (Muốn sữa đặc thì bớt nước, muốn lỏng thì thêm nước.) 77 79 SỔ TAY DƯỠNG SINH OHSAWA Biên soạn: ĐĐ. Thích Tuệ Hải Chùa Long Hương Xã Long Tân, Huyện Nhơn Trạch Tỉnh Đồng Nai Email: tykheo.thichtuehai@yahoo.com Website: www.chualonghuong.org www.quynguyen.org www.quy-nguyen.org Tel: 09 4488 5959 – 061 352 1404 08 3720 3532 – 08 3896 6692 8
File đính kèm:
- so_tay_duong_sinh_ohsawa.pdf