Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Tóm tắt. Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ

thông tin (ICT) đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới,

đặc biệt là thay đổi vai trò của người giáo viên. Theo đó, để trở thành một người giáo

viên trong thời đại 4.0, bên cạnh phẩm chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công

dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy phản biện, hợp tác, học tập suốt đời,

giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT có vai trò quan trọng, giúp giáo

viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều này

đặt ra vấn đề với các trường sư phạm làm sao để đào tạo được năng lực ICT cho sinh

viên khi ra trường họ có thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên trong

thời đại 4.0. Bài báo sẽ bàn luận về nội dung này với ba trọng tâm chính đó là: tìm hiểu về

năng lực ICT; phân tích kinh nghiệm điển hình của các nước trong khu vực châu Á và Thái

Bình Dương về xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT cho sinh

viên sư phạm và đối chiếu kinh nghiệm của các nước trong khu vực để xem hiện nay các

trường ĐHSP ở Việt Nam đã chuẩn bị đến đâu trong việc phát triển năng lực ICT cho sinh

viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.

pdf 13 trang yennguyen 4200
Bạn đang xem tài liệu "Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin và truyền thông cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
50 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0023 
Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 2A, pp. 50-62 
This paper is available online at  
SỰ CHUẨN BỊ CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRONG VIỆC 
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG 
 CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
Nguyễn Thu Hà 
Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt. Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về công nghệ 
thông tin (ICT) đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới, 
đặc biệt là thay đổi vai trò của người giáo viên. Theo đó, để trở thành một người giáo 
viên trong thời đại 4.0, bên cạnh phẩm chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công 
dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy phản biện, hợp tác, học tập suốt đời, 
giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT có vai trò quan trọng, giúp giáo 
viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều này 
đặt ra vấn đề với các trường sư phạm làm sao để đào tạo được năng lực ICT cho sinh 
viên khi ra trường họ có thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên trong 
thời đại 4.0. Bài báo sẽ bàn luận về nội dung này với ba trọng tâm chính đó là: tìm hiểu về 
năng lực ICT; phân tích kinh nghiệm điển hình của các nước trong khu vực châu Á và Thái 
Bình Dương về xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT cho sinh 
viên sư phạm và đối chiếu kinh nghiệm của các nước trong khu vực để xem hiện nay các 
trường ĐHSP ở Việt Nam đã chuẩn bị đến đâu trong việc phát triển năng lực ICT cho sinh 
viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. 
Từ khoá: Năng lực ICT, cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo giáo viên, sinh viên sư phạm. 
1. Mở đầu 
Cách mạng công nghiệp 4.0 mà điển hình là sự bùng nổ của công nghệ thông tin (ICT) 
đã làm thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới, đặc biệt là thay đổi 
vai trò của người giáo viên. Trong thời đại mới, vai trò giáo viên thay đổi từ địa vị của 
người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi trường học tập, đồng thời 
cũng là người giải quyết được các vấn đề xúc cảm và xã hội tác động đến việc học của trò; 
sẵn sàng tạo ra sự thay đổi khi việc học tập đó ngừng trệ. Chính những thay đổi đó dẫn 
đến công tác đào tạo giáo viên trong các trường sư phạm cần được nhìn nhận lại và đưa ra 
những bước đi phù hợp đáp ứng được công cuộc đổi mới này. 
Trong hai thập kỉ qua, các nghiên cứu [1] chỉ ra rằng, đào tạo giáo viên là một điểm 
Ngày nhận bài: 19/2/2019. Ngày sửa bài: 12/3/2019. Ngày nhận đăng: 20/3/2019. 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thu Hà. Địa chỉ e-mail: nguyenthuha.hnue@gmail.com 
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin 
51 
đầu vào quan trọng để đưa công nghệ thông tin vào hệ thống giáo dục và việc đào tạo năng lực 
ICT cho sinh viên sư phạm có tác động đáng kể đến việc dạy và học của ngày mai. Ở Việt 
Nam, hiện nay trong các cơ sở đào tạo giáo viên, việc phát triển năng lực nghề nói chung 
và năng lực ICT cho sinh viên nói riêng ở mỗi cuộc cách mạng hay đổi mới về giáo dục 
có những quan điểm và định hướng khác nhau. Nhưng tựu chung lại, trong bối cảnh cách 
mạng công nghiệp 4.0 sinh viên sư phạm ra trường để trở thành giáo viên bên cạnh phẩm 
chất và năng lực cốt lõi như phẩm chất công dân toàn cầu, sáng tạo và sáng nghiệp, tư duy 
phản biện, hợp tác, học tập suốt đời, giao tiếp thì cần phải có năng lực ICT. Năng lực ICT 
có vai trò quan trọng giúp giáo viên có thể khai thác, kết nối và dạy học trong một môi 
trường thực tế ảo. Điều này đặt ra vấn đề với các trường sư phạm làm sao để đào tạo được 
năng lực ICT cho sinh viên khi ra trường họ có thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của 
người giáo viên trong thời đại 4.0. Bài báo sẽ bàn luận về nội dung này với ba trọng tâm 
chính đó là: tìm hiểu về năng lực ICT; phân tích kinh nghiệm điển hình của các nước 
trong khu vực châu Á và Thái Bình Dương về xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới 
phát triển năng lực ICT cho sinh viên sư phạm; và đối chiếu kinh nghiệm của các nước 
trong khu vực để xem hiện nay các trường ĐHSP ở Việt Nam đã chuẩn bị đến đâu trong 
việc phát triển năng lực ICT cho sinh viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 và những tác động đến vai trò của người giáo viên 
* Cách mạng công nghiệp 4.0 
Bước nhảy vọt gần đây về số hoá cuộc sống và môi trường xung quanh cũng như môi 
trường làm việc của con người là một trong những động lực chính của sự thay đổi trong 
thế kỉ mới. Năm 2012, chính phủ Đức đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” 
(Industry 4.0) để đề cập đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (the fourth Industrial 
Revolution 4.0). Cách mạng công nghiệp 4.0 hay Cách mạng 4.0 hay Công nghiệp 4.0 là một giai 
đoạn phát triển mới của nền công nghiệp nói riêng và xã hội loài người nói chung; đó là một môi 
trường mà trong đó máy tính, tự động hoá và con người sẽ cùng làm việc với nhau theo một 
cách hoàn toàn mới. “Công nghiệp 4.0 là xu hướng hiện thời trong việc tự động hoá và 
trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó bao gồm các hệ thống không gian thực-ảo, 
internet vạn vật, điện toán đám mây và điện toán nhận thức” [2]. 
* Những tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến giáo viên 
Việc xuất hiện và tích hợp các công nghệ mới, trí tuệ nhân tạo và internet vạn vật kết 
nối dẫn đến các lĩnh vực kinh tế mới, những ngành nghề mới có tác động sâu sắc lên giáo 
dục và đào tạo với tất cả các mặt mà trước hết là công tác đào tạo giáo viên. Có sự lo ngại 
toàn cầu rằng, các hệ thống giáo dục của chúng ta đã lỗi thời và không thể đào tạo con em 
chúng ta một cách tương thích cần thiết cho tương lai. Các cơ sở giáo dục đại học nói chung, 
đặc biệt là cơ sở đào tạo sư phạm nói riêng đang đối diện với nhiều cơ hội và thách thức do 
ảnh hưởng của cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này là vì các cơ sở giáo dục đại học phải 
thực hiện nhiều chức năng khác nhau, kể cả dạy học, nghiên cứu và dịch vụ đều bị tác động 
bởi sự có sẵn và sử dụng công nghệ số. Trong xã hội dựa trên tri thức và số hoá của thế kỉ 
XXI, giáo dục đang đương đầu với các thách thức to lớn chuyển từ cách học truyền thống 
sang đổi mới phương pháp học. Nó đặt ra yêu cầu lớn phải chuyển đổi vai trò giáo viên - 
Nguyễn Thu Hà 
52 
người truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò mới với tư cách là người xúc tác 
và điều phối. Sự biến đổi này buộc giáo viên đối diện với nhiệm vụ một cách linh hoạt hơn 
và cần được đào tạo bồi dưỡng chuẩn bị cho các vai trò mới này. 
Dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, vai trò giáo viên đã thay đổi và đang 
tiếp tục thay đổi từ địa vị người dạy sang người thiết kế, cố vấn, huấn luyện và tạo ra môi 
trường học tập. Giáo viên phải cố vấn giúp học sinh điều chỉnh chất lượng và giá trị 
nguồn thông tin, kiến thức mới; phải là nhà chuyên môn có đầu óc mở, biết phê phán độc 
lập, hợp tác, cộng tác tích cực và điều giải người học với những gì họ cần biết, là người 
cung cấp cách hiểu theo kiểu bắc cầu (Weinberger Fischer, Mandl, 2002). Đồng thời, giáo 
viên cũng phải là một người biết lắng nghe và giao tiếp hiệu quả. Trong kỉ nguyên số này, 
vai trò người thầy đã chuyển dịch từ chỗ chỉ truyền giáo sang quản lí các hành vi tình cảm 
và xã hội của học sinh; là cố vấn thông thái cho họ học tập và phát triển toàn diện thành 
công dân cân đối; biết tạo động cơ cho các học sinh học chậm hay học nhanh trong môi 
trường số. Giáo viên phải biết quan sát theo dõi học sinh giúp họ quản lí đúng thời gian 
của mình nhằm giúp học và chắc chắn sử dụng tối ưu nguồn lực điện tử. Người thầy phải 
hướng vào các vấn đề cảm xúc và xã hội tác động lên việc học của trò và sẵn sàng tạo ra 
sự thay đổi khi việc học của trò bị đình trệ. Cuối cùng, giáo viên phải luôn là người sẵn 
sàng chia sẻ và tham gia bởi chúng ta cần nhớ rằng không cần thiết và không thể nào nắm 
giữ được mọi thông tin trong cuộc sống hằng ngày (Shah, 2014). Như vậy, trong kỉ 
nguyên số hoá này, người giáo viên phải am hiểu công nghệ. Việc giáo viên nắm bắt công 
nghệ nhằm trao quyền và cho phép bản thân họ cũng như học trò của họ sử dụng các công 
cụ và công nghệ khác nhau để cải tiến quá trình học tập. Hay nói một cách khác, giáo viên 
trong thời đại mới cần có được năng lực ICT. Năng lực ICT giúp giáo viên có thể khai 
thác, kết nối và dạy học trong một môi trường thực tế ảo. Điều này đặt ra vấn đề với các 
trường sư phạm làm sao để đào tạo được năng lực ICT cho sinh viên khi ra trường họ có 
thể làm tốt chức năng và nhiệm vụ của người giáo viên trong thời đại 4.0. 
2.2. Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông 
* Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông là gì? 
Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT - Information and Communication 
Technologies) được định nghĩa là một “tập hợp đa dạng các công cụ và tài nguyên công 
nghệ được sử dụng để trao đổi, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin” [3]. 
Các công nghệ này bao gồm máy tính, Internet, công nghệ truyền thông (đài và vô tuyến), 
và điện thoại. Trong luật Công nghệ thông tin ban hành năm 2006 [4], thuật ngữ ICT 
được định nghĩa là “tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kĩ thuật 
hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lí, lưu trữ và trao đổi thông tin số”. Như vậy, 
khái niệm ICT được quy định trong luật Công nghệ thông tin của Việt Nam đã được hiểu 
là việc lưu trữ, xử lí dữ liệu, thông tin bằng các phương tiện điện tử, và còn qua các 
phương tiện đó để trao đổi, giao tiếp, truyền đạt thông tin giữa nhiều người hoặc nhóm 
người với nhau một cách hiệu quả. 
“Năng lực ICT được xác định là khả năng sử dụng các công cụ và tài nguyên công 
nghệ để giao tiếp, tạo ra, phổ biến, lưu giữ và quản lí thông tin hiệu quả trong các hoạt 
động dạy và học. Các công cụ và tài nguyên công nghệ bao gồm thiết bị kĩ thuật 
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin 
53 
(máy tính, máy chiếu, mạng Internet,) và các phần mềm trên máy tính và các ứng dụng 
trực tuyến” [4]. 
* Năng lực công nghệ thông tin và truyền thông - một năng lực quan trọng trong 
đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 
ICT là công cụ quan trọng để bắt kịp với những phát triển mới nhất. Do bùng nổ kiến 
thức và thay đổi nhanh chóng trên thế giới, việc sử dụng ICT trong giáo dục đã trao quyền 
cho cả giáo viên và học sinh không chỉ trong việc thúc đẩy tăng trưởng cá nhân mà còn 
trong việc phát triển “xã hội tri thức”. ICT trong giáo dục đại học đang được sử dụng để 
phát triển tài liệu khóa học, cung cấp nội dung và chia sẻ nội dung; giao tiếp giữa người 
học, giáo viên và thế giới bên ngoài; tạo và phân phối thuyết trình và bài giảng; nghiên 
cứu học thuật; hỗ trợ hành chính, ghi danh học sinh Nó được coi là một trường con của 
công nghệ giáo dục, đóng một vai trò quan trọng để theo dõi và ghi lại sự tiến bộ của học 
sinh theo thời gian, địa điểm và các hoạt động đa dạng. Các năng lực của giáo viên/ 
chuyên gia học thuật đã qua đào tạo và có trình độ giởi có thể được cung cấp cho đối 
tượng lớn sinh viên thông qua các thiết lập linh hoạt và ảo. Ngoài việc nâng cao kinh 
nghiệm học tập của học sinh, ICT đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng năng 
lực cho giáo viên. Như vậy, năng lực ICT được coi là một năng lực nền tảng của sinh viên 
sư phạm nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Một sinh viên sư phạm 
được coi là có năng lực ICT khi biết: Tiếp cận thông tin về giáo dục, dạy học trên cơ sở tư 
duy phản biện; Khai thác, thu thập, sử dụng và phân tích thông tin về giáo dục và dạy học 
một cách hệ thống; Quản lí và đánh giá thông tin liên quan đến giáo dục và dạy học; Sử 
dụng và ứng dụng ICT trong dạy học, quản lí hồ sơ học tập, học tập,... sáng tạo và phù 
hợp với nguyên tắc giáo dục; và Sử dụng và sản xuất sản phẩm truyền thông đa phương 
tiện trong dạy học và giáo dục. Để đào tạo được năng lực ICT ở sinh viên sư phạm, các cơ 
sở đào tạo giáo viên cần tập trung vào việc nghiên cứu sử dụng ICT trong đào tạo và cách 
thức các giảng viên và sinh viên sư phạm sử dụng công cụ này để thúc đẩy việc giảng dạy 
và nghiên cứu khoa học một cách sáng tạo và hiệu quả. 
2.3. Kinh nghiệm điển hình của các nước châu Á - Thái Bình Dương trong việc xây 
dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực công nghệ thông tin và 
truyền thông cho sinh viên sư phạm 
Việc xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT cho sinh 
viên sư phạm được tiến hành ban đầu để hỗ trợ các trường sư phạm ở các nước châu Á - 
Thái Bình Dương. Khung năng lực này là sản phẩm của các hoạt động hợp tác của các 
học giả từ 3 tổ chức giáo dục hàng đầu khu vực, tham khảo ý kiến và phản hồi từ các 
trưởng khoa sư phạm và các bên liên quan đến việc đào tạo giáo viên trong khu vực [1]. 
Việc xây dựng cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển năng lực ICT bao gồm sáu 
khía cạnh chiến lược, đó là: (1) Tầm nhìn và triết lí; (2) Chương trình đào tạo, Đánh giá 
và Thực tập; (3) Phát triển nghề nghiệp của các trưởng khoa, giảng viên chủ chốt và nhân 
viên hỗ trợ; (4) Kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ ICT; (5) Truyền thông và 
quan hệ đối tác; và (6) Nghiên cứu và Đánh giá (Hình 1). 
2.3.1. Tầm nhìn và triết lí 
Việc tạo ra một tầm nhìn chung và triết lí cơ bản cung cấp cho cán bộ quản lí và 
giảng viên trong nhà trường một phương tiện để trao đổi xuyên suốt về sử dụng ICT hiệu 
Nguyễn Thu Hà 
54 
quả trong giảng dạy, học tập và quản trị ở các cơ sở đào tạo giáo viên. Để có được tầm 
nhìn và triết lí về ICT, các cơ sở đào tạo giáo viên cần có: Tầm nhìn xuyên suốt cho ICT 
trong đào tạo; triết lí nền tảng cho việc dạy và học với ICT và đánh giá về ICT trong tầm 
nhìn đào tạo. 
Tầm nhìn xuyên suốt cho ICT trong đào tạo: Churchill và Lim (2007) chỉ ra rằng một 
rào cản đối với hội nhập ICT trong đào tạo là sự thiếu tầm nhìn toàn diện của các nhà lãnh 
đạo. Quá trình này cần bao quát tầm nhìn của tất cả các thành viên của nhà trường thay vì 
tầm nhìn từ trên xuống do ban giám hiệu áp đặt. Bên cạnh đó, tầm nhìn phải được xây 
dựng tương thích với môi trường xã hội, việc hiểu biết toàn diện hơn về hiện tại và xu 
hướng trong tương lai đưa đến một tầm nhìn xuyên suốt mạnh mẽ và phù hợp hơn về ICT 
trong giáo dục. 
Hình 1. Chiến lược của cơ sở đào tạo giáo viên hướng tới phát triển 
năng lực ICT cho sinh viên 
- Triết lí nền tảng cho việc dạy và học với ICT: là một phần không thể tách rời của 
mối liên kết bên trong giữa các giảng viên cốt cán và các nhà lãnh đạo trong các cơ sở đào 
tạo giáo viên nhằm kiểm tra lại vai trò của họ theo thời gian. Hầu hết các chuyên gia công 
nghệ giáo dục ủng hộ việc sử dụng ICT để tạo thuận lợi cho các quá trình kiến tạo kiến 
thức (Selwyn, 2008). Kiến thức từ quan điểm kiến tạo là những ý tưởng dự kiến về thế 
giới và học tập là một quá trình xây dựng sự hiểu biết tốt hơn về các hiện tượng. Sự hiểu 
biết về niềm tin và quan điểm hiện tại của các nhà giáo dục và quản lí có  ... á của một tổ chức đào tạo giáo viên trong các hoạt động, chính sách, 
giảng dạy, học tập, quản lí và quản lí ICT. Nghiên cứu có thể cung cấp dữ liệu hữu ích để 
định giá và đề xuất các lĩnh vực cần chú ý. Đánh giá được tổ chức thường xuyên và phù 
hợp, cũng như theo dõi tiếp theo về kết quả của nó, là một công cụ quan trọng để cải thiện 
và phát triển hệ thống. Một chính sách và thông lệ về ICT hiện hành cần phải được kiểm 
tra và đánh giá thường xuyên để xác định các yếu tố cần cải thiện và sửa đổi. Điều quan 
trọng là tất cả các bên liên quan chính từ các cơ sở đào tạo giáo viên đều tham gia vào 
việc kiểm toán, xác định các khoảng trống và các lĩnh vực cần cải tiến, và sửa đổi. Ngoài 
ra, các chuyến thăm tới các tổ chức khác và đánh giá các thông lệ tốt ở nơi khác, có thể 
đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh giá tổng thể các hoạt động ICT và chính sách. 
Ngoài ra, một cơ sở đào tạo giáo viên sẽ được hưởng lợi từ việc đánh giá thường xuyên 
việc dạy và học về sự phù hợp tiềm năng, sự phù hợp của nội dung chương trình giảng 
dạy và sự phù hợp của các mặt chính yếu trong thực hành sư phạm và sử dụng ICT. Đánh 
giá giảng dạy và học tập thường xuyên có thể được thực hiện thông qua các quy trình 
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin 
59 
đánh giá giờ giảng của giáo viên, quan sát trong lớp học, đánh giá hiệu quả của giáo viên, 
hay từ các phản biện bên ngoài. Bên cạnh đánh giá tổng hợp, sẽ rất hữu ích nếu các tổ 
chức xây dựng tiêu chí đánh giá chính thức của riêng mình cho việc dạy và học. Đánh giá 
quá trình sẽ cho phép cải tiến liên tục trong việc dạy và học và khi các khu vực liên quan 
để cải tiến được xác định. Giáo viên phải đóng vai trò hàng đầu trong việc quản lí và tạo 
điều kiện đánh giá quá trình, và thực hiện sửa đổi cần thiết. Trong mọi trường hợp, dữ liệu 
và kết quả đánh giá phải được xem xét cẩn thận và các cuộc thảo luận về khả năng sửa đổi 
và cải tiến trong giảng dạy và học tập nên được thực hiện đặt trong các phòng ban và ủy 
ban liên quan. 
Tóm lại, sáu khía cạnh và các mối quan hệ liên quan của nó là các phạm trù rộng lớn 
của các hoạt động chiến lược mà các cơ sở đào tạo giáo viên cần phải tham gia để duy trì 
sự phù hợp trong điều kiện hiện nay nhằm phát triển năng lực ICT. Mỗi khía cạnh có 
những thách thức riêng của nó. Khi đặt lại với nhau, những thách thức này có thể nan giải 
và việc thực hiện khó có thể suôn sẻ. Nhiều sai lệch và mâu thuẫn có khả năng xuất hiện. 
Vì vậy, điều cần thiết là các cơ sở đào tạo giáo viên nên bắt tay vào các quy trình thực 
hiện và lập kế hoạch hợp tác và tập thể để thúc đẩy thay đổi hệ thống cần thiết. Thực hiện 
khung hành động này cần phải được quản lí và lãnh đạo bởi tầm nhìn tổng thể và sẵn sàng 
cho sự tiến bộ, bền vững, phù hợp và đổi mới, và xem xét các nhu cầu cụ thể và bản chất 
của bối cảnh cụ thể nhất là trong bức tranh năng động thời đại, sự tiến bộ không ngừng 
công nghệ và thay đổi nhu cầu của các ngành công nghiệp và xã hội. Khung năng lực này 
rất linh hoạt và sẵn sàng điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu mới nổi của đào tạo giáo viên 
trong các lĩnh vực khác nhau. Sáu khía cạnh của khung được thiết kế với ý tưởng “linh 
hoạt và với mục tiêu thúc đẩy các cải tiến liên tục của các cơ sở đào tạo giáo viên”. 
2.4. Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công 
nghệ thông tin và truyền thông đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 
Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức do toàn cầu hoá, cách mạng số hóa 
và ICT đưa đến. Không còn cách nào khác là phải tiến hành cải cách triệt để đổi mới sư 
phạm. Trên cơ sở đó, cần đề xuất các giải pháp mới, thiết thực và hữu hiệu trong đào tạo, 
bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm nhằm thực sự nâng cao vai trò, vị thế của 
ngành sư phạm trong công cuộc đổi mới giáo dục. Một thuận lợi lớn là ngành sư phạm của 
chúng ta được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đảng 
cộng sản Việt Nam đánh giá cao vai trò người thày trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn lãnh 
đạo đúng đắn, chỉ đạo kịp thời, sắc bén và ban hành nhiều chủ trương, chính sách hợp lí. 
Gần đây nhất, Nghị quyết số 29/2013 của BCH TW Đảng về giáo dục, nhấn mạnh: cần tiếp tục 
đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi 
trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học; Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương 
pháp dạy và học theo hướng hiện đại” (2013). Đội ngũ giảng viên các cơ sở đào tạo sư 
phạm ngày càng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Các thầy cô giáo vốn có lòng yêu 
nghề, luôn coi trọng tri thức, chăm lo, dìu dắt thế hệ trẻ; lấy dạy chữ, dạy người làm lẽ 
sống của mình. Đây là những người luôn coi trọng danh dự, lương tâm, xác lập vị trí của 
mình trong xã hội bằng tài năng, đức độ, học vấn và thái độ tận tụy cống hiến. Tuy nhiên, 
chúng ta đang phải đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ của toàn cầu 
hóa, quốc tế hóa và cách mạng số trên phạm vi toàn cầu cũng như trên toàn quốc. Hiện 
Nguyễn Thu Hà 
60 
nay các trường ĐHSP trên cả nước đã có sự chuẩn bị ở tất cả các mặt để đáp ứng yêu cầu 
của bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 [5]. 
- Tầm nhìn và triết lí chiến lược: Các trường đã có kế hoạch và triển khai xây dựng, 
tuyên bố sứ mạng, tầm nhìn, chiến lược phát triển Nhà trường qua từng giai đoạn, trong 
đó việc ứng dụng ICT trong giảng dạy, nghiên cứu và quản trị nhà trường có vai trò quan 
trọng nhằm đào tạo ra những sinh viên vừa có năng lực chuyên môn và năng lực sư phạm, 
nhất là năng lực ICT. 
- Chương trình: Chương trình đào tạo là yếu tố then chốt cho việc đảm bảo chất 
lượng đào tạo. Tất cả các chương trình đều có quy trình thiết kế, phát triển, thẩm định, 
thực hiện, giám sát, điều chỉnh và cập nhật chương trình, gắn kết với sứ mạng, tầm nhìn 
chiến lược, mục tiêu của trường và với nhiệm vụ mà Nhà nước giao phó. Các trường đều 
chú trọng đến việc ứng dụng ICT trong giảng dạy như việc khai thác, kết nối thông tin và 
đưa ra các chương trình với hình thức học tập trực tuyến. 
- Đánh giá và công nhận kết quả học tập: các trường đã chuyển đổi hoàn toàn sang 
phương thức đào tạo theo tín chỉ, thực hiện đồng bộ từ khâu xây dựng đề cương học phần, tổ 
chức đăng ký lớp học phần, công nhận kết quả học tập tích lũy tín chỉ, đảm bảo thực hiện 
đúng qui định về đào tạo theo học chế tín chỉ. Hoạt động đánh giá và công nhận kết quả hoạt 
động đã đi vào nề nếp, quy trình rõ ràng, gắn với việc ứng dụng ICT. 
- Phát triển nghề của trưởng khoa và giảng viên sư phạm chủ chốt: Các trường ĐHSP 
luôn coi trọng việc hỗ trợ công tác dạy học cho giảng viên trong trường. Các trường luôn 
luôn nỗ lực không ngừng để tạo ra một hệ thống hỗ trợ dạy học hiệu quả, giúp đỡ và tạo 
điều kiện cho các giảng viên tập sự và giảng viên trẻ làm quen với môi trường giáo dục 
đại học, không ngừng cố gắng trong rèn luyện và nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ của 
bản thân. Giảng viên được khuyến khích, tạo điều kiện để thực hiện vai trò là người 
hướng dẫn một cách hiệu quả, đặc biệt là ứng dụng ICT trong giảng dạy, nghiên cứu và 
phát triển chương trình. 
- Kế hoạch, cơ sở hạ tầng, tài nguyên và hỗ trợ ICT: Các nguồn lực bao gồm nguồn 
lực tài chính và nguồn nhân lực được các trường xác định là chìa khóa cho sự thành công 
để từ đó nhà trường có kế hoạch, chính sách và cơ chế hỗ trợ liên tục nhằm cải tiến không 
ngừng để sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả, hướng đến đào tạo nguồn nhân lực 
chất lượng cao có trình độ đại học và trên đại học, bồi dưỡng nhân tài cho hệ thống giáo dục 
quốc dân và xã hội; nghiên cứu khoa học cơ bản, khoa học giáo dục và khoa học ứng dụng 
đạt trình độ tiên tiến; cung cấp dịch vụ giáo dục và khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Các trường đã nỗ lực trong công 
tác xây dựng hệ thống cơ sở vật chất trang thiết bị hiện đại, tiến hành trang bị, lập kế hoạch 
bảo trì và lên phương án sử dụng phù hợp với các mục đích đào tạo của Trường, phù hợp 
với nhiều phương thức, phương pháp dạy và học. Hạ tầng ICT duy trì thường xuyên và đã 
cơ bản đáp ứng nhu cầu cho cán bộ làm việc, giảng dạy, học tập và nghiên cứu. 
- Truyền thông và quan hệ đối tác: Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 
đang diễn ra mạnh mẽ, sự trao đổi và hợp tác giữa các quốc gia, các tổ chức hướng tới các 
chuẩn mực quốc tế là điều tất yếu không thể đảo ngược. Vì vậy, hoạt động đối ngoại được 
các trường ĐHSP xác định là vấn đề rất quan trọng để kết nối nhà trường với các địa 
phương ở trong nước, các tổ chức giáo dục trong và ngoài nước, nhằm nâng cao chất 
lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tiệm cận và bắt kịp xu hướng phát triển với xu 
Sự chuẩn bị của trường đại học sư phạm trong việc phát triển năng lực công nghệ thông tin 
61 
hướng phát triển giáo dục trên thế giới. Các trường mở rộng quan hệ hợp tác tích cực, chủ 
động với nhiều đối tác trong và ngoài nước ở nhiều cấp độ và trên nhiều lĩnh vực. Các 
lĩnh vực trao đổi hợp tác rất đa dạng từ đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, trao đổi 
học thuật, chuyển giao công nghệ cho tới các hoạt động phục vụ cộng đồng. Hoạt động 
hợp tác, trao đổi, chia sẻ của nhà trường với các đối tác ngày càng mở rộng đã mang lại vị 
thế, uy tín của nhà trường ngày càng cao ở trong nước cũng như trên trường quốc tế. 
- Hợp tác quốc tế: Các trường có chủ trương, chính sách khuyến khích cán bộ viên 
chức phát huy tính chủ động, tích cực trong các hoạt động kết nối, phát triển giao lưu quốc 
tế. Các hoạt động liên kết, ký kết hợp tác với các Trường đại học khác trên thế giới luôn 
được duy trì và phát triển. Đội ngũ giảng viên thông thạo ngoại ngữ ngày càng tăng. 
- Thông tin và truyền thông: Các thông tin về các hoạt động của các trường (đào tạo, 
công tác sinh viên, khảo thí, thanh tra, đoàn thể) được đăng tải thường xuyên tại trang 
điện tử của Trường và cổng thông tin của các đơn vị; được các đơn vị báo, đài chú ý đưa 
tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. 
- Nghiên cứu và đánh giá: được thể hiện rõ trong kế hoạch hoạt động khoa học công 
nghệ hàng năm, kế hoạch khoa học công nghệ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, các chính 
sách dành cho các hoạt động khoa học công nghệ của cán bộ, giảng viên. Việc nghiên cứu 
và đánh giá của các trường sư phạm hiện nay đều có sự ứng dụng ICT trong quá trình 
triển khai và thực hiện. 
3. Kết luận 
Có thể nói, cách mạng Công nghiệp 4.0 với những bước tiến nhảy vọt về ICT đã làm 
thay đổi sứ mệnh và mục tiêu của giáo dục trong thời đại mới. Việc thay đổi vai trò của 
người giáo viên trong thời đại mới dẫn công tác đào tạo giáo viên trong các trường sư 
phạm ở Việt Nam cần được nhìn nhận lại và đưa ra những bước đi phù hợp đáp ứng được 
công cuộc đổi mới này. Theo đó, để đào tạo được sinh viên sư phạm trở thành người giáo 
viên trong thời đại cách mạng 4.0 với phẩm chất và năng lực chuyên môn và sư phạm, 
nhất là có được năng lực công nghệ thông tin thì các trường sư phạm phải nhanh chóng 
đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp dạy-học, phương thưc đánh giá kết 
quả đầu ra của sinh viên, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo hướng thực học, thực nghiệp 
và định hướng vào công nghệ mới. Cần đầu tư nhiều hơn về công nghệ giáo dục tiên tiến, 
áp dụng đào tạo online, kết nối mạng để bồi dưỡng năng lực nghề cho sinh viên, giáo viên, 
giáo sinh tập sự trong hệ thống nối mạng mở rộng và thống nhất trong toàn quốc và trên 
toàn cầu. Chỉ có như vậy mới có thể tiếp tục đổi mới các giải pháp chiến lược quốc gia 
mới cho đào tạo, bồi dưỡng giáo viên theo hướng mở, kết hợp đào tạo ban đầu với đào tạo 
liên tục; Đào tạo giáo viên ở trường sư phạm phải gắn với thực tiễn dạy-học ở trường phổ 
thông; Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học tiên tiến; kiện toàn công tác quản lí nhà 
giáo, nhà trường; nâng cao đãi ngộ người thày có trình độ, am hiểu ứng dụng công nghệ; 
Tăng cường hội nhập quốc tế, hợp tác với các cơ sở đào tạo sư phạm hàng đầu trên thế 
giới và trong khu vực; Tôn vinh nghề dạy học đi đôi với đề cao đổi mới vai trò người thầy; 
Xây dựng cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi thu hút và sử dụng mạnh mẽ các 
nguồn đầu tư nước ngoài cóp sẵn cho đào tạo giáo viên nhằm nâng cao năng lực nghề dạy 
học trong kỉ nguyên số hóa. 
Nguyễn Thu Hà 
62 
Lời cảm ơn. Bài báo là sản phẩm Nghiên cứu của đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ 
năm 2018 “Giải pháp phát triển năng lực sinh viên đại học sư phạm trong bối cảnh cách 
mạng công nghiệp 4.0”. Mã số: B2018-SPH-01HT. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Cher Ping LIM, Ching Sing CHAI, Daniel CHURCHILL, A framework for 
developing pre‐service teachers’ competencies in using technologies to enhance 
teaching and learning, Educational Media International. 2-June 2011. 
[2] Xi Bei XIONG và Cher Ping LIM (The Hong Kong Institute of Education, Hong 
Kong S.A.R). Rethinking the impacts of teacher education program on building the 
ICT in education competencies of pre-service teachers: A case of teacher education 
in Mainland China. 2014. 
[3] UNESCO, 2011. UNESCO ICT Competency Framework for Teachers, France. 
[4] Thái Hoài Minh, Trịnh Văn Biểu. Xây dựng khung năng lực ứng dụng công nghệ 
thông tin và truyền thông trong dạy học cho sinh viên sư phạm hóa học. Tạp chí 
Khoa học ĐHSP Thành phố HCM. Số 7 (85) năm 2016. 
[5] Báo cáo tự đánh giá theo bộ chỉ số phát triển năng lực trường sư phạm (TEIDI) 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Đại 
học Sư phạm Thái Nguyên, 2017. 
ABSTRACT 
Preparation of the education university for development of information technology 
and communication competence for students to meet the requirements 
on industrial revolution 4.0 
Nguyen Thu Ha 
The Institute For Educational Research, Hanoi National University of Education 
Industrial Revolution 4.0 with leaps and bounds in ICT has changed the mission and 
goals of education in the new era, especially changing the role of teachers. Accordingly, 
to become a teacher in the 4.0 era, in addition to core qualities and competencies such as 
global citizenship, creativity, critical thinking, cooperation, lifelong learning, requires ICT 
competency. ICT competence plays an important role, allowing teachers to exploit, 
connect and teach in a virtual reality environment. This poses a problem for pedagogical 
universities how to train ICT competency for students when they graduate, they can do 
well the functions and duties of teachers in the 4.0 era. The article will discuss this 
content with three main points: understanding ICT competency; analyzing typical 
experiences of countries in Asia and the Pacific in building teacher education institutions 
towards developing ICT competency for pedagogical students; and contrast the 
experience of regional countries to see how well the universities in Vietnam have 
prepared in developing ICT competency for students to meet the requirements of 
industrial revolution 4.0. 
Keywords: ICT competency, industrial revolution 4.0, training teachers, pedagogical 
students, teacher education institutions. 

File đính kèm:

  • pdfsu_chuan_bi_cua_truong_dai_hoc_su_pham_trong_viec_phat_trien.pdf